← Quay lại trang sách

PHỤ LỤC -HỊCH ĐÁNH TRỊNH

Bài hịch này tương truyền của Nguyễn Hữu Chỉnh thay mặt Nguyễn Huệ soạn ra, có một nhận xét về tác giả bài hịch như sau: “...nhưng dù vua Quang Trung không làm toàn bộ thì chắc cũng phải tham gia hiệu đính tu sửa rất nhiều vì bài hịch chính thức đứng tên ông, mà vua Quang Trung vốn là người sính chữ Nôm và cũng có học vấn, lại là người thích tự tay làm mọi việc. Đọc đoạn thơ Nôm của vua Quang Trung “Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh cho nó chích luân bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ...” chúng ta thấy giọng điệu khí phách không khác gì bài hịch, nên bảo rằng Nguyễn Hữu Chỉnh làm toàn bộ là không có cơ sở”.

Sinh dân phải nuôi dân làm trước, vậy hoàng thiên dựng đất quân sư

Gặp loạn đành dẹp loạn mới xong, ấy vương giả có phen binh cách

Hội thuận ứng thế đừng được chửa

Việc chinh tru lòng há muốn ru

Ta đây: Bẩm khí trời Nam

Vốn dòng họ Nguyễn

Nhờ lộc nước phải lo việc nước, đòi phen Trương tử giả ơn Hàn

Ăn cơm vua nên nhớ nghĩa vua, chi để Tào man nhòm vạc Hán

Giận quốc phó ra lòng bội thượng

Nên Tây Sơn xướng nghĩa cần vương

Trước là ngăn cột đá giữa dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp ghé

Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng nhân sa chốn lầm than

Ví lòng trời còn nền nếp Phú Xuân

Ắt đấu cũ lại cơ đồ Hoa Hạ

Nào biết ngôi trời có bảy, giặc họ Trương toan biến phiếm mười phần

Bỗng xui thế nước tranh ba, tôi nhà Hạ phải thu hồi hai nước

Thế bạng duật đương còn đối mặt

Thói kình lang sao khéo lắng tai

Ngoài mượn lời cứu viện làm danh, dân kinh loạn cử binh điếu phạt

Trong mấy chữ thừa nguy để dạ, chốn thừa bình nên nỗi lưu ly

Cung đền thành quách phá lâng lâng

Súng ống thuyền bè thu thảy thảy

Cơn gấp khúc chẳng thương dòng ngoại tộc, đã cùng đường đuổi thú thời thôi

Dấu cưỡi rồng còn nhớ đấng tiên quân, lại khoét lỗ bừa sâu sao nỡ

So chữ bạo lửa nồng quá Hạng

Dò lòng người nước chảy về Lưu

Chúng cùng đường cờ nghĩa đem về đầu, nên quân số mỗi ngày một thịnh

Dân cơ cận cảm lòng nhân ngóng cổ, khiến binh uy càng thấm càng thêm

Quảng Nam đà quét sạch bụi trần

Thuận Hóa lại đem về bờ cõi

Nam một dải tăm kình phẳng lặng, cơ thái bình đứng đợi đã gần

Bắc mấy thành tin nhạn chưa yên, bè cứu viện ngồi trông sao tiện

Cảm công đức vua Lê dám phụ

Lộng quyền hành họ Trịnh khó nghe

Ngôi hoàng đế đặt không, há nước thấp lao lung thấy đặng

Tội Hoàng Sào chẳng có, lòng trinh thêu dệt vào bình

Hiệu Đoan Vương càng tỏ dạ vô quân

Mưu soán đoạt nên lòng bội phụ

Trưởng cung vốn xưa nay là đích, quyền cha trót bội bạc sao đành

Điện Đô tuy bé nhỏ nhưng anh, mệnh cha rắp tranh khi sao phải

Tai chẳng đoái đến lời cố mệnh

Mặt nào trông vào chốn tử cung

Khiến một đàn con trẻ đàn bà, đem chữ hiếu nỡ gieo xuống đất

Để những kẻ tôi ngay người thẳng, tiếng kêu oan đã động đến trời

Chí tôn phù ví chẳng mưu mình, thì sắc lệnh ngân tiền nào đợi nó

Gươm ngược cán còn đem xuống dưới, nghĩa lý nào trời đất còn dong

Lưới đứt giềng quân đuổi được quan, ấy sự ấy xưa nay cũng lạ

Vì phế lập muốn mình cho ích

Để khuynh nguy làm nước phải lo

Vả bấy nay thần nịnh chúa hôn, mở bình trị lòng trời hẳn muốn

Lại gặp hội binh kiêu dân oán, sửa mối giềng tài cả phải ra

Chước vạn toàn đã tạc đá Hoành Sơn

Binh tức khắc giương buồm Bắc Hải

Qua sông Mạnh phất cờ Chu Võ, ra tay sử chính dẹp tà

Vào đất Quan thét ngựa Hán Hoàng, quyết chí lấy nhân đổi bạo

Sắp sửa vắn nguyên lòng thật

Giữ gìn phải ngỏ lời ngay

Chữ hướng minh phải mượn ai suy, thương sĩ nữ huyền hoàng là thế

Máy trợ thuận hẳn nhiều kẻ biết,... nữa ta

Ai biết suy lẽ phải, quyết một lòng hạ chúng hề tô

Ta chẳng phụ dân lành, ắt hai chữ thu hào vô phạm

Thói bội phản chớ quen như trước

Chút thái bình còn để dài lâu

Nước triều đông ví chẳng thuận dòng, lại cự cưỡng rắp giơ tay chắn

Lửa cháy đá vỡ hòa lầm ngọc, dù hiền ngu khôn lọt lưới trời

Ân với uy ngỏ cáo lời hằng

Thuận hay nghịch mặc lòng ai quyết.