CÁC KHÁI NIỆM KHÁC
Trong phần này của Chỉ mục, rất ít mục cần chú thích thêm, vì hoặc là mang tên các thứ tiếng khác (nhất là tiếng Elf), hoặc bằng tiếng Anh hiện đại (= NNC) thông thường và yêu cầu dịch bình thường.
Elder Days. Độc giả dùng tiếng Anh tất nhiên sẽ hiểu đây là “older” (nghĩa là “former” [trước kia]), nhưng kèm theo sắc thái cổ, vì tuy là dạng gốc của cấp so sánh hơn nhưng dạng này nay chỉ còn dùng cho người, hoặc dùng làm danh từ Elders (tiền bối, trưởng thượng). Đặt ra cụm từ mới này, tôi đã có dụng ý đó, kèm theo liên tưởng về từ eld hay dùng trong thơ ca, nghĩa là “tuổi già, đời xưa”. Sau này (gần đây) tôi đã gặp trong tiếng Anh sơ kỳ cách nói be eldern dawes, “vào thời tiên tổ chúng ta, rất lâu về trước”. Cụm từ này, nghĩa là “thời những bậc tiền bối”, có thể giúp đặt ra cách dịch không chỉ tương đương với “những ngày trước kia”. Bản Thụy Điển chỉ để đơn giản là i Äldre tiden; bản Hà Lan để de Oude Tid (kém chính xác hơn, vì tất nhiên chữ đó có thể dùng cho các kỷ nguyên khác trước Third Age).
(Sự giống nhau với Eldar, dạng số nhiều của Elda, “Elf”, chỉ là ngẫu nhiên không có chủ ý. Elda là dạng Quenya của S. edhel.) [(thời, thuở) Cựu Niên]
Elven. Xem chú thích ở Elven-smiths giải thích dạng tính từ cổ này.
Evermind. Tên hoa, dịch từ R. simbelmynë. Yếu tố -mind có nghĩa “ký ức”. Như vậy tên này tương tự “forget-me-not” [đừng quên tôi, hoa lưu ly], nhưng loại hoa nói đến lại thuộc loại khác hẳn: đấy là một chủng cỏ chân ngỗng [anemone] tưởng tượng, cũng mọc trên lớp đất mặt như Anemone pulsatilla6 hay bạch đầu ông [pasque], nhưng nhỏ hơn và trắng muốt như thu mẫu đơn [wood anemone]. Dịch ý. Bản Thụy Điển và Hà Lan đều bỏ mất yếu tố -mind, dẫn đến các tên tương đương với “hoa vĩnh cửu”, nhưng dụng ý không phải là thế. Dù cây ấy nở hoa suốt bốn mùa nhưng bản thân hoa thì không phải “bất tử”. (TĐ. evighetsblommor, HL. Immerdaar.) [hoa vĩnh ký]
Ithilstone. Dịch yếu tố sau -stone, [quả cầu Ithil]
Kingsfoil. Dịch: -foil (từ PC. foil) = “lá”, như trong cinquefoil [ỷ lăng], v.v. Cây asëa chỉ lá là có giá trị. [lá vua]
Lithe. Lithe trước và Lithe sau (AC. líða) là những tên cổ chỉ tháng Sáu và tháng Bảy. Tên tháng trong Lịch ở Shire tất cả đều là dạng (biến dạng) từ các tên tháng tiếng Anh Cổ. Trong lịch Hobbit, (the) Lithe là ngày chính giữa năm (ngày thứ 183). Vì tên tháng của người Hobbit được coi là không phải bằng NNC, mà là dấu vết được bảo lưu từ ngôn ngữ dùng ngày xưa trước thời di cư, nên tốt nhất là để nguyên Lithe - bỏi các tên còn lại trong lịch chắc chắn phải làm thế, dù dịch các Phụ lục ra tiếng nào. Bản Hà Lan giữ lại Lithe. (Chữ này của riêng tiếng Anh, không có chữ nào tương tự trong lịch pháp ở đâu cả.) Bản Thụy Điển viết lại cả đoạn “... chức vụ này cứ mỗi bảy năm được bầu một lần ở Hội chợ Tự do trên khu Đồi Trắng vào ngày Lithe, tức ngày Hạ Chí” (Phi lộ, T1 tr12) thành: Han valdes vart sjunde år vid midsommarvakan uppe pä kritklipporna i sommarsolståndets natt [Người này được bầu bảy năm một lần trong đêm vọng chính giữa hè trên vách đá phấn vào đêm hạ chí]. Ở đây, ngoài việc bỏ mất “Free Fair” và dịch nhầm White Downs (tên địa danh) thành “vách đá phấn” (!), còn diễn giải sai ý đoạn văn cùng những phong tục miêu tả rõ ràng ở đây. Đó không phải là một lễ hội ban đêm, hay “đêm vọng”, mà là ngày hội ban ngày, có tổ chức một “Free Fair” (bản Hà Lan Vrije Markt), gọi như vậy vì ai muốn cũng có thể dựng rạp bán hàng không mất phí. Người dịch đã nhập đoạn này vào lễ hội hạ chí Scandinavia, vốn đã Kitô hóa trên danh nghĩa bằng cách kết hợp với ngày lễ Thánh John Tẩy Giả (24 tháng Sáu), diễn ra cũng loanh quanh mấy ngày đó (I. Jónsvaka, Jónsmessa, ĐM. Sankthansnat, Skaer-sommernat, v.v.). Nhưng việc này đâu phải là một Giấc mộng đêm hạ chí!
Yule, ngày giữa đông, chỉ xuất hiện trong Phụ lục D (*), nhưng khi dịch cũng cần được coi là từ lạ như Lithe, không thông dụng trong NNC. Vì thế chữ này cần giữ nguyên, dù có thể để chính tả phù hợp với NND: ví dụ như tiếng Đan Mạch hay Đức viết là Jule, cho khớp với Lithe. Yule có gặp trong tiếng Anh hiện đại (hầu hết đều là từ cổ dùng trong văn chương), nhưng chỉ tình cờ và không thể coi là dấu hiệu cho thấy một từ tương tự, hay cùng gốc, cũng tồn tại trong NNC thời điểm ấy: lịch người Hobbit dùng khác hoàn toàn so với các lịch chính thức bằng NNC. Tuy nhiên, có thể giả định rằng từ này dưới dạng nào đó đã được con người phương Bắc dùng, khi họ tới sống và hợp thành một phần đông đảo trong dân cư Gondor (Phụ lục A), sau này dùng ở cả Rohan, nên một từ tựa như Yule đã được biết đến ở Gondor, như một “tên trên Bắc” dùng chỉ lễ hội giữa mùa đông. Gần giống như trong tiếng Đức hiện đại lại xuất hiện Jul (? vay mượn từ phương Bắc), trong những từ như Julblock, “Yule-log [khúc củi đun lễ Yule, hay Giáng sinh]” và Julklapp (trong tiếng Thụy Điển, và tiếng Đan Mạch cũng tương tự). Ở Scandinavia, tất nhiên Jule là đủ hiểu rõ.
(*) Ngày giữa đông chỉ xuất hiện một lần trong phần truyện chính. Lễ hội giữa mùa đông không phải là phong tục của Elf, do đó hẳn không được tổ chức ở Rivendell. Tuy nhiên, Đoàn hộ Nhẫn ra đi ngày 25 tháng Mười hai, vào thời điểm đó không mang ý nghĩa đặc biệt gì, vì thời ấy Yule hay ngày tương đương mới là ngày cuối năm cũ, đầu năm mới. Tuy ngày 25 tháng Mười hai (họ khởi hành) và 25 tháng Ba (họ hoàn tất nhiệm vụ) đều là do tôi cố ý chọn. [Lithe; Yule]
Longbottom Leaf. Xem Longbottom phần Địa danh. [Lá Đáy Dài]
Mathom. Để nguyên; đây không phải là NNC mà là từ đặc thù của Hobbit (so sánh Smials, xem Phụ lục F). Định nghĩa từ này có ở Phi lộ, T1 tr7: “bất kể thứ gì người Hobbit không sử dụng trước mắt, song lại chẳng nỡ lòng vứt bỏ”. Chữ này tương ứng với AC. máðm, “vật quý, của báu”. [mathom]
Old Toby. Một chủng thuốc lá, đặt theo tên Tobold (Hornblower). Dùng bất kỳ dạng tương đương nào của Toby dùng cho tên người. [Già Toby]
Old Winyards. Một loại rượu vang - nhưng tất nhiên thực tế là tên địa danh, nghĩa là “the Old Vineyards [các vườn nho cổ]”. Winyard trên thực tế vẫn còn được bảo lưu làm tên địa danh ở Anh, xuất phát từ tiếng Anh Cổ trước khi đồng hóa vin- từ tiếng Pháp và La tinh. Biến đổi này tôi nghĩ là không bắt chước được, nên đành phải hài lòng với từ chỉ “vineyard” trong NND, như Weingarten, vingaard, v.v. (HL. Oude Wijnggaarden.) Bản Thụy Điển, không vì lý do xác đáng gì (trừ khi không nhận ra nổi Winyards có họ hàng với vingård), cứ thế bỏ cả cái tên. [Vườn Nho Cổ]
Púkel-men. Tiếng Rohan, chỉ những hình nhân con người thuộc một chủng tộc đã diệt vong. Từ này tương ứng AC. púcel (vẫn còn lại dưới dạng puckle), một trong những dạng của căn tố pūk- (phổ biến khắp Anh, Wales, Ireland, Na Uy và Iceland) chỉ quỷ [devil] hoặc một yêu tinh nhỏ, vd Puck [trong Giấc mộng đêm hè], thường dùng chỉ những người xấu xí dị dạng. Các púkel-men đã được miêu tả kỹ, và yếu tố púkel có thể giữ nguyên - hoặc thay thế bằng chữ khác có hình thức và ý nghĩa gần gũi (có thể là cùng gốc) trong NND. (Bản Hà Lan để de Púkel-mensen, Thụy Điển để Pukel-männen.) [hình nhân Púkel]
Rope-walk. Không có trong Chỉ mục, nhưng xuất hiện ở T2 Q4 C1 làm tên thuật ngữ chỉ sân làm việc của thợ bện thừng. Xem Tighfield. [sân bện thừng]
Smials. Một chữ dùng riêng của người Hobbit (không phải NNC), nghĩa là “burrow [hang hốc]”; để nguyên. Đây là dạng khả thể của AC. smygel, “hang hốc” nếu còn lại đến ngày nay. Đấy cũng là yếu tố dùng trong tên thật của Gollum, Sméagol. Xem Phụ lục F. [Smial]
Springle-ring. Từ đặt mới. Chuyển thành từ tương tự, thích hợp với NND, miêu tả một điệu nhảy vòng tròn rất sôi nổi, mọi người thường nhảy lên cao. [Xoay Vòng Tưng]
Tale trong Tale of Years nghĩa là “tính, đếm”.
Westmansweed. Dịch, vì đây là chữ NNC chỉ “herb of the Men of the West [loài cỏ của Con Người từ phương Tây]” (nghĩa là từ Westernesse, Númenor). [cỏ người tây]
[←6]
Danh pháp khoa học ngày nay là Pulsatilla vulgaris.