← Quay lại trang sách

5. CHIM BẰNG GÃY CÁNH

Sau khi thắng Hoàng Phùng Cơ, uy thế của Nguyễn Hữu Chỉnh ngày một lừng lẫy, quyền hành chỉ đứng sau vua nhưng thực chất thì như một vị vua thực sự. Ông điều hành mọi việc trong triều, từ chính sự cho đến kinh tế. Thấy hàng hóa không lưu thông, giá cả tăng vọt, ông liền xin với triều đình cho thu vét hết tượng đồng về kinh sư, mở lò đúc tiền để giải quyết nạn khan hiếm tiền, người nào có ý chống lệnh sẽ bị trừng trị. Việc làm của Nguyễn Hữu Chỉnh lúc đó là một biện pháp cần thiết nhưng không được lòng dân chúng, họ đều oán thán, thậm chí còn có hai câu thơ dán ở cửa Đại Hưng, nơi người qua lại trong thành đều nhìn thấy rõ:

Thiên hạ thất tự chung, chung thất nhi đỉnh an tại?

Hoàng thượng phần vương phủ, phủ phần tức điện diệc không!

(Thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất vạc còn đâu nữa. Hoàng thượng thiêu phủ chúa, phủ thiêu, điện cũng trơ thôi).

Câu đối ám chỉ việc làm của Nguyễn Hữu Chỉnh và nhà vua sẽ tiêu tan sự nghiệp nhà Lê. Việc đến tai Nguyễn Hữu Chỉnh, ông rất tức giận, vì thế càng tỏ ra cứng rắn và cẩn thận hơn. Thậm chí, ông còn củng cố lại đội quân của mình, trong thì nắm giữ quân cơ, ngoài thì kiểm tra các trấn, những chỗ cơ mật ông đều tìm cách đưa các thuộc hạ thân tín vào. Biết Lê Chiêu Thống là vị vua bất tài, nhiều việc ông tự quyết rồi mới tâu lên nhà vua. Việc làm của ông khiến vua Lê Chiêu Thống nghi kỵ, tuy nhiên vị vua bất tài này không thể làm gì được để thay đổi tình thế, vẫn phải dựa vào Nguyễn Hữu Chỉnh để tồn tại nên nhà vua chỉ dám than thở với mấy bề tôi gần cận:

- Chỉnh tuy có công bảo vệ trẫm nhưng dần dần trẫm thấy hắn có vẻ muốn lấn bức. Giá mà trẫm có thể chặn ngay lúc đầu, không để hắn càn rỡ được thì có phải tốt bao nhiêu. Giờ thế lực của hắn đả mạnh, giữ hắn như giữ cọp trong nhà, các ngươi thử tính hộ trẫm xem.

Đám quần thần đều nhất trí cho rằng, Nguyễn Hữu Chỉnh là người hiểm độc, mưu mô sâu sắc, giả trá khôn ngoan, ứng biến mau lẹ, đúng là một kẻ gian hùng đời loạn, giống như hùm sói yêu ma, không thể kiềm chế mà chỉ có cách tốt nhất là giết đi.

Một bề tôi của Lê Chiêu Thống e dè:

- Bẩm, thần nhận thấy hắn quả là người thâm hiểm, nếu không cẩn thận e mang vạ vào thân. Muốn giết hắn đâu có dễ, phải có mẹo. Xin bệ hạ hãy coi hắn như người tâm phúc, cho tự do ra vào nơi cung cấm, thỉnh thoảng mời hắn vào điện bàn việc, đặt tiệc rượu đãi hắn uống thật say. Nhiều lần hắn quen dần, hãy dùng thuốc độc mà giết, thế mới không xảy ra biến loạn.

Lê Chiêu Thống gật gù, lại căn dặn:

- Chuyện này ở miệng các ngươi, vào trong tai trẫm, đừng để lộ ra ngoài. Có câu: làm vua không kín chuyện mất bề tôi, làm bề tôi không kín chuyện thời mất thân mình. Bao giờ có cơ hội, ta sẽ bảo để các ngươi hành động.

Sau cuộc trò chuyện bí mật với các bề tôi thân tín, vua Lê Chiêu thống ngày càng lo ngại trước uy danh của Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhà vua liền cho vời Tham tụng Bùi Huy Bích vào triều để hỏi mọi chuyện, vốn Bùi Huy Bích đã bị nhà chúa cách chức bởi không đảm đương nổi việc triều chính, thấy nhà vua lại cho người vời vào triều, Bùi Huy Bích nghĩ, chắc chẳng có chuyện gì ngoài việc về Nguyễn Hữu Chỉnh. Thực tế, Nguyễn Hữu Chỉnh là một người tài, mưu sâu, đã làm được nhiều việc cho triều đình nhà Lê. Tất nhiên ai cũng nhận thấy mọi việc ông ta làm cũng có ý muốn thu vén thiên hạ. Tuy nhiên, vào thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc này, thế nào cũng phải có người tài, anh hùng xuất thế mới hòng làm cho xã hội yên ổn. Nhưng người đó là ai? Tới lúc này ông vẫn chưa đánh giá được. Còn Nguyễn Hữu Chỉnh, tuy là người tài nhưng lại làm nhiều việc mất lòng dân chúng. Vì thế sắp tới Bắc Hà chắc chắn sẽ đại loạn. Ta phải lựa lời để tránh khỏi cơn sóng gió này.

Do đó, khi được vua Lê Chiêu Thống hỏi về việc thiên hạ, Bùi Huy Bích lựa lời tâu:

- Thần may được thi đỗ nhưng không có tài giúp đời trị nước. Trước đây thần được chúa cất nhắc làm việc trong chính phủ, tuy vậy thần không đảm đương nổi, lính kêu dân oán, quân giặc lấn cướp, kinh thành bị hãm, chúa soái mắc nạn, cái tội đó thần thật khó tránh. Nay Bắc Hà đã nhất thống, chính sự ban đầu đang sáng suốt, bệ hạ nên tìm một người tài giỏi khác còn thần đâu dám làm nhơ đến triều đình. Xin cho thần được lui về ruộng đồng làng xóm.

Sau khi ra khỏi cung, Bùi Huy Bích đã hiểu ý của vua Lê Chiêu Thống, ông cả kinh thốt lên: Thiên hạ sắp loạn mất rồi, ta phải bỏ đây mà đi thôi.

Một thời gian sau, Đốc trấn Nghệ An Phạm Huy Khiêm mưu đồ cần vương, ban hịch kể tội Nguyễn Hữu Chỉnh nhưng đã chết khi việc chưa thành. Thời gian này, những kẻ nặng công danh, muốn lấy việc dẹp loạn làm trách nhiệm của mình cũng nổi lên ở khắp mọi nơi.

Nguyễn Văn Đức, trấn thủ giữ phủ Diễn Châu do Nguyễn Huệ cử ra Nghệ An phòng khi có biến, vốn là đại thần của chúa Nguyễn, bị Tây Sơn bắt nên buộc lòng phải theo Tây Sơn. Vì thế, nghe nói Nguyễn Hữu Chỉnh quyền nghiêng cả thiên hạ, liền liên hệ với phó tướng Nguyễn Duệ, bàn việc kết hợp ngay với Nguyễn Hữu Chỉnh, mưu đồ hợp lực để phân chia thiên hạ. Trong thư gửi Nguyễn Hữu Chỉnh, hai người bày tỏ, nếu Nguyễn Hữu Chỉnh chịu hợp tác, họ sẽ nhân cơ hội vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc mâu thuẫn với Nguyễn Huệ kéo quân vào Nam để chiếm đất. Khi thành công, họ sẽ giao lại cho Nguyễn Hữu Chỉnh vùng đất từ Hoành Sơn ra Bắc. Lúc này ở kinh đô, Nguyễn Hữu Chỉnh còn nhiều việc phải giải quyết nên còn trùng trình chưa quyết.

Trong khi đó, thái độ và mối quan hệ của hai viên tướng này khiến Võ Văn Nhậm sinh nghi, liền cho người bí mật theo dõi. Võ Văn Nhậm phát hiện ra Nguyễn Duệ đã có mối quan hệ thân thiết với Nguyễn Hữu Chỉnh từ khi coi dinh Kỳ Hoa, liền mật báo cho Nguyễn Huệ biết. Võ Văn Nhậm nhớ lại ngày quân Tây Sơn rút về Nam, Chiêu Viễn được vua Tây Sơn ủy cho đóng ở châu Bố Chánh, Nguyễn Duệ ở doanh Kỳ Hoa còn Võ Văn Nhậm đóng ở Động Hải để làm thế chân kiềng nương tựa lẫn nhau. Khi ấy Nguyễn Duệ rất được tin cậy, Nguyễn Huệ trước khi vào Nam đã dặn riêng Nguyễn Duệ:

- Chỉnh vốn là người Bắc, trốn về với ta. Ta thấy hắn là kẻ phản phúc, không tin cậy được, có lẽ vì thế mà dân Bắc Hà rất oán hắn. Ta định bỏ hắn ở lại, không ngờ hắn lại bắt kịp ta đến đây. Nghệ An là quê hương của hắn, vì thế nhà ngươi ở đây nên xét kỹ lòng người xứ này, chú ý theo dõi xem động tĩnh của hắn ra sao. Có việc gì, nhất quyết phải bàn với Tả quân Võ Văn Nhậm, tránh mắc phải mưu của hắn.

Thế mà thời gian đóng ở Nghệ An chưa được bao lâu, quan hệ của Nguyễn Duệ với Nguyễn Hữu Chỉnh lại trở nên mật thiết đến thế. Võ Văn Nhậm đâu biết, Nguyễn Hữu Chỉnh là người có nhiều toan tính sâu xa. Khi ông được nhà vua truyền đưa quân ra Bắc, ông đã cài cắm người của mình là Nguyễn Duật ở lại làm việc dưới trướng Nguyễn Duệ. Sau đó, khi quyền hành ngang ngửa ở Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh thường gửi thư qua lại và biếu Nguyễn Duệ nhiều món quà hậu hĩnh, đồng thời kiếm cớ cho gọi Nguyễn Duật ra Bắc để hỏi tình hình Tây Sơn và dò ý tứ của Duệ. Biết anh em Tây Sơn mang quân đánh nhau, lại tiếp được thư của Duệ hẹn cùng chung sức đánh phương Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh rất mừng, bèn đưa cho Nguyễn Duật mười lạng vàng và mười tấm đoạn đem về biếu Nguyễn Duệ. Nguyễn Duật còn theo ý Hữu Chỉnh dặn, nói lại với Nguyễn Duệ, muốn thực hiện được ý đồ đó, trước hết phải ngăn chặn Chiêu Viễn rồi đắp lại lũy cũ Hoành Sơn, lấy sông Gianh làm biên giới như khi hai chúa Trịnh Nguyễn phân tranh.

Việc làm này không che mắt được do thám của Võ Văn Nhậm. Võ Văn Nhậm liền đưa binh phù triệu Nguyễn Duệ về nhưng Duệ thoái thác, viện cớ:

- Tướng ở ngoài, có khi còn không theo mệnh vua, hơn thế, khi Thượng công về Nam đã ủy cho tôi đóng giữ đất này, tôi không thể rời đi được.

Nhậm nghe Duệ nói như vậy liền gửi thư cấp cáo cho Nguyễn Huệ. Trong thư đại ý có đoạn viết: Ngày trước Thượng công dùng Chỉnh chẳng khác gì nuôi hổ dưới gậm giường, ngày nay dùng Duệ chẳng khác gì nuôi ong tay áo. Xin Thượng công nhanh chóng mang quân ra Bắc, giết Duệ, bắt Chỉnh, dẹp loạn và bình định đất nước, đây là cơ hội không thể bỏ lỡ, xin Thượng công chuẩn y.

Thời gian này, do xung đột giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ căng thẳng nên mối lo ở miền Nam đối với Nguyễn Huệ là cần kíp hơn. Vì thế ông hạ lệnh cho Võ Văn Nhậm tiến ra Nghệ An bắt Nguyễn Duệ rồi thu gom lương thực, chiêu mộ binh và viết thư cho Hữu Chỉnh, hỏi về tội thông mưu với Duệ xem Chỉnh trả lời ra sao. Trong thư, Nguyễn Huệ còn dặn kỹ, nếu Nguyễn Hữu Chỉnh còn biết sợ hãi thì sẽ liệu sau, không nên đánh Nguyễn Hữu Chỉnh ngay. Nếu Nguyễn Hữu Chỉnh ra mặt chống cự, sẽ dùng cái cớ ấy tiến ra Bắc đánh dẹp.

Võ Văn Nhậm kéo quân đến Kỳ Hoa thì Nguyễn Duệ đã không còn ở đó nữa. Nguyễn Duệ biết bị phát giác liền đem quân vào Nam, Nguyễn Văn Đức thì trốn sang Xiêm La (Thái Lan). Võ Văn Nhậm lập tức gửi ngay một bức thư cho Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhận được thư của Võ Văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh cảm thấy lo lắng, ông biết ý đồ tiến vào chiếm giữ dải đất từ Hoành Sơn trở ra Bắc đã thất bại. Bức thư này phải được giấu kín, nếu việc này lộ ra, e là ông không thể trụ lại ở Bắc Hà. Phải tìm cách làm dịu đi tình hình nguy cấp này. Ông lập tức viết một bức thư, sai người đưa gấp đến Võ Văn Nhậm. Bức thư viết:

“Trước kia tôi bỏ nước cũ về với chúa công, nhờ ơn cho vào nơi mạc phủ, hầu hạ túi cung roi ngựa đến bốn năm năm. Mùa thu năm ngoái, đại quân về Nam không cho tôi biết, tôi cũng hiểu là thượng công muốn dùng cách đó để thử tôi, xem tôi lui tới ra sao. Lúc bấy giờ người Bắc cố lưu lại nhưng tôi quả quyết bỏ họ mà đi. Nghĩ rằng lòng này không có đổi thay như thế, bậc cao minh hẳn đã soi xét đến. Lúc vào yết kiến Thượng công ở Vĩnh Dinh, tôi xin theo quân đội về Nam, ngài bảo tôi: “Quận Thạc, quận Liễn còn làm ngang trở không thể trừ khử, nhà ngươi hãy ở lại đây, lo liệu một phen”. Tôi dám đâu không theo mệnh lệnh? Tôi đã đem thân mình theo Thượng công thì còn dám tiếc gì? Chỉ mong trừ được hai tên ngang ngược ấy sẽ lập tức quay ngựa về Nam”.

Nguyễn Hữu Chỉnh đã tìm cách chứng minh cho Võ Văn Nhậm thấy quận Thạc đã bị ông tiêu diệt còn quận Liễn ông vẫn chưa thể dẹp yên thì sao có thể quay trở về Nam được. Ông còn biện minh rằng, sau khi Nguyễn Huệ về Nam, ông chỉ ở lại Nghệ An mười ngày là nhận được lệnh vua triệu ra Bắc. Như thế, liệu ông có thời giờ liên kết với Nguyễn Duệ không? Và ông kết luận, nếu ông hai lòng, sao dễ giấu được, đồng thời ông đề nghị Võ Văn Nhậm chuyển lời của ông tới Nguyễn Huệ.

Theo như căn dặn của Nguyễn Huệ, nhận được bức thư có ý lo ngại của Nguyễn Hữu Chỉnh,Võ Văn Nhậm đã viết một bức thư, tỏ ý an ủi Nguyễn Hữu Chỉnh để có đủ thời giờ chỉnh đốn quân ở Nghệ An và làm cho Nguyễn Hữu Chỉnh lơ là cảnh giác.

Về phía Nguyễn Hữu Chỉnh, ông vốn là người cơ mưu nhưng do chủ quan, đánh giá thấp Võ Văn Nhậm nên sau này, ông đã phải hối hận vì không kịp trở tay, thấp cơ thua trí một người mà ông cho rằng nước đi trên bàn cờ kém hơn ông. Nguyễn Hữu Chỉnh đâu có ngờ, đứng sau Võ Văn Nhậm là Nguyễn Huệ, một con người sắc sảo, có khả năng nhận biết bản chất của những người đã tiếp xúc với ông. Đây là nguyên nhân dẫn đến thất bại của Nguyễn Hữu Chỉnh sau này. Ngay cả lời đồn thổi của dân chúng, rằng quân Tây Sơn đã tập kết ở Nghệ An, chẳng mấy nửa sẽ kéo quân ra Bắc cũng không khiến Nguyễn Hữu Chỉnh mảy may lo lắng. Ông đã chủ quan quá tin vào sự phán đoán của mình và mọi tai họa đối với ông bắt đầu từ đây.

Thời gian này, nhiều viên quan trong triều lo lắng tấu trình lên vua Lê. Nhà vua hoảng hốt cho vời Nguyễn Hữu Chỉnh vào để hỏi hư thực thế nào. Nguyễn Hữu Chỉnh tự tin tâu:

- Dân chúng đồn nhảm, hoàng thượng không nên lo lắng làm gì. Thần đã cho người đi xem xét và biết rõ sự thực rồi. Vua Tây Sơn từ khi ở đất Bắc vào Nam đã tới thẳng quốc thành. Còn Thượng công (Nguyễn Huệ) thì đóng ở Phú Xuân, nghỉ quân để vui chơi, ban bố hiệu lệnh, sửa sang thành lũy. Đã thế, anh em Tây Sơn lại đang mâu thuẫn với nhau. Thượng công tự tiện quyết định mọi việc phong quan, ban tước. Dù được phong Bắc Bình Vương nhưng Thượng công không dâng vua những thứ lấy được trong phủ chúa. Vì thế, giữa anh em họ đã nảy sinh cuộc binh đao. Họ đâu có thì giờ mà tranh đoạt với ta, ra khỏi dãy Hoành Sơn. Chỉ cần triều đình ta yên ổn thì thiên hạ sẽ thái bình. Việc ở trấn Nghệ An, chỉ cần một sứ giả đem bức thư sang, bàn bạc với họ là xong. Hơn thế, ta cùng họ là thông gia, hoàng thượng không nên lo xa làm gì.

Nhận xét này của Nguyễn Hữu Chỉnh cho thấy Nguyễn Hữu Chỉnh quá phiến diện, không đủ tỉnh táo để đánh giá tình thế và lực lượng của quân Tây Sơn lúc này. Ngay cả khi Nguyễn Đình Giản, một viên quan luôn nói thẳng khiến Nguyễn Hữu Chỉnh rất tin tưởng cất lời can gián cũng không làm cho Nguyễn Hữu Chỉnh tỉnh ra. Ông còn tỏ ra có phần coi thường Nguyễn Huệ khi nghe Nguyễn Đình Giản nói:

- Bắc Bình Vương là một bậc anh hùng, không thể xem thường ông ta được. Ngài đừng quá tin vào tình hòa hảo thông gia mà nên lo cho bờ cõi vững chắc, đó mới là điều cần thiết lúc này.

Nguyễn Hữu Chỉnh nghe xong cười bảo:

- Tôi đã từng cộng sự với ông ta, há lại không biết hay sao? Ông ta quả là bậc anh hùng thật nhưng nhân tài xứ Bắc cũng đâu có thua kém lắm. Nếu xảy ra việc gì, tôi xin chọi với ông ta còn Võ Văn Nhậm thì đáng kể gì. Cứ mặc hắn. Quân nước ngoài ở trọ, ở mãi thế nào được? Chả mấy Nghệ An lại thuộc về ta thôi.

Vua Lê Chiêu Thống e dè:

- Nay dân chúng đang nghe động tĩnh ở phía Nam, lòng người ly tán. Ngươi nên tính liệu trước để lòng trẫm được yên.

Nguyễn Hữu Chỉnh tâu:

- Đó là chức phận của thần, xin hãy yên tâm.

Sau mấy hôm suy tính và cân nhắc, Nguyễn Hữu Chỉnh vào triều tâu với vua Lê Chiêu Thống:

- Võ Văn Nhậm là con rể vua Tây Sơn, nhưng lại là tướng của Nguyễn Huệ nên khi biết rõ anh em Tây Sơn bất hòa, hắn vẫn phải tuân theo tướng lệnh. Tuy nhiên trong lòng không thể nào không nghĩ đến bố vợ. Hơn nữa, tin tức do thám đưa về cho biết, vừa rồi ở Động Hải có biến, Nhậm xin về hầu nhưng Nguyễn Huệ không cho, hạ lệnh hắn ra thẳng Nghệ An. Như thế có nghĩa là địa vị của Nhậm rất bấp bênh, hắn bị Nguyễn Huệ nghi ngờ, vì thế nhân cơ hội này nên tìm mọi cách thương lượng để lấy lại đất Nghệ An. Thần nghĩ, nên lễ lạt nhiều để Nhậm tâng bốc triều đình, bên trong nhờ công chúa nói đỡ, chắc Nguyễn Huệ dù không muốn cũng phải gượng theo ý của hoàng thượng.

Vua Lê Chiêu Thống cho là phải nên hôm sau trong buổi chầu, nhà vua bảo các quan:

- Nghệ An là đất phên giậu của triều đình trước đây nên không thể để cho người ngoài chiếm giữ mãi. Trẫm muốn cử người đi Phú Xuân để điều đình với Nguyễn Huệ một phen. Các ngươi thử nói cho trẫm biết, ai thích hợp với công việc này?

Các quan trong triều đều nhất trí đề cử Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư - hai viên quan nổi tiếng ngay thẳng làm công việc này. Tuy nhiên, Phan Lê Phiên lại có ý khác, ông tâu:

- Xin bệ hạ cân nhắc kỹ việc này, bởi theo thiển ý của thần, Nguyễn Đình Giản cương trực nhưng lại thiếu mềm mỏng, Phạm Đình Dư nghị luận vững vàng nhưng xét việc hơi chậm, e cử hai người này đi không thuận, trong khi tranh biện, có thể làm hỏng việc lớn.

Chờ các quan bàn luận chán, Nguyễn Hữu Chỉnh nói:

- Bẩm, thần cho rằng trong việc này, cử Trần Công Xán đi là hay hơn cả. Đó là người đảm lược, sẵn tính tự chủ ít ai bì kịp. Hơn nữa, trong con mắt của Nguyễn Huệ, Trần Công Xán được đánh giá là vị quan đáng trọng trong triều đình. Nguyễn Huệ chả đã từng nói: “Ta nghe nhân tài Bắc Hà nhiều lắm mà chỉ mới thấy có Trần Công Xán là ra dáng người”. Cử Trần Công Xán đi, Nguyễn Huệ vì lòng kính trọng mà có thể trả lại xứ Nghệ cho Bắc Hà.

Vua Lê Chiêu Thống nghe Nguyễn Hữu Chỉnh nói vậy thì gật đầu ưng thuận:

- Được đấy, hãy truyền ý chỉ của trẫm để Trần Công Xán mau lên đường.

Trước ngày lên đường, nhà vua truyền Trần Công Xán và Nguyễn Hữu Chỉnh vào triều và nói:

- Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh đã tiến cử ngươi dẫn đầu đoàn sứ bộ vào thương lượng đòi đất Nghệ An cho trẫm. Trẫm biết ngươi là người trung trinh vì nước, ngươi cố vì trẫm vâng mệnh ra đi.

Trần Công Xán đáp:

- Để vua phải lo là lỗi của bề tôi. Xin bệ hạ an lòng, thần sẽ cố làm mọi việc như bệ hạ truyền chỉ.

- Trẫm rất mừng khi nghe khanh nói như vậy. Rồi hướng về phía Nguyễn Hữu Chỉnh, nhà vua nói: Bằng quận công hãy cùng Phan Lê Phiên bàn việc thảo quốc thư.

Nguyễn Hữu Chỉnh đáp:

- Thần tuân chỉ.

Hai hôm sau quốc thư được dâng lên để vua ngự lãm. Bức thư viết:

“Nghệ An là đất nền móng trong cuộc trung hưng của bản triều, cùng với Thanh Hoa, đều là quận chân tay của nhà nước, quan văn tướng võ phần nhiều ở đó mà ra. Quân lính túc vệ cũng đều kén chọn đinh tráng ở xứ ấy mà sung vào. Nếu như dùng người mà bỏ đất, để họ cách trở quê hương, xa lìa thân thích, xét về nhân tình là rất trái ngược. Đức vua quý quốc trọng điều tín nghĩa, hòa với láng giềng, chắc không vì việc nhỏ mọn nào mà không soi thấu... Nghĩ lại đức vua quý quốc lúc mới ra Bắc, vốn lấy việc tôn phò làm nghĩa thứ nhất. Tiên đế lúc sinh thời, từng mời ngồi trên giường, cầm tay trò chuyện. Tiếng ngọc còn văng vẳng bên tai, vội quên sao được? Kịp đến khi tiên đế tựa ghế trối trăng mọi việc, ân cần lo cho kẻ tiểu tử này tuổi còn trẻ nhỏ, muốn nhờ vào phúc ấm của quý quốc để làm nơi nương tựa. Gần đây nghe tin quý quốc sai tướng ra đóng ở Nghệ An, lòng người ngờ vực, có kẻ cho rằng đó là do bọn bề tôi ở biên giới gây việc, không phải bản ý của quý quốc vương. Trong thư vin vào cớ mùa thu năm ngoái bản quốc đã hứa cắt đất khao quân. Kẻ tiểu tử này mới lên ngôi, chưa được rõ nguyên nhân việc trước, đã sai đình thần tra cứu lại cái ước cắt đất, thì là hai châu Bố Chánh, Minh Linh chứ không liên can gì tới bỡ cõi xứ Nghệ An. Vả lại hồi đó đã vâng lời quý quốc vương dụ rằng: “Nếu là đất đai của nhà Lê thì một tấc cũng không lấy”. Nay nếu khao quân bằng đất thì không bằng khao quân bằng của. Vậy xin tính số thu nhập hàng năm của đất ấy, dùng làm chi phí khao quân, rồi cứ hàng năm đưa đến biên giới, làm thành định lệ lâu dài. Xa trông quý quốc vương xét cho, để trọn tình hòa hảo của hai nước. Cả nước chúng tôi đều lấy làm may mắn lắm”.

Nhà vua xem xong, ngầm khen Nguyễn Hữu Chỉnh biết lựa lời khôn khéo rồi cho gọi Trần Công Xán vào dặn dò và giao bức thư cho mang đi.

Trước khi lên đường, Trần Công Xán bảo Nguyễn Hữu Chỉnh:

- Theo ta nghĩ, Nguyễn Huệ là người quỷ quyệt, chưa chắc đã chịu lép mà trả đất Nghệ An cho ta. Ta phụng mệnh nhà vua nên sẽ lựa chiều mà biện bác xem. Bằng quận công ở nhà nên cẩn thận, những nơi hiểm yếu trong hạt Thanh Hoa, ông nên cho đóng đồn ngăn giữ, các cửa bể trấn Sơn Nam cũng nên cho cắm cừ ở lòng sông đề phòng về mặt thủy. Như vậy nếu quân Tây Sơn ra đánh thì đã có sự phòng bị rồi, đừng để nước đến chân hãy nhảy.

Nguyễn Hữu Chỉnh không cho lời dặn của Trần Công Xán là phải dù Trần Công Xán trước đây là thầy học của mình, còn nói:

- Xin thầy cứ yên tâm, bất tất phải lo xa quá. Vạn nhất có việc gì xảy ra, quân đội của triều đình cũng chẳng đến nỗi kém người. Nguyễn Huệ tuy kiệt hiệt thật, vị tất đã làm gì nổi.

Trần Công Xán lắc đầu, tỏ ý không hài lòng rồi từ giã lên đường.

Chứng kiến cuộc chia tay giữa Trần Công Xán và Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngô Nho - Phó sứ trong đoàn sứ bộ đi thương thuyết cảm thấy lo ngại. Và quả nhiên, khi đến Nghệ An, trong tiệc rượu, Võ Văn Nhậm hỏi Trần Công Xán:

- Các quan Bắc Hà như ông được độ mấy người? Vua Lê giao quyền cho Nguyễn Hữu Chỉnh, không hiểu nghĩ thế nào? Hiện tôi đã lĩnh binh phù kéo quân ra Bắc, trước là chém đầu Chỉnh, sau mới hỏi tội vua Lê sao lại dung nạp đứa làm phản. Nhà vua đã không giữ nổi nước, nếu ta không lấy, kẻ khác cũng sẽ lấy, Nghệ An chỉ là mảnh đất cỏn con, tội gì mà phải lặn lội cho mất công. Chỉ sợ khi trở về, ông sẽ như con chim mất tổ, bay về không có cành mà đậu nữa.

Trần Công Xán nghe câu đe dọa của Võ Văn Nhậm, nét mặt thản nhiên như không. Chỉ đến khi về nơi trú chân, mới than với Ngô Nho:

- Quân Tây Sơn hành binh thần tốc, chống nó không nổi mà đuổi cũng không xong. Ta lo xa quả là không thừa. Trước khi đi ta đã dặn quận Bằng cẩn thận lo phòng thủ, ông ta có vẻ chủ quan, nếu chậm chạp thì cơ hồ đến hỏng việc mất.

Ngô Nho nói:

- Cứ lấy ý tứ mà suy thì quân Tây Sơn có ý định lấy nước ta rồi. Năm trước Nguyễn Huệ nói tôn phù nhà Lê chẳng qua chỉ là đãi bôi, không thể lấy nhân nghĩa mà dụ hắn ta được. Đã thế quận Bằng từ khi đắc chí, tính tình đổi hẳn, chỉ sợ ông ta sẽ bị Võ Văn Nhậm bắt được thì không còn thể thống gì. Lúc ấy vua ta ở hay đi cũng không rõ nữa. Chi bằng phải quyền biến may ra mới xong.

- Thế theo ông, nên quyền biến thế nào?

Ngô Nho đáp:

- Theo ý tôi, nên đổi lời lẽ quốc thư đi, bịa ra rằng vua chúng ta mời Nguyễn Huệ ra giúp việc nước và phong cho vua ta một chỗ. Hãy cứ chấp nhận như thế rồi dần dà sẽ mưu việc khôi phục.

Trần Công Xán lắc đầu:

- Không được. Bằng quận công theo việc binh từ lúc đầu còn để chỏm, là tay lão luyện trong chốn trận mạc. Nếu xảy ra việc binh cách thì vị tất ông ta đã thua ngay. Chúng ta vâng mệnh đi sứ mà tự tiện đổi lời lẽ trong quốc thư là có tội với nước. Chi bằng cứ minh bạch mà làm, thành hay bại đều do ở trời cả.

Hôm sau, đoàn sứ bộ vào ra mắt Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ đọc xong thư tức giận nói:

- Thư này ai viết? Toàn là điều vô nghĩa lý, ta có phải trẻ con đâu mà dễ lừa dối được ta?

Trần Công Xán bình tĩnh:

- Xin hãy bớt giận, dù có giết chúng tôi, cũng để chúng tôi nói một lời.

Nguyễn Huệ dịu giọng:

- Trước kia ta vượt biển ra Bắc Hà, diệt họ Trịnh, muôn người khiếp sợ, trong triều ngoài nội thảy đều bó tay, không ai dám làm gì. Nếu lúc đó ta cứ chiếm phăng lấy cả nước, rồi tùy ý xưng vương, xưng đế, phỏng ai dám ngăn trở. Chỉ vì mến đức tiên đế mà ta trả nước cho vua Lê. Cơ đồ nhất thống là công ở ta. Lúc tiên đế mất, ta lo chu toàn tang lễ. Tự quân lên ngôi cũng do ta chủ trương. Nay đã không nhớ cái ơn ấy lại còn dung túng kẻ làm phản ta, toan tranh đất Nghệ An với ta. Như vậy có ai nín được không? Ta đã sai Võ Văn Nhậm mang ba vạn quân ra Thăng Long, chém đầu cha con tên Chỉnh. Trong chỗ mũi tên hòn đạn, Tự quân lỡ có mệnh nào, dân nước lại oán ta thì phiền.

Trần Công Xán mềm mỏng nhưng kiên quyết đáp:

- Đại vương phụng mệnh vua Tây Sơn, đánh một trận đã ra đến Thăng Long, uy danh tuy lừng lẫy nhưng vẫn phải lấy danh nghĩa tôn phù nên mói thành công nhanh chóng như vậy. Nếu không thế thì tràn vào nước tôi sao dễ dàng thế được. Nhà Lê làm vua đã mấy trăm năm nay, được Trời Phật phù trì, lòng người lưu luyến, nếu đại vương mang trả nước lại cho vua Lê, chẳng qua cũng chỉ là làm một việc hợp ý trời, thuận lòng người, sao gọi là ơn được? Tự hoàng lên ngôi, việc gì cũng bẩm mệnh đại vương trước. Đến khi đại vương về Nam, đại vương không cho Nguyễn Hữu Chỉnh đi theo, sao lại gọi đó là hắn làm phản? Nghệ An là đất của bản triều tôi, chúng tôi có nghĩa vụ xin lại, gọi là tranh với đại vương, thật không đúng nghĩa chút nào. Đại vương phái quân ra thăm nước tôi, bản triều có nghĩa vụ phải nghênh tiếp. Nếu không thế thì nước lớn có quân đánh dẹp, nước nhỏ có cách chống giữ. Tôi đã đi khỏi nước rồi, mọi việc không dám dự biết. Tự hoàng lên làm vua là có số mệnh, gươm đao cũng phải lựa chọn, đại vương chớ có lo. Đại vương cứ thuận lẽ trời mà làm cứu cho nước nguy, giúp cho người bĩ thì thần dân ai chẳng cảm phục công đức của đại vương. Bằng không thì việc đời biến đổi, mỗi lúc một khác, tôi đâu dám nói trước.

Kết cục, đoàn sứ bộ của triều đình nhà Lê không thành công trong việc thuyết phục đòi lại đất Nghệ An, và thuyền của họ bị đắm trên biển.

Trong khi đó, Nguyễn Hữu Chỉnh không hay biết gì về tình hình đoàn sứ bộ. Thậm chí, ông còn cho rằng nội bộ Tây Sơn vẫn đang rối ren, nên không có sức đâu mà chú ý đến tình hình bên ngoài. Võ Văn Nhậm thì chơ vơ ở Nghệ An, bên trong không có quân cứu viện, sẽ làm được gì? Thậm chí Nguyễn Huệ còn mừng khi đọc quốc thư ấy chứ, làm gì có khả năng với tay ra Bắc Hà. Vì thế, những lời dặn dò của Trần Công Xán trước lúc lên đường, ông đều bỏ ngoài tai. Nguyễn Hữu Chỉnh còn sai lầm khi cho rằng, ông sẽ lấy lại được đất Nghệ An, dựng lại lũy cũ và giữ vững bờ cõi Bắc Hà. Ông còn tỏ ra rất tin tưởng vào tài phán đoán của mình khi dặn Nguyễn Duật:

- Vào Nghệ An lần này, ngươi chớ có sinh sự để bên địch nghi ngờ. Đợi khi Trần Công Xán trở về, sẽ dời vào trấn thủ Nghệ An, sửa lại lũy cũ, giữ vững bờ cõi làm chước lâu dài.

Sau khi đoàn sứ bộ lên đường vào Nghệ An, một thuộc hạ thân tín đã kể lại cho Nguyễn Hữu Chỉnh nghe việc các quan xì xào bàn tán lo lắng, cho rằng đoàn sứ bộ đi lần nay lành ít dữ nhiều. Nguyễn Hữu Chỉnh nghe xong cười bảo:

- Dù Nguyễn Huệ là anh hùng hào kiệt ở miền Nam, ta cũng đâu kém gì hắn. Hắn quỷ quyệt hơn ta nhưng ta khôn ngoan hơn hắn. Trước ta từng cộng sự với hắn nên ngày nay hãy nhường hắn một nước cờ, đợi khi trong nước tạm yên, ta sẽ chuyên tâm lo việc phương Nam. Lúc đó ta sẽ tập hợp binh mã, giao phong với hắn một trận sống mái. Nay Trần Công Xán vào Nam bàn việc bờ cõi, ta biết có thể phải nhường đất Nghệ An cho hắn nhưng như việc người xưa đã nói: “Định lấy cả nó hãy tạm cho nó”, điều này người thường sao mà biết được.

Vì thế, Nguyễn Hữu Chỉnh quyết định dùng lời nói ngọt, lễ vật nhiều để yên được binh đao ngoài Bắc Hà, dành thời gian đánh chúa Trịnh rồi mới quay sang đối đầu với Tây Sơn. Nguyễn Hữu Chỉnh đâu có ngờ các bước đi trên bàn cờ của ông đã bị con mắt thiên nhãn của Nguyễn Huệ nhìn thấy rõ. Và đây là sai lầm chiến lược quan trọng khiến ông thất bại.

Biết Nguyễn Hữu Chỉnh không màng tói việc phòng bị Tây Sơn, Phan Lê Phiên không đừng được, đã phải gặp riêng Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông nói:

- Bằng quận công, hình như ông đã quá chủ quan, chưa nhận thức rõ thực lực của quân Tây Sơn. Theo tôi, Trần Công Xán là người già giặn việc đời, xét đoán mọi việc rất nhanh, tính liệu như thần. Ông chớ nên xem thường lời dặn của ông ấy.

Nguyễn Hữu Chỉnh thản nhiên nghe Phan Lê Phiên nói, không có phản ứng gì khiến Phan Lê Phiên cảm thấy rất lo lắng. Ông than thở với Trương Đăng Quỹ, người bạn đồng liêu:

- Bằng quận công vốn nổi tiếng là biết việc binh, ai dè lúc này ông ta lại tỏ ra coi thường quân giặc. Tôi e là kinh đô mới qua cơn binh lửa, khó mà có thể chịu nổi một trận tàn phá nữa. Tôi và ông là những viên quan đầu triều, trước tình cảnh này mà can ngăn không được, đâu còn xứng đáng giữ trọng trách này?

Trương Đăng Quỹ thở dài hồi lâu, ông cũng nhận thấy Bằng quận công từ khi nắm quyền bính trong tay, có vẻ yên tâm, luôn kê cao gối mà ngủ, không e dè gì quân Tây Sơn cả. Ông thấy đất nước nguy đến nơi nên khi nghe lời tâm sự của Phan Lê Phiên, ruột rối như tơ vò. Hai người bàn định một lúc rồi Phan Lê Phiên nói:

- Hai chúng ta mà không gắng thuyết phục nổi ông ấy, chắc đất nước khó qua cơn binh lửa. Thôi thì cố làm được điều gì hay điều ấy. Tôi nghĩ, công đức của tiên đế rất lớn, phải tôn xưng miếu hiệu và xin làm lễ cáo miếu mới được.

Trong buổi chầu, khi nghe hai viên quan này đề cập đến chuyện tôn xưng miếu hiệu, Nguyễn Hữu Chỉnh nói:

- Việc tôn xưng miếu hiệu phải chờ sau ngày đại tường rồi mới cử hành, sao hai ngài phải vội thế?

Trong thâm tâm, Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn nghĩ, sau khi ông đánh diệt chúa Trịnh, làm việc ấy vẫn chưa muộn, ông không hề nhận ra mối đe dọa từ quân Tây Sơn mặc dầu trước đây ông là người thức thời với thời cuộc. Ông cho rằng điều cần thiết trước tiên lúc này đối với triều đình là đánh chúa Trịnh và xin nhà vua cho đem quân bản bộ tiến đánh.

Nhà vua đã có ý e ngại Nguyễn Hữu Chỉnh nhưng thế lực của Nguyễn Hữu Chỉnh rất lớn nên đành nói:

- Trẫm nghĩ nên hiểu dụ về họa phúc đã, nếu không nghe đánh cũng chưa muộn.

Nguyễn Hữu Chỉnh không nghe, nói:

- Chẳng lẽ hoàng thượng không nhớ việc vừa xảy ra sao? Nếu thần không đem quân ra, Dương Trọng Tế giúp chúa Trịnh đứng vững, thử hỏi y có xử hậu với hoàng thượng không? Anh hùng làm việc, há lại theo lòng nhân đức của đàn bà?

Vua Lê nghe Hữu Chỉnh nói thế, bất đắc dĩ phải chấp nhận yêu cầu đánh Trịnh. Nguyễn Hữu Chỉnh lập tức đốc thúc quân qua sông, thuyền bè dày đặc như nêm. Tin cấp báo đến tai chúa Trịnh, chúa liền sai các tướng bày thế trận cự lại. Quân của vua và chúa đánh nhau cả ngày không phân thắng bại. Thấy vậy, Hữu Chỉnh liền đưa tờ chiếu của vua đến dụ chúa nên quy thuận, chúa bảo:

- Hữu Chỉnh có ý muốn bắt sống ta, nuốt trôi được đã chẳng tha nhưng không làm được, lại giở trò dụ dỗ ngon ngọt. Hắn thật quỷ quyệt. Vì hắn mượn mệnh lệnh của hoàng thượng, ta cũng phải trả lời cho hắn biết.

Rồi chúa tự thảo một biểu trần tình, kể tội Nguyễn Hữu Chỉnh, còn nói dân chúng đều căm giận Chỉnh và đưa ra điều kiện nếu nhà vua giết Nguyễn Hữu Chỉnh, chúa mới đem quân về triều.

Nhận được tờ biểu của chúa, Nguyễn Hữu Chỉnh tức tối quát:

- Quân mất nước mà không biết sợ, dám khua môi múa mép với ta. Ta thề sống chết với hắn. Các tướng phải đốc quân, trông cờ nghe trống, chỉ có tiến không được phép lùi.

Rồi Nguyễn Hữu Chỉnh tự thân lên mình voi đốc chiến. Cánh quân bên tả của chúa sắp vỡ, liền co cụm lại trong lũy cố thủ. Suốt nửa ngày quân của nhà vua không thể phá vỡ thế cố thủ đó. Tối hôm ấy mưa gió dữ dội, chúa sai hai viên tướng chia làm hai cánh đánh hai ngả, chúa đi giữa dồn quân ra còn hai viên tướng ở lại chăn hậu. Quân của Nguyễn Hữu Chỉnh bị đánh bất ngờ, đêm tối đen, bắn nhau loạn xạ mà không biết. Sáng ra, biết rõ sự thật thì không thể đuổi kịp quân của chúa nữa, đành rút quân về kinh.

Trong khi đó, chúa viết một bức thư cho nhà vua, đại ý nói, chúa sinh vào lúc lỗi thời, nhà nước lắm nạn, chỉ muốn xin nhà vua cho về triều kiến, thờ phụng tổ tiên cho tròn đạo hiếu chứ không có bụng chuyên quyền. Do bị chư tướng ép buộc nên đã hành động trái ý hoàng thượng. Từ khi Hữu Chỉnh về cầm quyền ở kinh đô, chúa đã phải phiêu bạt khắp nơi, chỉ lo tìm nơi trú ngụ. Vì thế, xin nhà vua cho được yên ổn.

Tiếp được thư của chúa, nhà vua liền sai Trương Đăng Quỹ làm sứ thần đón chúa về triều. Khi đó, chúa lại nghe tin quận Liễn liên kết với Nguyễn Hữu Chỉnh, sợ hãi liền đem quân chạy tới Sơn Nam. Quận Liễn biết, sợ chúa cho mình là kẻ hai lòng vội đem quân tức tốc đuổi theo. Lúc chúa chạy đến huyện Chân Định, Phạm Đình Thiện tiếp đón chúa đã khuyên chúa nên dùng quận Liễn. Chúa nghe lời, sau đó quận Liễn và Phạm Đình Thiện đưa hịch đi các nơi, kêu gọi đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉ trong vòng mươi ngày, người theo về có đến hàng vạn.

Chúa quyết định đem quân đánh Nguyễn Hữu Chỉnh, liền sai người bí mật truyền ý chỉ cho Bùi Nhuận, viên tướng cũ của chúa. Nhuận liền tìm cách thay quân canh giữ cửa ô nhưng con trai của Nguyễn Hữu Chỉnh là Nguyễn Hữu Du phát hiện ra, liền sai Nguyễn Viết Tuyển ở Sơn Nam đem quân đánh chúa. Kết cục, quân của chúa thất bại, chúa phải sống lẩn lút ở miền ven biển, rồi xuống tóc quy y.

Sau khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc hòa giải, Nguyễn Huệ đã rảnh tay để có thể giải quyết vấn đề Bắc Hà. Trong thâm tâm, Nguyễn Huệ đã nhận thấy các bước đi sắp tới của Nguyễn Hữu Chỉnh. Chắc chắn, Nguyễn Hữu Chỉnh đã tính toán chiếm lấy Nghệ An rồi dùng nơi này làm căn cứ để tiến vào phía Nam. Nguyễn Hữu Chỉnh là một đối thủ mà trước mắt ông cần phải tìm cách triệt hạ ngay. Ông đã từng nghe lời Nguyễn Hữu Chỉnh bàn, kéo quân ra Bắc, nêu cao khẩu hiệu phủ Lê diệt Trịnh và đã thành công. Nguyễn Hữu Chỉnh quả là người có đầu óc chiến lược, là nhà chính trị mưu lược nhưng giờ đây, vua Lê ngày càng trở nên vô vị, thực chất không nắm quyền hành. Nếu ông không giải quyết triệt để vấn đề Bắc Hà thì việc kéo quân ra Bắc của ông lần vừa rồi thành công cốc, không chừng tình hình Bắc Hà sẽ chả yên ổn được nữa bởi Nguyễn Hữu Chỉnh đã có tham vọng lớn, muốn có ý chiếm lấy cả vùng đất phía Nam. Ý đồ của Nguyễn Hữu Chỉnh là không thể chấp nhận được. Giá mà ông ta chịu theo quân Tây Sơn, ông ta có thể trở thành người đại diện cho Tây Sơn ở phía Bắc thì hay biết bao nhiêu. Tuy nhiên, đến lúc này, tham vọng đã làm cho ông ta mờ mắt, không đánh giá đúng tình hình thời cuộc, dám đối đầu với đội quân Tây Sơn được rèn luyện và có kỷ luật. Âu là cũng đến lúc phải kết thúc việc này. Trong thâm tâm, Nguyễn Huệ thấy tiếc cho con người tài năng này, quả thực ông ta mà chết là điều đáng tiếc, nhưng trong tình thế hiện nay, không còn cách giải quyết nào khác. Sau khi cân nhắc kỹ, Nguyễn Huệ trở về Phú Xuân họp đại hội các tướng và bảo:

- Chỉnh là kẻ sắp chết, ta lại vẽ mày vẽ mặt cho hắn. Hắn quyền nghiêng thiên hạ ở Bắc Hà, không lo đền đáp ơn của ta mà còn định cắn lại, mưu đồ giành đất Nghệ An, đặt làm một trấn quan trọng, bắt chước chúa Trịnh xâm lấn phương Nam ngày xưa. Thằng giặc ấy thật đáng giết, không biết hắn sắp xếp được bao nhiêu binh mã, liệu có đánh nổi với ta một trận hay không mà dám càn rỡ như thế? Hắn tưởng ta bận lo việc phương Nam, không thể với tay ra Bắc Hà, tóm hắn được hay sao? Ta quyết định đánh ra Bắc lần thứ hai. Tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân nghe lệnh.

Hai viên tướng liền đứng dậy chờ nghe ý chỉ của Nguyễn Huệ:

- Hai tướng hãy kéo quân ra Nghệ An hợp sức với Võ Văn Nhậm đánh ra phía Bắc. Võ Văn Nhậm sẽ lĩnh ấn tiết chế, chỉ huy cuộc hành binh này.

Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân cấp tốc điều quân lên đường. Trong khi tình hình diễn biến ngày một căng thẳng, Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn bình chân như vại, không hề nhận thấy Nguyễn Huệ đang lập tâm bắt mình. Khi có người nhắc đến trấn Nghệ An, Nguyễn Hữu Chỉnh bỏ ngoài tai, thậm chí tin đồn đoàn sứ bộ đã chết trên biển, không còn một ai, ông lại cho đó là do tin đồn nhảm của những kẻ hiếu sự đoán mò.

Tin cấp cáo ở Thanh Hoa đưa đến, quân của Võ Văn Nhậm đang trên đường ra Bắc, quân triều đình không chống cự nổi đã phải rút về Trinh Giang, dân chúng trong thành đã nhốn nháo, bỏ kinh thành mà chạy, Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra.

Các quan trong triều thảy đều lo sợ. Trong một buổi chầu, khi các quan bàn cách chống giữ, Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn chủ quan khi nhận định về thời cuộc. Ông cười bảo các quan:

- Các vị đại thần, cần phải trấn tĩnh, nếu bối rối chỉ tổ làm lòng người dao động. Chức trách của Duật là giữ đất Thanh Hoa, Duật là một tướng giỏi, Võ Văn Nhậm không thể dễ dàng nuốt sống được y. Vả lại, sông Thanh Quyết, sông Trinh Giang đều sâu, nước lạnh, dù thiên binh vạn mã cũng chưa dễ đã vượt qua yên ổn. Việc đánh hay giữ, đã có định cục, làm gì mà các ngài cuống quít lên thế?

Nguyễn Đình Giản cau mày cao giọng:

- Thanh Hóa là đất “thang mộc”, lăng tẩm mấy triều đều ở đấy. Nay cả vùng Tĩnh Gia đã bị quân Tây Sơn chiếm mất, xã tắc nguy nan như trứng để đầu đẳng, ông là quan đầu triều, binh quyền trong tay, định thế nào, thử nói rõ ràng xem để chúng tôi đem hết ý kiến nông cạn mà cùng ông lo việc. Việc nước đâu phải chuyện riêng một nhà, sao không nói cho mọi người đều biết? Nếu không lo liệu sớm thì thử hỏi một mình ông có trụ được không?

Các quan đều xôn xao, cho lời nói của Nguyễn Đình Giản là đúng nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn một mực cho rằng các quan đã quá lo xa, tình thế chưa có gì đáng ngại. Các quan đều nhất mực đưa ra ý kiến cần gấp rút đề phòng, chuẩn bị sẵn quân đội và phân tích, việc đoàn sứ bộ không trở về và Võ Văn Nhậm đã tiến vào Thanh Hoa cho thấy, tình hình không đơn giản như Nguyễn Hữu Chỉnh nghĩ. Ý kiến và sự phản ứng quyết liệt của các quan khiến Nguyễn Hữu Chỉnh đột nhiên lờ mờ cảm thấy mọi việc có vẻ đã không ổn. Thêm nữa, khi Phan Lê Phiên, một vị đại thần có uy tín trong triều lên tiếng:

- Không cần nói nhiều. Quân giặc đến chỉ có đánh mà thôi. Bằng quận công thấy ai có thể làm tướng thì tâu xin hoàng thượng chuẩn y, tòa Xu mật sẽ cấp binh bài, tòa Độ chi sẽ cấp lương thực. Ngày mai tức tốc lên đường, không chậm trễ!

Nguyễn Hữu Chỉnh liền gật đầu:

- Ý tôi cũng như ông vậy.

Rồi quay sang nhà vua, Nguyễn Hữu Chỉnh tâu:

- Xin hoàng thượng chuẩn y cho Nguyễn Như Thái làm thống lĩnh, Ninh Tốn làm tham tán quân vụ, đem quân hợp với quân của Duật để chống đỡ ở Thanh Hoa.

Cuộc họp bàn của các đại thần trong triều lại chậm một bước. Lúc này quân của Nguyễn Duật đã bị quân Tây Sơn do Ngô Văn Sở chỉ huy lẻn qua sông Tất Mã, đánh úp phía sau. Nguyễn Duật sợ hãi đem quân rút chạy, chạy cả đêm tới Cao Lũng, mệt phờ người lại nhận được tin thám báo, quân của Ngô Văn Sở đã ở đó rồi. Nguyễn Duật giật mình, cố thu gom tàn quân để chống đỡ nhưng không nổi và đã chết tại trận.

Trong khi đó, Nguyễn Như Thái nghe tin quân của Nguyễn Duật thất bại thảm hại, Nguyễn Duật đã chết trận, liền bàn với Ninh Tốn:

- Tam Điệp là nơi hiểm yếu, phải tiến đến giữ lấy. Như vậy về phía Bắc vẫn là của mình. Nếu Tam Điệp mất, tôi e ở lộ Sơn Nam khó giao tranh với giặc.

Ninh Tốn gật đầu, cùng bàn định kế hoạch ngăn chặn quân Tây Sơn. Nguyễn Như Thái lập tức cất quân nhưng vừa qua sông đã nghe tin quân Tây Sơn vượt núi Tam Điệp rồi. Nguyễn Như Thái lo lắng nhưng đành đem quân bày trận để chặn quân Tây Sơn. Quân của Nguyễn Như Thái bị quân của Tây Sơn chia làm hai ngả đánh kẹp vào, Nguyễn Như Thái đành lên ngựa chạy trốn. Quân của Ninh Tốn cũng bị đánh tan tác, Ninh Tốn do trốn được vào một nhà dân nên mới thoát nạn.

Quân của Võ Văn Nhậm thừa thế tiến đánh. Nguyễn Hữu Chỉnh nghe tin cấp cáo vội cho gọi con trai đến, nói rõ tình hình và quyết định hai cha con ông phải nương vào nhau, hợp sức chống chọi. Nguyễn Hữu Du thưa:

- Xin cha yên lòng, con sẽ cầm quân đi trước, lấy đầu Võ Văn Nhậm về.

Nguyễn Hữu Chỉnh lập tức vào triều tâu với vua xin thân chinh cầm quân.Vua Lê Chiêu Thống lo lắng nói:

- Trận đánh này quan hệ đến sự an nguy của đất nước. Chớ khinh thường giặc, mau đưa tin thắng trận để yên lòng trẫm.

Nguyễn Hữu Chỉnh tâu:

- Thần đã rõ tình hình giặc, Võ Văn Nhậm thật ra là một kẻ hữu dũng vô mưu, ngày thường hắn vẫn sợ thần, nay thần thân chinh cầm quân, chắc hắn không dám chống chọi. Thần sẽ lấy khí thế mà đè nén, không cần đánh cũng thắng. Xin hoàng thượng chớ lo.

Câu nói chắc như đinh đóng cột của Nguyễn Hữu Chỉnh phần nào làm an lòng nhà vua. Vua Lê Chiêu Thống thân tiễn Nguyễn Hữu Chỉnh xuống thềm, lại sai các quan tiễn đội quân của Nguyễn Hữu Chỉnh ra ngoài kinh thành.

Con của Nguyễn Hữu Chỉnh là Nguyễn Hữu Du theo lời cha đem quân ra sông Thanh Quyết (khúc sông Đáy thuộc Ninh Bình), đắp lũy đất dọc sông, dựng đồn cố thủ. Ban đêm, do quân của Nguyễn Hữu Du lạnh quá phải đốt lửa sưởi nên quân của Võ Văn Nhậm nhìn thấy rất rõ. Võ Văn Nhậm bèn cho quân bắn vào những chỗ có đám lửa, quân của Nguyễn Hữu Du hoảng sợ, tự tan vỡ. Số quân mười phần chỉ còn hai ba. Nguyễn Hữu Du lo lắng phải rút quân, vừa rút vừa có ý chờ hội với quân của Nguyễn Hữu Chỉnh.

Tương truyền, khi Nguyễn Hữu Chỉnh tới trạm Bình Vọng, đêm đó ông ngồi một mình, trầm ngâm suy nghĩ về thế cuộc. Không hiểu vì sao trong giờ phút này, ông lại nhớ khi xưa, ông đã làm những vần thơ bất đắc chí khi lận đận trên đường công danh:

Phận đành yên phận chửa yên thân

Vàng bạc còn chen đám bụi trần

Trong hãy trả ơn bề cốt nhục

Ngoài càng luống tưởng đạo quân thần

Mình ta đã nghĩ ta vô lụy

Dạ chúng nên hiềm nỗi bất nhân

Ấy bởi vụng sinh hay lỗi số

Máy thiêng khôn xiết mặc xoay vần

Đã hẳn ai là mặt cố tri

Giàu sang tìm đến khó tìm đi

Bạc đen dạ chúng ta hay vậy

Vàng đá lòng ta, chúng biết gì

Có phận ra người nên giữ phận

Lỗi thì là đứa phải theo thì

May ai nấy gặp chăng mà chớ

Lỡ bước lầm chân ấy cũng vì.

Trong sự cô đơn, ông đã tự bói một quẻ. Lời đoán của quẻ này thật xấu khiến ông lần đầu tiên sợ nổi da gà. Quẻ thẻ có câu: Nước có giặc lớn, nguyên nhung thua trận. Hữu Chỉnh đang lo sợ bối rối thì bất ngờ có một đàn ong rừng không biết ở đâu đến cứ nhằm ông mà đốt. Nguyễn Hữu Chỉnh thất sắc, xem đó là điềm gở. Đang hoang mang thì đám quân bại trận của Nguyễn Hữu Du chạy về. Du nhớn nhác:

- Quân ta đã vỡ, giặc đuổi sắp đến nơi rồi.

Nghe câu nói này, Nguyễn Hữu Chỉnh vốn là người bình tĩnh bỗng nhiên mặt mày thất sắc, ông không thể hiểu nổi vì sao tình hình lại trở nên bi đát như vậy. Trong quân nhốn nháo, các tướng hốt hoảng cho rằng không thể giao tranh với quân Tây Sơn ngay trong lúc này. Một viên tướng bàn:

- Nay thế quân Tây Sơn mạnh như chẻ tre, đi lại nhanh như chớp. Từ đây đến kinh thành chả mấy nỗi. Chi bằng rút quân về lui giữ đất Kinh Bắc, chặn ngang sông Nhĩ Hà rồi sau sẽ tính nước tiến lui.

Nguyễn Hữu Chỉnh nghe lời bàn, biết không thể còn cách nào khác, ông phái Nguyễn Khuê vào điện tâu với vua để ngày mai, xa giá sang Kinh Bắc còn ông về thẳng phủ, sai gia nhân thu xếp và hộ vệ gia đình sang sông trước.

Một lát sau, nhà vua lật đật đến dinh của Nguyễn Hữu Chỉnh, thấy Nguyễn Hữu Chỉnh đang sai gia nhân dọn dẹp, vua thất vọng hỏi:

- Sự thể đã đến thế này thì phải làm thế nào đây?

Nguyễn Hữu Chỉnh ngượng ngập nhìn nhà vua, đau khổ tâu:

- Thần không xứng đáng với chức trách bệ hạ giao phó, tội ấy không thế tha thứ. Giờ hai mặt kinh sư không còn gì để nương tựa, chống đỡ, thành lũy chưa có, quân giặc đến không có gì ngăn cản, đánh chắc không được mà giữ cũng không xong. Theo thiển ý của thần, bệ hạ nên xa giá sang phương Bắc để tính kế sau này. Chắc chắn quân giặc từ xa đến mệt nhọc, lại bị sông lớn ngăn trở, không dám đuổi theo. Trong vòng mươi ngày, ta có thời gian chuẩn bị, sẽ có cơ hội tốt để khôi phục. Xin bệ hạ gấp cho, thần sẽ đợi ở bến sông.

Dứt lời, Nguyễn Hữu Chỉnh lập tức ra đi, nhà vua cũng vội về cung thu xếp để chạy. Chỉ có thái hậu và con nhỏ của nhà vua được ngồi trên cáng tre còn tất cả phi tần đều đi bộ. Đồ đạc hầu như đều bỏ lại hết, thậm chí nhiều thứ quý báu còn rơi vãi dọc đường nhưng ai nấy đâu còn tâm trí để nhặt nữa. Suốt dọc đường, dân chúng dắt díu nhau chạy loạn, cảnh tượng thật hỗn độn. Đến bến sông, mạnh ai nấy sang, thả sức giẫm đạp lên nhau. Tiếng than khóc, gọi nhau ý ới vang động. Quang cảnh thật hỗn độn, thảm thương.

Nguyễn Hữu Chỉnh cùng các quan theo xa giá chạy loạn, ai nấy đều sấp sấp ngửa ngửa, bộ dạng thật thiểu não. Chập tối đến trấn Kinh Bắc, Nguyễn Hữu Chỉnh cho kiểm điểm lại số quân, thấy lính hao hụt đến quá nửa, phần lớn họ đã bỏ trốn về lo cho gia đình, số lính còn lại chỉ khoảng hơn bốn trăm người với hơn sáu mươi con ngựa. Nguyễn Hữu Chỉnh lập tức chấn chỉnh đội ngũ, đem quân đi trước qua sông Như Nguyệt, đến đóng đồn ở núi Tam Tằng, Hà Bắc, đốc thúc lính cắm rào, đắp lũy rồi sai người hộ vệ xa giá.

Đêm ấy, dù trong cơn bĩ cực, phải lo toan chống trả nhưng khi thành lũy dựng xong, nghĩ lại số lính chỉ vẻn vẹn hơn bốn trăm người, ông buồn bã mà nhận ra trò đùa tai ác của số phận. Ông là một viên tướng chỉ huy nhưng thực ra cũng chi như con bài trên bàn cờ của tạo hóa:

Vô duyên, trái kiếp, thiệt hòa hai,

Chẳng biết là ai giống máu ai?

Những tưởng trên thời đà suốt dưới,

Nào hay trong lại phải thua ngoài.

Nghĩ nguồn cơn nọ, gan dầm muối,

Thấy khúc nôi này, thịt sởn gai!

Khen kẻ đặt lời, sao khéo xiết,

Rằng thân người chằng khác con bài!

Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân đi trước lập phòng lũy, nhà vua không thể sang sông bởi lúc này, ai cũng lo sợ, chỉ muốn thoát thân. Viên quan trấn thủ nơi này là Nguyễn Cảnh Thước tâu:

- Xin bệ hạ ban cho ít vàng lụa để thuê thuyền qua sông, giờ không kẻ nào biết trên dưới là gì nửa rồi. Nếu chậm trễ, thần e đến mai cũng không qua được sông.

Vua Lê Chiêu Thống buồn bã than:

- Ta có cả thiên hạ còn không giữ nổi, tiếc gì mấy thứ lụa là vàng bạc đó.

Vua liền sai người mở hòm cho Cảnh Thước xem, trong đó chỉ có ấn truyền quốc và bốn mươi lạng vàng. Thước tham lam lấy hết tất cả rồi mới gọi thuyền chở vua sang sông. Nhà vua lâm vào tình cảnh khốn khó, nhục nhã, phẫn uất ứa nước mắt rồi quyết định cùng thái hậu và các phi tần chạy lên Cao Bằng nương náu.

Quân của Võ Văn Nhậm do tướng Nguyễn Văn Hòa cầm đầu đuổi kịp Nguyễn Hữu Chỉnh. Hai bên đánh nhau ở núi Tam Tằng. Nguyễn Hữu Du cố chống đỡ, múa đao giết vài chục lính Tây Sơn nhưng cánh quân kỵ binh của Tây Sơn bất thần từ phía sau đánh ập đến. Quân của Nguyễn Hữu Chỉnh rối loạn, thế trận bị vỡ. Nguyễn Hữu Du kêu lớn: “Cha chạy đi, để con chặn giặc”, rồi cố tìm cách thu hút sự chú ý về phía mình. Một lát sau, Nguyễn Hữu Du bị đám lính quây lại bao vây, chết ngay tại trận. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy tình thế không thể đảo ngược, lại nghe rõ tiếng giục của con trai, liền nhảy ngay lên ngựa, nhằm hướng Bắc mà phóng như bay. Tuy nhiên, sự may mắn đã rời bỏ ông, ông bị quân Tây Sơn dùng giáo ngáng chân ngựa. Ông lập tức ngã vập xuống đất và bị bắt sống, bị trói chặt và đưa về kinh.

Trên đường bị trói giải về kinh, dầu là một người quyền biến, ông hiểu rõ vào lúc này, ông không thể làm bất kỳ điều gì để thay đổi tình thế được nữa. Thân phận của ông giờ đây không khác gì hùm thiêng sa cơ, nhìn thấy rõ cái kết cục đen tối đang chờ đợi mình. Không hiểu sao ở vào hoàn cảnh bi đát thế này, cuộc đời lại như một cuốn phim quay nhanh hiện về trong đầu ông.

Dù nhìn nhận khiêm nhường đến đâu, ông vẫn là người có tài cả văn lẫn võ. Công danh mà ông đạt được là do vì tài mà được trọng dụng, một điều không dễ dàng trong thời buổi nhiễu nhương. Và điều khiến ông khác hẳn những người khác là ông biết lựa thế mà tiến, quyền biến, linh hoạt. Nếu không có vụ biến loạn 1782, kiêu binh nổi lên tiến hành đảo chính phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông, quận Huy vì thế mà bị kiêu binh giết thì cuộc đời ông đâu có bước ngoặt như thế?

Ông vốn là người thân tín của quận Huy, khi quận Huy bị diệt, triều đình Bắc Hà ở trong tay địch thủ, sớm muộn ông cũng không tránh khỏi kết cục bi thảm. Trong thế cùng đó, ông đã phải suy tính đến hai con đường: một là liên kết với phó tướng Thuận Hóa giết Phạm Ngô Cầu, chẹn đường Hoàng Mai, đóng cửa Quỳnh Lưu, rồi tùy cơ mà xoay xở; hai là phải bỏ nước mà tìm chốn dung thân. Không còn đường sống ở Bắc Hà, muốn đứng một mình ở Nghệ An không được, tình thế buộc ông phải lựa chọn con đường thứ hai. Đó là thế cùng, nhưng thử hỏi liệu có ai rơi vào hoàn cảnh như ông mà đảo ngược được tình thế không? Dầu sao đi nữa, ông đã có con mắt hơn đời.

Việc ông bị dư luận đương thời phê phán là nhị tâm, hai lòng, trước thì phản bội nhà Lê, giúp Tây Sơn, sau lại hai lòng với Tây Sơn chiếm đất Nghệ An, khi Tây Sơn không nhìn nhận, người Nghệ An không dong mới quay về với hoàng thượng thì sao? Ông chua chát nhận ra rằng, tài năng chưa đủ để thực hiện những ước muốn và toan tính của ông trong thời buổi loạn lạc này. Thử hỏi, một người muốn thi thố và lập công danh trong một xã hội đảo điên, các thế lực tranh giành quyền hành như thế, muốn đạt được mục đích của mình mà không quyền biến thì sao có thể thành công?

Ông phụ nhà Lê ư? Triều đình ấy thực chất chi là bù nhìn, đâu đáng để ông tâm phục tin theo? Ông phản nhà Trịnh ư? Chúa Trịnh đâu còn có uy danh như các vị chúa tiền liệt trước đây, đã bị đám kiêu binh nổi lên, tự sắp đặt mọi việc triều chính. Vị chúa ấy đâu phải là hình ảnh một minh chủ để ông thờ?

Còn nhà Tây Sơn thì sao? Không lẽ việc làm của ông lại chẳng mang lại điều gì hay sao? Chính ông đã đưa ra ngọn cờ “phù Lê diệt Trịnh”, khiến việc đem quân ra Bắc Hà của Nguyễn Huệ chẳng những xóa đi được dị nghị mà còn trở thành một nghĩa lớn của người anh hùng. Ông tuy không phải là động cơ duy nhất thúc đẩy Tây Sơn ra Bắc nhưng lý luận đích đáng của ông đã đóng vai trò hết sức trọng yếu trong việc thuyết phục Nguyễn Huệ quyết định Bắc tiến, tiếp sức làm đổ vỡ cái thế phân tranh cũ kéo dài hơn hai trăm năm, mở mang thống nhất sơn hà. Như vậy đâu có thể chỉ quy kết ông phản nhà Tây Sơn?

Có chăng - ông chua chát nghĩ thầm - trời đã phú cho ông mưu lược tài trí hơn người nhưng lại giễu cợt ông khi không tạo thiên thời cho ông. Vậy ông phải làm gì trong tình cảnh này? Liệu có thể tìm ra lối thoát bằng cách thuyết phục Võ Văn Nhậm rồi sẽ liệu bề tính sau không?

Tuy nhiên, mọi toan tính của ông không như ý trời. Giờ đây đâu còn là thời kỳ ông có thể dùng lời nói khôn ngoan của mình để bao biện, che chắn nhằm tìm ra lối thoát hữu hiệu nữa. Võ Văn Nhậm vốn ghét giọng lưỡi biện bác khôn ngoan của Nguyễn Hữu Chỉnh, mới gặp ông đã phủ đầu:

- Vốn là tôi chúa Trịnh, lại phản chủ theo về với Tây Sơn, được Tây Sơn dung nạp, lại tìm cách phản Tây Sơn ra Bắc, đã thế còn lừa dối vua Lê, chiếm ngôi, đoạt quyền, không rõ thân phận lại còn có ý tranh đoạt với chủ tướng của ta, thử hỏi còn gì đáng nói. Phải phanh gan ruột ngươi ra để làm răn cho những kẻ phản loạn mới đáng.

Nguyễn Hữu Chỉnh nghe Võ Văn Nhậm nói chỉ im lặng. Thế là hết. Chim Bằng đã gãy cánh, hỏi còn có cơ hội nào không? Lúc này đây, ông không thể biện minh gì cho mình. Phải chăng suốt cuộc đời ông đã khao khát muốn thoát ra ngoài mọi sự ràng buộc của những tiêu chí thông thường, muốn hành động với khát vọng tìm kiếm mọi con đường giải phóng năng lực và tham vọng của mình - con người tự do nhưng không thể vì trời đã không ủng hộ ông?

Vào giây phút cuối đời, ông chợt có một mong muốn người đời sẽ khách quan khi nhìn nhận ông - một con người mà khi sống đã phải đứng dưới chân cột đèn không được sáng.

Trong khi Võ Văn Nhậm liên tục sỉ mắng thì Nguyễn Hữu Chỉnh lại tỏ ra bình thản dửng dưng. Chỉ đến khi Võ Văn Nhậm quát hỏi: