← Quay lại trang sách

3. LỜI TIÊN ĐOÁN CỦA GIÁM SINH HỌ ĐỖ

Nguyễn Hữu Chỉnh hiệu Bằng Lĩnh Hầu, quê làng Cổ Đan xã Đông Hải huyện Chân Phúc, nay là xã Phúc Thọ, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, con trai trưởng của Đại phu đô đốc, Phủ tả đô đốc Thái bảo Hải quận công - phú thương Nguyễn Mẫn.

Về gia thế của Nguyễn Hữu Chỉnh, có rất nhiều dã sử nói về ông. Tương truyền, cha của Nguyễn Hữu Chỉnh là một người gia tư rất giàu có. Đời Lê Hiển Tông, có một năm Bắc Hà mất mùa, dân cư đói kém đến cùng cực. Trái lại, hai trấn Thanh và Nghệ lại rất sung túc. Triều đình liền hạ lệnh cho hai trấn Đường Trong phải chở thóc kho ra cứu tế cho Bắc Hà. Trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Như Châu cho đòi nhiều người đến giao việc chuyên chở nhưng không ai chịu đi. Duy có Nguyễn Mẫn khảng khái xin đảm nhiệm, công việc hoàn tất, Nguyễn Mẫn được thưởng rất nhiều tiền thành ra giàu có.

Lại có ý kiến cho rằng, thời kỳ ấy, chiến tranh Trịnh Nguyễn nổ ra. Chúa Nguyễn và chúa Trịnh đều cần huy động tiền cho chiến tranh nên thời kỳ này, giao thương tương đối phát triển. Khi ấy, Nguyễn Mẫn là một nhà buôn muối, chuyên chở muối lên kinh thành và đã có dịp tiếp xúc với Hoàng Ngũ Phúc. Việc quan lại và thương nhân câu kết với nhau để làm giàu là chuyện hiển nhiên. Vì buôn bán nên chẳng bao lâu sau Nguyễn Mẫn trở thành một nhà giàu có trong vùng.

Khi trở nên giàu có, Nguyễn Mẫn hy vọng sau này các con ông sẽ ngày càng phát đạt nên có ý tìm đất để đặt mộ. Và ông đã tìm đến giám sinh họ Đỗ nhờ đặt mộ cho gia đình mình.

Theo gia phả họ Đỗ ở xã Thanh Mai, huyện Thanh Chương thì trong dòng tộc có một vị giám sinh tên là Đỗ Công Bàn rất giỏi địa lý phong thuỷ. Đỗ Công Bàn đã điểm cho huyệt đất “phát tướng” ớ núi Côn Bằng, về sau Nguyễn Hữu Chỉnh thành tướng giỏi lừng lẫy Bắc Hà, được Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ tiếp đãi hàng thượng khách. Chuyện này cũng được Phạm Đình Hổ nói trong sách Tang thương ngẫu lục...

Chuyện còn kể rằng, sau một thời gian tìm kiếm, Đỗ Công Bàn cho Nguyễn Mẫn biết đã tìm thấy hai huyệt mộ ở huyện Can Lộc. Về huyệt thứ nhất, Đỗ giám sinh cho biết, táng vào đây thì:

Côn dược tam thiên, công hầu miên miên

Nghĩa là: Cá côn vượt ba nghìn, đời nào cũng có công, hầu.

Về huyệt thứ hai ở núi Bằng, Đỗ giám sinh nói:

Bằng đoàn cửu vạn, thiên hạ đại loạn

Nghĩa là: Chim bằng bay chín vạn, thiên hạ đại loạn.

Nghe Đỗ giám sinh phán, Nguyễn Mẫn quyết định xin táng ở Bằng Sơn. Nghe Nguyễn Mẫn bày tỏ ý muốn của mình, Đỗ giám sinh đọc tiếp:

Nhất phát bất như tái phát, tái phát bất như tam phát, kinh thiên động địa.

Nghĩa là: Phát lần thứ nhất không bằng lần thứ nhì, thứ nhì không bằng thứ ba, long trời lở đất.

Không rõ việc đặt huyệt mộ linh thiêng thế nào nhưng một thời gian sau, bà Nguyễn Thị Hùng Nhị - vợ Nguyễn Mẫn sinh ra Nguyễn Hữu Chỉnh. Ngay khi mới sinh, Nguyễn Hữu Chỉnh khóc ngằn ngặt ròng rã mấy ngày trời. Đỗ Công Bàn sang thăm nghe tiếng khóc, lắc đầu nói:

- Ngày sau loạn thiên hạ tất là thằng bé này. Thật tội ở ta nhiều lắm.

Nguyễn Hữu Chỉnh cứ khóc mãi, mọi người chuyền tay nhau bế, nhưng ai dỗ cũng không nín. Chợt một người con gái xinh đẹp tự xưng là cô Lự đi qua, xin vào dỗ giúp. Theo tục truyền, cô Lự vốn là Thần nữ núi Vu Sơn bên Tàu, khi Thám hoa Nguyễn Lai Thạch sang sứ Yên Kinh có qua núi này, Thần nữ núi Vu Sơn hiện lên trêu ghẹo ông, rồi theo ông về Nam và lấy tên là cô Lự (???)

Lại nói, Nguyễn Mẫn không biết làm thế nào cho con nín, đành liều trao phó con mình cho cô. Cô Lự bồng Nguyễn Hữu Chỉnh và ru:

Rau răm một cụm ba đồng,

Anh đi xứ Quảng xứ Đông chưa về.

Bao giờ răm mọc rậm rì,

Anh ra xứ Bắc gửi yếm đào về cho em.

Nghe câu hát ru đó, Nguyễn Hữu Chỉnh nín bặt. Phải chăng câu hát đã ám chỉ tương lai sau này của Nguyễn Hữu Chỉnh là lập thân ở Quảng Nam và khi ra Bắc Hà sẽ đạt được danh vọng bậc nhất trong tòa lâu đài phú quý?

Chẳng rõ do sau này con đường hoạn lộ của Nguyễn Hữu Chỉnh ngày càng rộng mở hay không nhưng thời ấy, thiên hạ đã đồn thổi rằng, ngôi mả tổ của Nguyễn Hữu Chỉnh nằm trên núi Côn Bằng, có thế ngàn vạn con rồng đuổi ngàn vạn con hổ nên xưng bá xưng vương đều được như ý. Có lẽ nhân đó mà Nguyễn Hữu Chỉnh đã tự đặt cho mình tên hiệu là Bằng lĩnh hầu chăng?

Tết Nguyên Đán, Hữu Chỉnh theo cha đến mừng tuổi thầy học. Lúc này Hữu Chỉnh mới lên 9 tuổi nhưng đã tỏ ra đĩnh ngộ, thông minh khác thường.

Sau khi lạy thầy học và đưa quà biếu tết thầy, thấy Hữu Chỉnh cứ chăm chú nhìn tràng pháo thầy treo sẵn để đốt lúc giao thừa, thầy buột miệng:

- Trò Chỉnh, sao trò cứ nhìn chăm chú tràng pháo ấy thế. Trò có thể làm thơ vịnh tràng pháo đó được không? Nếu trò làm được, thầy sẽ thưởng cho trò tràng pháo mà trò thích.

Nghe thầy nói, mắt Nguyễn Hữu Chỉnh sáng lên. Hữu Chỉnh xin phép thầy và đọc một mạch:

Xác không vốn những cậy tay người,

Bao nả công trình, tạch cái thôi!

Kêu lắm lại càng tan tác lắm,

Thế nào cũng một tiếng mà thôi.

Nghe xong bài thơ vịnh pháo của Hữu Chỉnh, thầy học lắc đầu buồn rầu than:

- Thằng bé này sau công nghiệp ắt to lớn lắm nhưng rồi làm loạn đời, tất cũng là nó!

Về câu chuyện này, có ý kiến cho rằng, người đời chiêm nghiệm cuộc đời của Nguyễn Hữu Chỉnh rồi gán ghép bài thơ ấy cho ông, xem như đó là một lời tiên báo. Lại có người luận rằng “khẩu khí” bài này cho thấy Nguyễn Hữu Chỉnh không có thực tài, làm nên sự nghiệp đều “cậy tay người”, song càng trèo cao càng ngã đau, rút cục chết phanh thây mà công danh cũng không còn, khác nào như pháo, chỉ nổ tạch một tiếng, tan xác là hết.

Đó là miệng tiếng thế gian, sau này còn theo lời truyền lại, ngay từ nhỏ, Nguyễn Hữu Chỉnh đã nổi tiếng học rất giỏi. Năm 16 tuổi, Nguyễn Hữu Chỉnh thi đỗ Hương cống nên còn gọi là cống Chỉnh.

Nguyễn Hữu Chỉnh thuộc làu nhiều sách, lại lớn lên trong thời buổi loạn lạc nên cho rằng, chí làm trai nếu chỉ biết nghiên bút vị tất đã làm nên sự nghiệp lớn. Vì thế, Nguyễn Hữu Chỉnh vừa học văn, vừa luyện tập các môn võ nghệ.

Thời ấy, Nguyễn Hữu Chỉnh nổi tiếng ở kinh kỳ là người có tài ứng đối chữ nghĩa. Thêm nữa, vốn xuất thân trong một gia đình người cha là thương nhân, Nguyễn Hữu Chỉnh đã tiếp thu được tính năng động của cha, luôn là người “thức thời” với thời thế, không thích bó buộc vào khuôn phép.

Ngay từ khi còn trẻ, hoàn cảnh kinh tế gia đình có phần dư dả, lại được người cha truyền cho ý nghĩ phải giành lấy một chỗ đứng trong xã hội nên ngoài việc học hành, Nguyễn Hữu Chỉnh nhận thấy cần phải giao du, kết bạn càng nhiều càng tốt. Vì thế, trong các buổi tiệc chiêu đãi bạn bè, Nguyễn Hữu Chỉnh luôn tỏ ra là người hào phóng, giao du rộng rãi. Ông nổi tiếng là người vừa có tài hùng biện của một chính khách vừa có chất phong lưu hào sảng của một văn nhân.

Trong tư dinh tại làng Cổ Đan, ông nuôi vài chục người hầu tuổi mười tám đôi mươi, vừa giỏi tề gia nội trợ vừa giỏi đàn hát để góp vui cùng những văn tài hiền sĩ trong vùng là bạn thân của ông. Khi nhà có đại tiệc, ông cho người đến làng ca trù Cổ Đạm bên Nghi Xuân mời tốp đào kép đào nương về nhà, biểu diễn thâu đêm các sáng tác mới của ông và của văn tài bạn hữu.

Nguyễn Hữu Chỉnh thi đậu Hương cống năm 16 tuổi. Ngay từ thời đó, Nguyễn Hữu Chỉnh đã nhận thấy cảnh tranh giành quyền lực năm phe bảy phái, thời thế chao đảo, bất ổn. Vì thế, ông cho rằng thi thố tài năng trong cảnh đại loạn này, không thể níu giữ ngọn bút lông, chỉ biết đắm mình trong giáo lý. Ảnh hưởng tính thực tế của cha, Nguyễn Hữu Chỉnh quyết định phải gắng sức lục thao tam lược, lập nghiệp bằng nghề võ. Ông dày công luyện tập nhưng khi triều đình mờ khoa thi bác cử (khoa thi võ), ông ra Thăng Long song không đỗ, đành trở về nhà và gửi gắm tâm sự trong những bài thơ, ngụ cái bất đắc như ý của mình.

Phận đành yên phận, chửa yên thân

Vàng, bạc còn chen đám tục trần

Trong hãy trả ơn bề cốt nhục

Ngoài càng luống tưởng đạo quân thân

(Vô đề)

Sau đó, ông càng quyết chí theo đuổi nghiệp võ. Vốn là dân miền biển, dần dần ông không chỉ thông thạo 18 ban võ nghệ, nổi tiếng về cưỡi ngựa múa đao mà còn rất giỏi về thủy chiến. Từ một nhà Nho trói gà không chặt, ông trở thành một lực sĩ “xách nổi hàng mấy trăm cân”.

Sống trong cảnh xã hội nhiễu nhương, chia bè kéo cánh, Nguyễn Hữu Chỉnh nhận thấy không thể tồn tại khi đơn thương độc mã. Nhờ mối thân tình từ trước giữa cha mình - ông Nguyễn Mẫn với Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Hữu Chỉnh quyết định ra mắt Việp quận công - một danh tướng Bắc Hà rất được chúa Trịnh tin dùng.

Lần đầu tới dinh Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Hữu Chỉnh đã có thái độ ung dung, tự tin, không tỏ ra xun xoe, luồn cúi. Vốn biết rõ về Nguyễn Mẫn, Hoàng Ngũ Phúc ngắm nhìn Hữu Chỉnh khá lâu. Sau một hồi trò chuyện, hỏi thăm về Nguyễn Mẫn, Hoàng Ngũ Phúc mới hỏi han về ý định của Nguyễn Hữu Chỉnh khi tới dinh của ông. Nguyễn Hữu Chỉnh thành thật kể cho Việp quận công rõ mong muốn sau này sẽ trở thành một người như Quách lệnh công, có thể thi thố tài năng, giúp hai vị vua Đường Túc Tông và Đường Đại Tông mưu đồ việc trung hưng. Việp quận công thích thú lắng nghe Nguyễn Hữu Chỉnh nói và hỏi:

- Ta nghe nói ngươi làm bài phú Quách Lệnh Công, các danh sĩ ở kinh đô thi nhau tìm đọc. Vậy có thể cho ta nghe vài câu được không?

Nguyễn Hữu Chỉnh nói:

- Việp quận công đã cho phép, sao cháu dám chối từ.

Và Nguyễn Hữu Chỉnh vui vẻ đọc:

Hai kinh trợ lệch phò nghiêng,

Tắt binh lửa đặng ngôi triều thị

Việp quận công im lặng ngồi nghe. Sau khi đọc xong, Nguyễn Hữu Chỉnh lễ phép nói:

- Thưa quận công, Quách Lệnh Công là một tướng giỏi đời Đường, đã giúp Đường Túc Tông dẹp loạn An Lộc Sơn, thu phục kinh đô Tràng An. Họ Quách đã lập công danh bằng tài sức mình chứ không “cậy tay người”, đấy chính là mẫu người lý tưởng, đáng được ca tụng.

Nghe Nguyễn Hữu Chỉnh nói vậy, Hoàng Ngũ Phúc nhận ra chàng thanh niên này có ý chí khác thường, đang ôm ấp hoài bão vươn đến đỉnh cao nhất của công lao và danh vọng, mong được ra vào trăm trận lập công, được lưu danh sử sách, tự ví mình với những bậc được người đời tôn thờ như Trương Tử Phòng, Quách Tử Nghi, và đặc biệt muốn “xã tắc lấy mình làm nặng nhẹ”. Quả thực, dám lấy bản thân làm thước đo cho cả thời đại, đúng là một ý tưởng táo bạo và ngang tàng.

Sau đó, Việp quận công cho người tìm hiểu thêm về Cống Chỉnh, người này rất khen ngợi Chỉnh, lại còn dẫn ra đôi câu đối Cống Chỉnh đề ở cánh cửa:

Mở khép càn khôn có ra tay mới biết

Ra vào khanh tướng, thử mở mắt mà coi.

Nhân đó, liền quyết định dùng làm gia khách. Năm 1774, Hoàng Ngũ Phúc được phong làm thống tướng, đem quân đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong và cho Nguyễn Hữu Chỉnh đi theo quân thứ, giữ công việc thư ký.

Hoàng Ngũ Phúc nhận lệnh vượt sông Gianh xâm chiếm Đàng Trong. Nguyễn Hữu Chỉnh được lệnh đi theo quân ngũ. Sống bên cạnh Hoàng Ngũ Phúc, tiếp xúc với nhiều tin tức từ triều đình truyền về, Nguyễn Hữu Chỉnh ngày càng nhận thức rõ đại cục rối ren. Ông biết từ Thuận Hoá trở ra Bắc là vùng chiếm giữ của vua Lê - chúa Trịnh, phía nam là vùng đất của chúa Nguyễn. Vua Lê tại vị chỉ trên danh nghĩa, quyền lực nằm cả trong tay chúa Trịnh. Cục diện phân tranh Trịnh - Nguyễn còn đang bất phân thắng bại thì lại xuất hiện một lực lượng thứ ba. Anh em Tây Sơn nổi lên, chiếm Quy Nhơn rồi xin làm phiên thuộc của họ Trịnh, diệt chúa Nguyễn, làm chủ phần đất từ Quảng Ngãi đến Gia Định. Sau đó, Nguyễn Nhạc xưng đế, đặt niên hiệu Thái Đức.

Nhiều thế lực nổi lên xây dựng sự nghiệp bá vương. Kẻ sĩ bị phân hóa, người từ chối quan trường, người chọn vua mà trung, chọn chúa mà thờ. Nguyễn Hữu Chỉnh cũng vậy, ông đã quyết định theo Hoàng Ngũ Phúc và quyết tâm từ vị trí là một người tâm phúc của Việp quận công, sẽ có điều kiện thi thố tài năng.

Kiêm Long được chúa Nguyễn phái đến trại của Việp quận công, truyền lại ý chỉ của chúa Nguyễn, Đàng Trong tự dẹp được Tây Sơn, không cần quân Trịnh. Khi Kiêm Long đến trại, Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn đường đưa Kiêm Long đến ra mắt Quận Việp. Nghe Kiêm Long trình bày và Việp quận công khôn khéo hỏi dò mọi việc, Nguyễn Hữu Chỉnh đã hiểu rõ tình thế ở vùng đất phía Nam.

Kiêm Long lựa lời:

- Thống tướng chắc đã rõ, cổ nhân có câu: “Đường không đi không đến, chuông không gõ không kêu”.

Quận Việp hiểu thâm ý của Long, quyết định tiến quân. Ông sai Hoàng Đình Thể tiến đánh lũy Trấn Ninh.

Các tướng Nguyễn làm nội ứng mở cửa đầu hàng. Quân Trịnh chiếm được Quảng Bình.

Sau khi tiến đến Hồ Xá, tìm hiểu tình hình, Hoàng Ngũ Phúc nhận thấy danh có chính thì mới dễ hành động. Biết các tướng lĩnh của chúa Nguyễn e ngại Nguyễn Nhạc, hay tìm lý do để thoái thác, không chịu đi đánh dẹp. Hơn thế trọng thần Trương Phúc Loan còn ăn hối lộ để thay đổi người đi đánh; quân lính thì phẫn nộ cứ ra trận là bỏ chạy khiến quân của Nguyễn Nhạc thừa thế đánh ra khắp nơi.

Hoàng Ngũ Phúc liền nghĩ cách ly gián Trương Phúc Loan, liền sai Nguyễn Hữu Chỉnh cho truyền đi lời hịch đại ý nói: “Phúc Loan ỷ vào tình thế ở trong phòng the, trộm lạm quyền cơ mật, tin bọn gian nịnh, hãm người trung lương, tự ý giết người, dùng sài lang làm thân cận, làm cạn xương máu của dân, ăn bớt quân lương, làm yếu lực lượng phòng vệ. Khiến cho bọn manh lệ ở đất Tây Sơn tụ tập đông như kiến, nổi lên tựa đàn ong, chiếm đất Quảng là vùng màu mỡ, con lợn phải trốn, con lang phải chạy. Vì thế, trước hết phải trừ dẹp bọn bề tôi nơi biên ải rồi sẽ diệt tên giặc đầu sỏ gian ngoan. Trừ tàn khử bạo, ngăn chặn bọn quốc thích khi nó đang gây nhiều khó khăn. Dẹp nạn là do việc nghĩa, thừa lúc nguy nan chứ chẳng có lòng tham”.

Hịch được truyền đi, Việp quận công cười bảo các tướng:

- Lời hịch của ta làm cho dân chúng phía Nam cảm động. Còn những kẻ bề tôi trong triều Nguyễn vốn căm thù Loan, sẽ tìm cách bắt hắn nộp cho ta. Vậy chẳng phải ta bắn một mũi tên mà trúng hai đích sao?

Các tướng dưới trướng đều hoan hỉ, tấm tắc khen ngợi chủ tướng. Quận Việp bảo:

- Ta đã sai người ngầm giao kết với viên biện lại giữ vùng biên giới. Các ngươi có biết người phía Nam này có câu gì không? Họ thường nói: kẻ nào khôn ngoan, xảo quyệt, vào quá được Thanh Thủy cũng chưa dễ mọc cánh bay qua Lũy Thầy. Quân ta nay đã vượt được sông Gianh, Đào Duy Từ nếu còn sống liệu có thể bảo vệ được nơi đất hiểm đó để chống lại quân nhà Trời không?

Nay, chúa Nguyễn lại sai Quý Lộc và Kiêm Long đi khao quân đội ta, lại nói quân Tây Sơn sắp bị tảo trừ, không cần quân của nhà Chúa phải lặn lội vất vả nữa. Hừm, ta lạ gì cái mẹo ấy! Ta đã tương kế tựu kế, nói chuyện với Kiêm Long, nhưng lại sai người bí mật đi đánh Bố Chính. Và bây giờ ta đã thành công. Các ngươi hãy chờ xem ta nói có đúng không, chắc chắn Trương Phúc Loan sẽ bị các đình thần căm ghét và bắt nó nộp cho ta.

Quả đúng như lời Hoàng Ngũ Phúc phán đoán, ít lâu sau Thành quận công Pháp cùng Tôn Thất Huống bí mật bắt Loan đem nộp cho quân của chúa Trịnh. Giết xong Trương Phúc Loan, Hoàng Ngũ Phúc lại viện cớ giúp Nguyễn đánh Tây Sơn để tiến vào Phú Xuân hội binh. Chúa Nguyễn sai các tướng trá hàng ra quấy rối Quảng Bình, Bố Chính nhưng các cánh quân đó bị quân Trịnh nhanh chóng phá tan. Chúa Nguyễn điều Tôn Thất Chí, Nguyễn Văn Chính ra đánh đều bị Hoàng Ngũ Phúc đánh bại. Hoàng Đình Thể, Hoàng Nghĩa Phác theo kế của Hoàng Ngũ Phúc, men đường núi qua thác Trầm Ma đánh tan quân Nguyễn, giết chết Nguyễn Văn Chính.

Đầu năm 1775, quân Trịnh tiến vào Phú Xuân. Chúa Nguyễn không chống nổi phải bỏ chạy vào Quảng Nam. Quân Trịnh chiếm toàn bộ Thuận Hoá. Thủ lĩnh Tây Sơn Nguyễn Nhạc nhân chúa Nguyễn bỏ chạy vào Quảng Nam liền mang quân hai đường thuỷ bộ ra đánh. Nguyễn Phúc Thuần vội bỏ Quảng Nam theo đường biển trốn vào Gia Định, để Nguyễn Phúc Dương ở lại chiêu mộ quân Quảng Nam đánh Tây Sơn từ phía Bắc, còn Thuần đánh từ phía Nam.

Tháng 2 năm 1775, Hoàng Ngũ Phúc nhận lệnh đánh Quảng Nam. Quân Tây Sơn cũng tiến ra, lùng bắt được Phúc Dương. Tháng 4, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn. Hoàng Ngũ Phúc thắng lợi. Tướng người Hoa của Tây Sơn là Tập Đình vượt biển bỏ chạy về Trung Quốc. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn.

Nhân lúc Nguyễn Nhạc thua trận, tướng Nguyễn là Tống Phúc Hiệp từ Bình Khang đánh ra Phú Yên, quân Tây Sơn thua phải co về Quy Nhơn. Tình thế của Nguyễn Nhạc rất nguy ngập, Nguyễn Nhạc bèn sai người đến chỗ Hoàng Ngũ Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn.

Khi sứ giả của Nguyễn Nhạc ra về, Hoàng Ngũ Phúc hỏi Nguyễn Hữu Chỉnh:

- Ngươi đã nghe rõ mọi chuyện rồi đấy. Theo ngươi, ta nên làm thế nào, có nên khoan sức cho Nguyễn Nhạc không?

Nguyễn Hữu Chỉnh lựa lời:

- Bẩm, Việp quận công chắc đã tính toán cẩn thận rồi. Binh lính dưới trướng của ngài chinh chiến đã lâu, nay nhân cơ hội này mượn sức Nguyễn Nhạc mà đánh chúa Nguyễn, như vậy chỉ một mũi tên đã trúng hai mục đích.

Việp quận công hể hả:

- Ngươi nói đúng ý ta. Vậy ta sẽ cử ngươi đến chỗ Nguyễn Nhạc, cần nói gì chắc ngươi đã rõ, ta không phải căn dặn gì thêm.

Sau đó, Việp quận công cử Nguyễn Hữu Chỉnh đem ấn cờ đến phong Nguyễn Nhạc làm “Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân”.

Thời gian ở dưới trướng quận Việp, Nguyễn Hữu Chỉnh thường được cử làm sứ giả qua lại với Tây Sơn. Nguyên Hữu Chỉnh có tài biện luận nên dần dần đã được Nguyễn Nhạc chú ý. Sau này, khi Nguyễn Hữu Chỉnh theo về dưới trướng của Nguyễn Nhạc, ông là người đưa ra nhiều ý đồ chiến lược, thuyết phục được Nguyễn Nhạc tin theo khiến thời cuộc đổi thay.

Vốn là người cầm quân lão luyện, Hoàng Ngũ Phúc không vội rút lui. Ông muốn nhân khi Tây Sơn và chúa Nguyễn đánh nhau để thủ lợi. Nếu Tây Sơn bại trận, ông sẽ tiến lên diệt gọn Tây Sơn, lấy nốt Quảng Ngãi và Quy Nhơn. Nếu Tây Sơn thắng, ông nhờ sức họ diệt chúa Nguyễn. Tính toán như vậy, ông cho quân tới đóng ở Chu Ổ thuộc Quảng Ngãi.

Tháng 7 năm 1775, nghe tin Nguyễn Huệ thắng quân Nguyễn chiếm lại Phú Yên, Hoàng Ngũ Phúc quyết định án binh bất động. Ông biết Tây Sơn đã đủ thực lực đứng vững, quân Trịnh không thể diệt được, nhất là khi quân của ông đi xa nhà đã mệt mỏi và phát dịch bệnh. Theo đề nghị của Nguyễn Nhạc, Hoàng Ngũ Phúc phong chức cho Nguyễn Huệ làm “Tây Sơn hiệu tiền tướng quân”.

Mọi việc tưởng như thuận buồm xuôi gió, bỗng nhiên, một nạn dịch bất ngờ xuất hiện làm quân của Hoàng Ngũ Phúc chết quá nửa. Lượng biết sức mình không thể đương nổi việc quân nữa, quận Việp bí mật bàn với các tướng rút quân về. Các tướng bàn nên rút về Quảng Nam, đặt quan trông giữ phần lãnh thổ chiếm được, nhưng quận Việp chủ trương rút hẳn về Thuận Hóa, còn Quảng Nam sẽ tính sau. Ông sai người cầm thư đi gấp về Thăng Long xin ý chỉ của chúa Trịnh. Trịnh Sâm xưa nay rất tin tưởng quận Việp nên chấp nhận đề nghị của ông. Quân Trịnh rút khỏi Quảng Ngãi lui hẳn về Phú Xuân.

Hoàng Ngũ Phúc phát bệnh, ông giao lại thành Phú Xuân cho phó tướng Bùi Thế Đạt, còn mình dẫn đại quân về Bắc nhưng giữa đường ngã bệnh mà chết.

Nguyễn Nhạc nghe tin Hoàng Ngũ Phúc chết, biết không phải lo mặt Bắc nữa, liền đem quân chiếm thành Quy Nhơn rồi xưng vương, đó là tháng 3 năm 1776.

Sau khi quận Việp qua đời, Nguyễn Hữu Chỉnh quay về kinh đô và lại tiếp tục ngao du. Nguyễn Hữu Chỉnh vui chơi mà lòng cảm thấy trống vắng. Ông muốn thi thố tài năng trong thời kỳ mà theo ông, đang có nhiều biến chuyển, nhưng cái chết của Việp quận công đã khiến ông có phần hụt hẫng. Vì thế, ông quyết định phải giao lưu với giới quý tộc kinh kỳ để tìm ra một hướng đi thích hợp.

Thời gian này, nhà Nguyễn Hữu Chỉnh lúc nào cũng có vài chục khách, khi uống rượu, lúc ngâm thơ. Nguyễn Hữu Chỉnh còn tự tay soạn ra bài hát, phổ vào đàn sáo để các ca nhi tập và mua vui. Thời đó, Nguyễn Hữu Chỉnh nổi tiếng ở kinh đô là tay phong lưu bậc nhất.

Thời gian này, Nguyễn Hữu Chỉnh đã làm một bài thơ thể hiện tâm trạng có phần bất đắc chí của mình. Bài thơ của ông khiến nhiều kẻ ra luồn vào cúi cảm thấy chướng tai gai mắt:

Của chẳng riêng ai vốn của trời

Có thì ăn mặc, có thì chơi

Bán buôn áo cũng bồ nâu đỏ

Hàng chợ cơm dù bát sứ xôi

Rượu uống tiêu sầu năm bảy chén

Thơ ngâm khiển hứng một vài lời

Bá vương nhắm mắt làm chi nữa

Lầm lẫn trời đành đã có nơi.

Việp quận công mất, Nguyễn Hữu Chỉnh mất một chỗ dựa có thế lực. Trong cảnh nháo nhác đua chen ấy, việc Nguyễn Hữu Chỉnh tỏ ra bất cần khiến ông đã gặp tai họa. Có kẻ vốn ghét quận Huy, liền đi tố cáo ông, trong lúc làm quan, được quận Huy tiếp tay, đã đánh cắp vàng bạc của công kể đến hàng trăm vạn nên mới có thể ăn chơi nhởn nhơ như thế.

Ngay lập tức, Nguyễn Hữu Chỉnh bị hạ ngục. Không rõ việc tố cáo này đúng hay sai, chỉ biết chắc một điều, dù bị tra tấn gần chết nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh nhất mực không đổ tội cho quận Huy. Hành động này của Nguyễn Hữu Chỉnh khiến quận Huy rất nể trọng ông. Vì thế, khi vào làm trấn thủ Nghệ An, quận Huy đã dùng Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu tham quân.