Chương 3 Bình phong Haiku
Sau đêm thảm án là một buổi sáng mù sương. Trước bình minh, mưa đã tạnh hẳn, nhưng hơi nước quá nhiều tạo thành sương mù dày đặc bao trùm cả đảo Ngục Môn. Chùa Senko trên núi Iozen chìm sâu trong màn sương xám xịt tựa như đôi mắt còn mơ màng luyến tiếc giấc mộng chưa tàn, trắng nhờ đờ đẫn.
Trời vừa tang tảng sáng, Kindaichi đang nửa tỉnh nửa mê thì nghe thấy tiếng tụng kinh sớm từ chính điện vẳng lại, liền mở bừng mắt. Phòng anh nghỉ vốn là phòng đọc sách, lúc này cửa đóng im ỉm tối om, nhưng nắng mai vẫn len vào khe cửa sổ, nhảy nhót trong góc phòng. Anh nằm sấp, cầm đồng hồ đeo tay bên gối lên xem, thấy đã hơn 8 giờ, xem ra sáng nay cả trụ trì cũng ngủ nướng.
Kindaichi lại tiếp tục nằm bò ra, vơ điếu thuốc cạnh gối châm lửa, chống má vừa hút vừa bồn chồn nghe tiếng tụng kinh, cảm giác tiếng mõ sáng nay thê lương hơn hẳn, như thấm vào lần áo vậy. Anh mơ màng ngẫm lại việc tối qua, hi vọng lần ra chút chân tướng đằng sau thủ pháp giết người tàn độc nọ. Tiếc rằng dường như tại thiếu ngủ nên anh không tập trung được, tâm trí cứ lộn xộn, ngổn ngang như kẻ bị bịt mắt trong trò ú tim, mò mẫm lòng vòng tìm kiếm.
Kindaichi quyết định tạm thời gác suy tư sang một bên để bò dậy, song cứ nấn ná mãi không rời được ổ chăn ấm áp, lại thêm tiếng mõ đều đều như thôi miên, như rủ rỉ khuyên nhủ “thả lỏng, thả lỏng ra”, dụ dỗ tâm trạng đang thả lỏng tiếp tục thả lỏng thêm nữa. Kindaichi đành tạm để cho thân thể tiếp nhận lời mời gọi ấy, châm thêm một điếu thuốc, lờ đờ chống má, cặp mắt mơ màng liếc về phía tấm bình phong ba cánh.
Hai hôm trước, sư thầy nói về đêm trời sẽ lạnh hơn nên đã ân cần đem tấm bình phong này tới. Tinh xảo đẹp đẽ như bình phong bày sau dàn búp bê trong Lễ hội Búp bê, bề mặt dán một bức tranh chữ in từ bản khắc gỗ, nét chữ rồng bay phượng múa, chép một bài renga[1], tức là thơ nối câu, viết tháu vô cùng, Kindaichi chỉ đọc được lõm bõm vài chữ. Mặt sau dán ba bức tranh chân dung theo lối “một nét[2]” trên giấy dày, phải hai bức, trái một bức. Hai bức bên phải đều vẽ một người quấn khăn ống, mình vận áo chéo vạt của tăng lữ, trán có ba nếp nhăn, rõ ràng đã cao tuổi, mỗi tranh một dáng vẻ khác nhau. Bên trái lại họa một kẻ rất lôi thôi lếch thếch, đầu trần trọc lốc, cũng mặt áo chéo vạt nhưng lại phanh ngực áo phơi bụng ra, nghênh ngang ngồi khoanh chân, để lộ cẳng chân lông lá. Phía trên hình vẽ các nhân vật đều viết mấy bài haiku, nhưng nét chữ cũng tháu chẳng kém, còn khó hiểu hơn cả bài thơ ở mặt trước. Đã khó đọc như thế thì cũng chẳng cần cố làm gì, nhưng Kindaichi trong lúc mơ màng lại thấy nóng ruột lạ thường, bèn quyết định căng mắt ra đọc.
Trước tiên là bài haiku phía trên bức tranh bên phải. Bảy chữ giữa, năm chữ đầu và năm chữ cuối dường như đều viết bằng chữ Hiragana, song cũng khó mà nhận ra là chữ gì. Kindaichi luân phiên nhìn chòng chọc vào các chữ ở đoạn trước và đoạn sau, nhưng nét chữ của nhà thơ haiku này chẳng khác gì vết giun bò ngoằn ngoèo trên mặt bùn nhão sau cơn mưa tháng Năm, không sao nhìn ra được, anh đành bỏ qua, lại liếc nhìn sang tên tác giả. Lạ lùng là, dường như bài thơ có hai tác giả. Kindaichi ngạc nhiên nhìn kĩ, thấy dưới một cái tên có ghi chữ “chép” mới vỡ lẽ, hóa ra các bài haiku trên giấy dày không phải thủ bút của nhà thơ, mà là chép lại tác phẩm của một vị sư nào đó. Đọc kĩ lần nữa, anh nhận ra tên người này cũng xuất hiện trên hai bức tranh kia, bên dưới đều ghi “chép”. Có nghĩa là, ba bức giấy dày đều do một người chép lại. Tiếp đó Kindaichi căng mắt nhìn những chữ có phần dễ nhận hơn, cuối cùng cũng đọc được hai chữ “Cực Môn”.
“Ra thế.”
Anh hài lòng thở hắt ra. Cái tên “Cực Môn” rõ ràng được đặt dựa theo tên đảo Ngục Môn, xem ra tác giả ba bức giấy dày cũng ở trên đảo. Suy luận từ nãy đến giờ còn đơn giản, nhưng nếu chỉ đến đây thì chẳng có nghĩa gì cả, bởi vậy Kindaichi lại phải căng mắt ra đọc tên tác giả bài thơ. Cái tên này được ghép từ ba chữ Hiragana, nhìn kĩ lại mới thấy trên hai bức tranh màu bên phải cũng là những chữ tương tự. Nhân vật khoác áo thầy thuốc, đầu quấn khăn ống trong hai bức họa hẳn là một người, vậy tên ông ta là… Vắt óc nghĩ mãi, Kindaichi rốt cuộc cũng nhận ra.
“Gì cơ, hóa ra là Basho à.”
Giọng điệu anh hơi xấc xược, có phần không phải với cụ Basho dưới suối vàng. Anh ngán ngẩm không phải vì xem thường vị thiền sư vẫn được các nhà thơ haiku coi như thần thánh ấy, mà bởi sau khi vắt hết óc căng mắt ra nhận mặt chữ, anh lại nhận được một cái tên quen thuộc.
Nếu những bài thơ này là trước tác của Basho, may ra có thể lần mò đọc tiếp. Kindaichi một lần nữa mò mẫm từ năm chữ Hiragana ở đoạn trên và năm chữ Hiragana đoạn dưới, tập trung tinh thần vừa nhìn vừa đoán một hồi, rốt cuộc cũng đọc ra được.
Bi thương làm sao
Dưới chiếc mũ trụ
Xạc xào ý thu.
Anh thở phào, như trút được tảng đá đè nặng trong lòng. Lần mò đọc được một bức, đến bức sau lại đơn giản không ngờ.
Quán đêm sâu
Các du nữ[3] ngủ
Trăng và bông lau
Hai bài này đều nằm trong tập Lối lên miền Oku[4] của Basho, Kindaichi từng học trong sách giáo khoa trung học. Nếu đã đọc ra được bài thơ trong hai bức bên phải, vậy bức còn lại thì sao? Nhân vật trong bức tranh này thoạt nhìn đã biết không phải Basho, bởi bộ dạng không nhếch nhác như vậy. Tên tác giả cũng không có vẻ là Basho. Song nếu bên phải đã là thơ Basho thì bên trái cũng phải là một tên tuổi ngang tầm. Chẳng ai lại đi lấy bài thơ ba xu của một nhà thơ tép riu đặt ngang hàng với thiền sư Basho lừng danh cả. Kindaichi bèn lần lượt lấy tên các nhà thơ bậc thầy mà mình nhớ được lắp vào thử. Cuối cùng anh cũng nhận ra hai chữ “Kikaku[5]”.
“Ái chà, hóa ra là Kikaku. Lạ thật, sao phải viết thể chữ rối rắm khó đọc thế nhỉ.”
Kindaichi bực bội than thở, sở dĩ anh biết Kikaku là vì nhớ chuyện ông ta từng bị một phen bẽ mặt khi luận thiền cùng Otaka Gengo, song anh không biết nhiều về trước tác của ông, nên không chắc có đọc được bài thơ bên trên hay không.
“Hừm, năm xưa ông ta đã viết bài haiku thế nào nhỉ? À phải, là Năm tận tuổi tàn, đời như nước, miên man chảy xiết? Hình như không giống.”
Kindaichi gắng lục trí nhớ, cuối cùng cũng nhớ được lõm bõm hai ba bài haiku của Kikaku.
Trăng vằng vặc, xa xa xào xạc, bóng thông. Đồng hoang lạnh lẽo, sao sa, lạnh buốt lòng ta… Hừm, không đúng không đúng, đều không phải câu trên bình phong. Rốt cuộc là gì đây nhỉ?
Cố gắng lắm anh mới nhìn ra mấy trợ từ và thán từ bằng chữ Hiragana, còn lại thì có phải Kanji hay không cũng chẳng biết. Đoạn trên bài haiku này có thể là một chữ Kanji bốn âm tiết đi kèm một Hiragana, thế nên chữ Kanji nọ có lẽ là…
Còn đang ngẫm nghĩ thì…
“Cậu Kindaichi! Cậu Kindaichi!”
Tiếng gọi từ phòng chú tiểu vọng lại, cắt đứt mạch suy tư của anh.
“Cậu Kindaichi! Cậu Kindaichi! Chưa dậy à?”
Cảnh sát Shimizu. Kindaichi tức thì bật dậy, vừa nghĩ tới Shimizu, đầu óc anh lập tức bị kéo về hiện thực.
“Đợi nhé, tôi ra ngay.”
Vừa định thần, anh cũng nhận ra tiếng kinh sớm vẫn đều đều, nhưng đã gần kết thúc, tiếng khánh ngân nga vẳng đến từng hồi, chấn động cả bầu không lạnh lẽo. Kindaichi hối hả thay áo, nhét chăn màn vào tủ âm tường, mở cửa sổ chắn mưa ra, thấy sương mù dày đặc, anh kinh ngạc hắt hơi liền ba cái.
Anh đi chân trần xuống nhà bếp lạnh ngắt, Shimizu cười với anh, để lộ hàm răng trắng bóng sau bô râu rậm rì. Nhưng theo sau nụ cười là một tiếng tằng hắng khô khốc, Shimizu lấy lại vẻ mặt nghiêm nghị.
“Thật ngại quá, đêm qua tôi ngủ muộn.”
“Có gì đâu, cậu vất vả quá, đêm qua đúng là mệt chết đi được.” Hai mắt Shimizu thâm quầng, hình như cũng thiếu ngủ.
“Đúng thế, trời mưa chẳng đúng lúc chút nào… Anh vừa về à?”
“Vâng, vừa về tới nơi. Các vị ở đây xảy ra chuyện, bên kia tôi cũng gặp rắc rối to. Cứ như phim vậy!”
“Xảy ra chuyện gì thế?”
“Chuyện gì à? Đuổi bắt cướp biển chứ gì nữa! Pằng! Pằng! Pằng! Còn đọ súng cơ đấy! Ở đây không nghe thấy à?”
“Không hề, đấu súng ở vùng biển gần đây à?”
“Ừm, ở đảo Manabe, gây cấn lắm, kẻ địch hình như có bảy, tám tên, rặt một bọn liều mạng, bị dồn vào chân tường bèn nổ súng, chúng tôi cũng chẳng chịu lép, đôi bên đọ súng dữ dội. Quy mô còn lớn hơn cả trận Yashima và Dan no Ura trong cuộc chiến Genpei[6] ấy chứ!” Shimizu huênh hoang kể.
Kindaichi phì cười, “Vất vả quá nhỉ! Các anh bắt được chúng không?”
“Chúng chuồn mất rồi! Đám đó bắn hỏng thiết bị phát xạ của chúng tôi rồi thừa cơ chạy thẳng. Tàu của chúng có mười lăm tấn mà chạy nhanh lắm.”
“Đúng là xui xẻo. Phe ta chỉ có mỗi anh thôi à?”
“Dĩ nhiên không rồi. Sở cảnh sát điều hẳn tàu lớn, cử nhiều người đi lắm. Nghe tin báo chúng cho nổ nhà kho trên đảo, đánh cắp hàng dệt và tạp hóa nên chúng tôi mới giăng mẻ lưới to để dụ. À phải, tôi gặp cả người quen cậu đấy.”
“Người quen của tôi à?” Kindaichi ngạc nhiên hỏi lại. Nghe giọng điệu Shimizu cứ như trong đám cướp biển có người quen của anh vậy.
Shimizu đanh mặt lại, nhìn xoáy vào Kindaichi bằng ánh mắt nghi ngờ rồi hắng giọng, đổi chủ đề, “Cậu với tôi hợp tính nhau, quý lắm mới khuyên cậu câu này, nếu đã làm chuyện gì trái với lương tâm thì tốt nhất hãy chuồn cho mau!”
“Anh, anh, anh nói gì vậy?” Thái độ ân cần đột ngột của Shimizu làm Kindaichi sợ đến líu cả lưỡi. “Tôi làm chuyện, chuyện trái với lương tâm hả? Ai, ai nói vậy?”
“Một người quen của cậu. Ông ta hỏi tôi đảo Ngục Môn có việc gì bất thường không? Tôi đáp, có lẽ xảy ra chuyện, rồi lại kể rằng có một kẻ không rõ lai lịch tìm đến, tên Kindaichi. Không, à, là vì…”
“Không sao, anh có gọi tôi là kẻ không rõ lại lịch cũng không sao. Người kia bảo thế nào?”
“Ông ta giật bắn hỏi, ‘Gì cơ? Kindaichi ra đảo à?’ Đoạn hỏi, ‘Kẻ đó trông thế này thế này phải không?’Ông ta miêu tả cậu không sai mảy may. Tôi bèn đáp, ‘Đúng thế.’ Người nọ càng kinh hãi hơn, ‘Vậy là gay rồi, tên đó không đời nào mò đến hòn đảo chó ăn đá gà ăn sỏi như thế vì mấy chuyện vặt vãnh, nhất định phải có án mạng ra trò. Cậu cẩn thận đấy, theo dõi hắn sát sao vào! Để tôi xem, nếu rảnh rỗi tôi cũng sẽ ra một chuyến…”
Kindaichi càng nghe càng kinh ngạc, ngơ ngác nhìn chằm chằm vào Shimizu, “Người, người đó rốt cuộc là ai vậy?”
Shimizu nghiêm mặt, hắng giọng, nhìn như đóng đinh vào Kindaichi, “Là một chỉ huy có thâm niên điều tra phá án ở Okayama, họ Isokawa, vừa giỏi giang vừa giàu kinh nghiệm.”
Kindaichi gãi đầu sồn sột, vẻ vô cùng hào hứng. Gãi mải miết, gãi hăng say, đến nỗi gàu bay lả tả, khiến Shimizu phải lúng túng lùi lại mậy bước, “Cậu quen chỉ huy Isokawa ư?”
“Dĩ, dĩ, dĩ nhiên rồi, ông, ông ta vẫn khỏe chứ?”
“Đương nhiên vẫn khỏe. Có nhiều cảnh sát bị cách chức, nhưng ông ta còn hên chán.”
“Vậy, vậy, vậy ông ta có thể sẽ tới đây à?”
“Kindaichi,” Shimizu càng thêm nghi ngờ, nheo mắt hỏi. “Sao thế, cậu khóc đấy à?”
“Đâu có, ha ha ha!” Kindaichi vội giơ tay dụi dụi mắt. Quý vị độc giả nếu đã đọc Cung đàn báo oán, hẳn sẽ hiểu và đồng cảm với anh. Lúc anh mới ra nghề, gặp phải một vụ giết người trong phòng kín quái dị ở vùng nông thôn tỉnh Okayama, cùng phá án với anh chính là chỉ huy Isokawa. Không, nếu chỉ có thế, Kindaichi cũng chẳng cần phải khóc. Vấn đề ở chỗ từ đó đến nay đã cách cả một trận thế chiến, bao nhiêu đàn ông con trai bị gọi nhập ngũ và điều đến những nơi rừng thiêng nước độc, số trở về được lại nhận ra nhà mình bị đốt trụi, gia đình ly tán không rõ sống chết. Tạm dừng chân ở hòn đảo nhỏ hẻo lánh này, Kindaichi cũng đã dần quen với nhịp sống nơi đây, nhưng vẫn buồn rầu khó khuây khỏa, thình lình nhận được tin về người quen cũ, anh không khỏi xúc động đến phát khóc.
Shimizu săm soi nét mặt Kindaichi, thăm dò, “Cậu có thể bỏ trốn mà!”
“Khỏi, khỏi cần, lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt, trốn đâu cho thoát, ha ha ha!” Kindaichi phá lên cười ha hả.
Shimizu nghi hoặc thở dài, “Sáng nay nghe Takezo thuật lại đầu đuôi câu chuyện đêm qua, tôi đã nghĩ ngay đến việc bắt trói cậu lại. Bởi theo lời chỉ huy Isokawa, có lẽ cậu đã từng ăn cơm ở đồn, hơn nữa nghe giọng điệu thì… nhất định là hạng tội phạm cộm cán…”
Kindaichi nín cười đáp, “Phải, phải, anh nói đúng cả. như anh vẫn chưa bắt trói tôi, đủ thấy anh đã đổi ý rồi.”
“Phải, tôi nghĩ đi nghĩ lại vẫn còn mắc mớ một chuyện, nếu tình thế đảo ngược, tôi sẽ bắt trói cậu ngay lập tức.”
“Ồ? Tình thế đảo ngược là sao?” Kindaichi ngạc nhiên, viên cảnh sát ôn hòa này đang toan tính gì vậy.
Shimizu chớp mắt khó xử, “Cậu là đồng đội của cậu Chima, nhận lời ủy thác của cậu ấy nên mới đến đây phải không?”
“Đúng thế.”
“Tôi nghĩ mãi không hiểu được điểm này đấy. Nếu tình thế đảo ngược, cậu là đồng đội của cậu Hitoshi, nhận lời ủy thác của cậu ấy mà tìm đến đây thì hoàn toàn phù hợp với suy luận của tôi, tôi sẽ bắt trói cậu ngay.”
Kindaichi kinh ngạc nhìn chằm chằm như muốn xuyên thấu Shimizu, “Tại sao vậy? Tại sao nếu tôi là đồng đội của Hitoshi thì anh lại bắt trói tôi?
“Cậu không hiểu à? Cậu Chima chi chính đã chết, giấy báo tử cũng đã gửi đến, nên không thể sai được. Song chi chính vẫn chưa thể về tay cậu Hitoshi vì còn ba cô tiểu thư kia, nếu không lần lượt giết từng cô…”
Kindaichi chợt thấy lạnh toát sống lưng, nhìn trừng trừng vào gương mặt râu ria của Shimizu như muốn lao đến cấu xé. Một lúc sau, anh nói bằng giọng khàn khàn, xem chừng phải cố gắng lắm mới nén nổi cơn giận, “Tôi hiểu rồi, ý anh là nếu tôi là đồng đội của Hitoshi, nhận lời ủy thác của cậu ta mà đến đây, thì đáng nghi, bởi có khả năng cậu ta thuê tôi tới giết họ, phải không?”
“Đúng, đúng, giả thiết của tôi chính là như vậy. Có điều cậu lại là…”
“Không, đợi đã, giả thiết của anh có hai điều tôi chưa hiểu. Một là Hitoshi ở Myanmar không thể biết tin Chima ở New Guinea đã chết được, hai là kẻ thuê sát thủ cũng là đồng phạm, nên vẫn nguy hiểm chẳng kém, chi bằng cậu ta trở về rồi tự mình ra tay có phải an toàn hơn không?”
“Tôi không nghĩ vậy, trái lại, tôi cho rằng thuê sát thủ an toàn hơn. Nghĩ mà xem, nếu Hitoshi trở về rồi lần lượt giết ba cô tiểu thư, nhất định sẽ trở thành kẻ bị tình nghi hàng đầu. Nhưng nếu cậu ta vẫn còn ở Myanmar thì sao? Chẳng ai nghi ngờ cậu ta cả, hơn nữa, giả sử cậu là sát thủ được cậu ta thuê, thì cũng chẳng ai nghi ngờ cậu cả, vì cậu không có quan hệ máu mủ gì với nhà Kito…”
“Nhưng, nhưng như tôi vừa nói đấy, Hitoshi ở Myanmar không thể hay tin báo tử của Chima ở New Guinea được…”
“Bởi thế cậu ta mới chơi liều một phen. Cậu ta biết Chima đã bị gọi nhập ngũ, bèn nghĩ rằng, trận chiến này quy mô lớn như vậy, không chừng Chima đã tử trận ở đâu đó rồi. Bèn nhờ một đồng đội về quê trước, nếu Chima còn sống thì thôi, nhưng nếu đã qua đời, tên đồng đội ấy sẽ giết cả ba cô tiểu thư trước khi cậu ta về tới…không, nói không chừng còn nhờ sát thủ giết luôn cả cậu Chima nếu cậu ấy sống sót trở về ấy chứ…”
Những suy đoán đáng sợ ùn ùn tuôn ra từ miệng một người tử tế như Shimizu, nghe mà sởn cả tóc gáy. Kindaichi nghiến răng hít một hơi thật sâu, thẫn thờ hồi lâu mới đưa mắt nhìn Shimizu, “Tiếc rằng giả thiết của anh vẫn không đúng. Suy cho cùng tôi không phải bạn Hitoshi mà là bạn Chima, điều này anh công nhận chứ hả?”
Shimizu thở hắt ra, nhún vai đáp, “Ừ, thật ra tôi vừa tiện đường ghé qua chỗ chi chính hỏi thăm cô Sanae. Bởi tôi nghi ngờ không biết thư giới thiệu cậu đưa tới có thực sự là bút tích của cậu Chima hay không. Cô Sanae và bà Katsu đều đoan chắc như đinh đóng cột, nên tôi mới không bắt trói cậu đấy.”
“Cám ơn anh quá. Mà sao anh lại nghĩ ra giả thiết kinh khủng thế? Lẽ nào cậu Hitoshi có thể sắp đặt mưu đồ đáng sợ đến thế sao?”
“Tôi không biết được, tôi cũng chẳng hiểu sao mình lại nảy ra giả thiết ghê gớm ấy nữa? Chắc là tại hòn đảo Ngục Môn khiến người ta rợn cả gáy này đấy. Như tôi đã kể, dân đảo ai ai cũng thâm sâu khó dò, bên trong lớp giáp cứng như vỏ ốc là lối suy nghĩ kì quái, khác hẳn những người Nhật trên đất liền.Thêm vào đó, sau chiến tranh, tinh thần mọi người ít nhiều đều có phần sa sút, bằng không tôi cũng không nghĩ ra được giả thiết khủng khiếp nhường ấy đâu.”
Nói đoạn, Shimizu rầu rầu vuốt tóc, rồi lắc đầu quầy quậy.
Giả thiết của Shimizu rõ ràng không đúng. Bởi kẻ bị tình nghi là Kindaichi còn chưa biết mặt mũi Hitoshi thế nào, đây là chứng cứ quan trọng nhất. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, không thể coi giả thiết của Shimizu là suy đoán vớ vẩn vô căn cứ mà bỏ qua được, không chừng đó lại chính là sự thật khủng khiếp thì sao!
Bên tai Kindaichi lại văng vẳng lời trăn trối vừa ầm ầm như thủy triều lại vừa ì ùng như sấm xa, từng tiếng từng tiếng đập vào màng nhĩ khiến người ta rợn gáy, “Nhờ anh… đến đảo Ngục Môn… một chuyến… ba đứa em tôi… ôi… em họ tôi… em họ…”
“Ái chà, anh Shimizu vất vả quá.”
Kindaichi giật mình quay lại, thấy thầy trò nhà sư tụng xong khóa kinh sớm đang từ chính điện đi về phía này. Mắt cả hai đều thâm quầng, hẳn là vì thiếu ngủ.
“Ryotaku, con mau đi chuẩn bị bữa sáng đi. Cậu Kindaichi đói chưa?”
Nói đoạn, sư thầy lại quay sang Shimizu, “Không may xảy ra chuyện thế này, mọi việc đành trông cậy vào anh. Thi thể đang đặt ở chính điện, anh có muốn đi xem ngay không? Thế ư? Vậy chúng tôi sẽ cố ăn thật nhanh, xin anh đợi cho một lát nhé…”
Rồi sư thầy quay qua Kindaichi, “Cậu nói sáng ra phải đi kiểm tra dấu giày ư? Cậu kiểm tra rồi à” Ồ, ngủ nướng đến giờ mới dậy sao? Ha, ha! Cũng phải, ai gặp cảnh ấy đều thao thức khó ngủ cả đêm thôi, náo loạn như vậy, lại còn mưa to… Trong núi sâu, suốt đêm thâu, nghe mưa rầu rầu… cảnh này thật hợp với bài haiku Sora[7] viết khi nghỉ lại một ngôi chùa trên đường hành khất! Sora không phải nhà thơ ưu tú cho lắm, nhưng bài thơ này lại diễn tả rất tinh tế tâm tình.”
Sư thầy trích dẫn haiku theo thói quen, dứt lời lại điểm điệu cười khà khà bằng giọng khàn đặc vì thiếu ngủ.
Như đã kể, dân đảo ai nấy đều thành tín. Kindaichi đến chùa hôm trước, hôm sau đã bị khua dậy vì tiếng chân thiện nam tín nữ đến dâng hương từ sáng tinh mơ, tiếng rì rầm cầu khấn và tiếng kéo chuông miệng cá sấu[8] boong boong. Anh còn ngỡ ngàng tưởng là lễ tết gì đó, về sau quan sát mới biết ngày nào cũng vậy. Trước đây ra biển đánh cá hoặc làm việc, nếu không ghé qua chùa bái Phật, dân đảo sẽ bồn chồn cả ngày. Đây không còn là tín ngưỡng nữa, mà đã trở thành thông lệ mỗi ngày như đánh răng rửa mặt vậy.
Nhưng xem ra sáng nay Shimizu đã dàn xếp đâu vào đấy, bởi không thấy ai đi vào cổng chùa cả, ngoài mảnh sân mù mịt sương cũng vắng bóng người, thế nên Kidaichi mới vô tình dậy muộn, may mà tình trạng hiện trường vẫn chưa bị phá hỏng.
“Ta dùng bữa sáng đã nhỉ, cậu Kindaichi? Tối qua thức khuya như thế, chắc cậu cũng đói lắm rồi?”
“Vâng, cảm ơn thầy.”
Bữa sáng trong chùa đơn giản, chỉ có cơm với canh miso, thêm vài miếng củ cải muối. Shimizu ngại cởi giày, chỉ ngồi trong bếp uống trà chú tiểu pha, chợt sực nhớ ra chuyện gì, bèn nói, “À quên, hồi nãy nghe Takezo kể, kẻ trộm đêm qua đã ăn sạch cơm trong thùng ạ?”
“Đúng thế, ăn sạch không còn một hạt.”
“Ban đầu còn bao nhiêu cơm? ”
“Còn đủ cho ba người ăn. Tại tối qua tôi quên bẵng việc chi chính mời khách, sơ ý đong gạo bằng mọi ngày.”
“Hả? Ăn hết cả chỗ ấy à? Đúng là ăn như rồng cuốn! Giết người xong hóa ra lại đói cồn cào thế ư?”
Nghe câu hỏi ngây ngô của Shimizu, Kindaichi phì cười, suýt nữa thì sặc nước trà, vội đặt ngay chén xuống. “Tôi no rồi, đi quan sát dấu giày tên trộm tham ăn kia đã.” Nói đoạn hăm hở đi thẳng.
Như đã kể lúc trước, cửa hậu nhà bếp mở ra vách núi cao ngất, bình thường nền đất ẩm ướt, nhưng nhờ hiên rộng nên dù mưa xối xả như đêm qua, dấu giày vẫn còn nguyên vẹn.
“Ồ, là dấu giày lính này à? Biết vậy lúc ra vào tôi đã cẩn thận hơn. Hóa ra đi vào xong lại đi rồi.” Tối qua, Kindaichi và hai thầy trò nhà sư đi ra đi vào đã giẫm mờ cả dấu giày ban đầu, sáng nay lại lẫn thêm dấu chân Shimizu, không nhìn rõ nữa, chỉ còn đường nét lờ mờ.
“Anh Shimizu, trên đảo có ai đi giày lính không?”
“Có, nhiều lắm. Gần đây nhiều người hồi hương, chưa kể dạo trước giày lính còn bán phân phối. Ấy, đợi đã nào, cậu Kindaichi!” Shimizu đang khom người quan sát dấu giày đột nhiên gọi giật, “Cậu xem, trên dấu giày này có vết mờ như hình con dơi, là nền đất có sẵn hay đế giày in xuống nhỉ?”
“Ừm, đây là dấu giày chân phải đúng không? Đợi đã... Kindaichi cũng cúi xuống dò tìm giữa những vết chân lộn xộn. “Anh xem, hoa văn dưới đế giày đấy, đằng này cũng có, đằng kia cũng có...”
Quả nhiên, những chỗ Kindaichi chỉ đều là dấu chân phải, tuy nông sâu khác nhau nhưng mũi chân nào cũng có vết như hình con dơi.
“Hừm, vậy là đế chiếc giày hung thủ đi bên chân phải vốn có vết này. Không, nói đúng hơn, kẻ đi loại giày này chính là hung thủ! Đây là chứng cứ thuyết phục nhất.”
Shimizu đắc ý ra mặt vì phát hiện của mình, nhưng chỉ tích tắc sau, Kindaichi đột nhiên bật dậy như lò xo, đến nỗi viên cảnh sát phải giật mình nhìn anh chằm chằm, “Sao thế?”
Kindaichi cứ trợn trừng nhìn vào một điểm giữa khoảng không, như không nghe thấy câu hỏi. Shimizu bán tín bán nghi, lại gọi, “Cậu Kindaichi! Cậu Kindaichi! Cậu sao vậy? Lẽ nào cậu biết gã đàn ông đi loại giày này sao?”<
“Tôi ư?”
Kindaichi ngỡ ngàng ngoái lại, chạm phải ánh mắt nghi ngờ của Shimizu, vội lắc đầu, “Không, không phải thế. Làm, làm gì có chuyện đó!”
“Nhưng vừa rồi thoạt trông thấy dấu giầy kia, hình như cậu giật thót mình.”
“Đâu có, tôi giật mình là bởi… thôi, để sau sẽ kể với anh. Chúng ta ra ngoài xem xét trước đã nhé?”
Shimizu càng bán tín bán nghi. Kindaichi thì chột dạ rảo bước ra ngoài, như muốn trốn tránh. Có nằm mơ Kindaichi cũng không tưởng tượng nổi hậu quả nghiêm trọng khi để mặc Shimizu ôm đầy một bụng nghi ngờ, nếu biết trước, nhất định anh đã kể ngay với Shimizu sự thật mình vừa phát hiện.
Vừa rồi, khi xem xét dấu chân phải, Kindaichi nhận thấy dấu giày đi vào nhiều hơn hẳn dấu giày đi ra, thậm chí có những dấu giày đi vào giẫm đè lên cả dấu giày đi ra. Điều này có nghĩa gì?
Dấu giày từ ngoài vào rồi từ trong ra, nếu chỉ như vậy còn đỡ, nhưng vết tích cho thấy kẻ đột nhập còn quay lại lần nữa. Sau khi quay lại, kẻ đó đi đâu? Không có dấu giày quay ra lần thứ hai, tức là hắn đã lẻn vào bếp. Vậy thì… Nghĩ tới đây, Kindaichi thốt nhiên nhớ ra phản ứng kì quái của sư thầy bên cội mai đêm qua. Ông ta quay mặt về phía trai phòng, thình lình đánh rơi pháp khí xuống đất, như vừa giật nảy mình. Lúc cúi xuống nhặt, đầu ngón tay cũng run bần bật. Lẽ nào bấy giờ ông ta đã phát hiện trong trai phòng có người, tức là hung thủ?
Càng suy xét kĩ, Kindaichi lại càng nghi ngờ loạt hành động tiếp theo của sư thầy. Bởi ngay sau đó, ông ta đã hối hả giục anh và chú tiểu cùng đi ra sau nhà bếp. Đó là góc chết với trai phòng, chẳng phải là để cho kẻ đang nấp bên trong thừa cơ hội trốn thoát hay sao? Thậm chí… Khi Kindaichi xem xét xong dấu chân trên nền đất và quay lại chính điện, tuy chỉ thấy mình sư thầy, nhưng ai biết được trước đó ông ta có chạy tới trai phòng cài lại cánh cửa hung thủ vừa mở để chuồn ra hay không. Sắp xếp đâu vào đấy xong, ông ta dẫn Kindaichi và chú tiểu tới xem xét để chứng tỏ trai phòng không có gì bất thường cả. Lẽ nào lại thế?
Phải rồi, sư thầy đã tính toán trước, ông ta biết ai là hung thủ. Từ những lời lẩm bẩm về kẻ điên cho đến những suy đoán trên đây, tất cả có thể khẳng định nhà sư biết hung thủ là ai. Không, không chỉ biết, ông ta còn cố ý giúp hung thủ chạy thoát…
Cân nhắc một hồi, Kindaichi lại vọng về sân trước xem xét kĩ. Nhưng đúng như anh dự liệu, dấu giày đã bị quét sạch. Chùa Senko xây trên núi đá hoa cương, ban ngày nắng chiếu, sân đất cứng đanh lại như đá mài, đến đêm mưa đổ thì nhão nhoét ra. Kindaichi chú ý xem xét quanh trai phòng, nhưng không tìm được dấu giày nào cả, dù là mờ mờ. Cũng hợp lí thôi, chính điện và trai phòng không có dấu giày dính bùn, ắt hẳn hung thủ đã cởi giày rồi mới bước lên, nên khi chạy từ trai phòng ra, hắn đang đi chân trần. Vậy thì dù trời chẳng đổ mưa cũng không để lại dấu giày. Có điều bên cạnh hòm công đức ở chính điện, nơi phát hiện ra mấy đầu thuốc vương vãi tối qua, còn có năm sáu dấu giày dính bùn đã khô, dấu giày chân phải đều có vết hình con dơi.
“Anh nhìn kìa, hung thủ đã nghỉ ở đây một lát. Còn nữa, chỗ này nhìn ra cổng chùa đúng không nào? Tuy không thấy được thềm đá, nhưng có thể thấy được con đường mòn dưới thềm, ngồi trên cầu thang ở đây sẽ thấy được người từ dưới đi lên. Hẳn hung thủ đã ngồi đây vừa nhìn xuống dưới vừa hút thuốc.”
“Thuốc ư? Sao cậu biết hắn hút thuốc?”
“Hắn vứt đầu thuốc ở đây còn gì. A phải, anh chưa biết việc này.”
“Vứt đầu thuốc à…? Đầu thuốc đâu?”
“Tôi nhặt cất đi rồi. Là trụ trì phát hiện ra đấy.”
“Cậu Kindaichi…” Shimizu ngẩng đầu ưỡn ngực, đầy vẻ nghiêm nghị. Dường như không quyết định được phải biểu lộ tâm trạng ra sao, cuối cùng Shimizu đành đanh mặt nói, “Suy đến cùng các người coi tôi là gì đây? Dù thế nào tôi cũng là cảnh sát phụ trách an ninh trên đảo! Vậy mà làm như tôi không tồn tại, tự ý hạ thi thể xuống, còn nhặt đầu thuốc cất đi, là sao? Xảy ra vụ án, còn là án mạng, quan trọng nhất là giữ nguyên hiện trường chẳng nhẽ kiến thức thông thường ấy cậu cũng không có ư? Hay cậu cố ý cản trở công tác điều tra của tôi?”
“Anh Shimizu đừng nói thế.”
“Cái gì mà đừng nói thế. Vậy giờ cậu đưa chỗ đầu thuốc ra đây. Không, cậu xếp lại nó vào đúng chỗ cũ đi!”
“Làm sao xếp được!”
“Có gì không được! Đầu thuốc rơi ở đâu, rơi thế nào, biết đâu đều có ý nghĩa quan trọng. Nếu cậu không đặt lại chỗ cũ, tôi sẽ bắt cậu vì tội hủy hoại chứng cứ!”
“Sao, sao lại thế được? Tự dưng anh lại nói ra những lời lạnh lùng vô tình thế? Anh đừng cứng nhắc như vậy được không, trước giờ chúng ta vẫn thân thiết với nhau mà?”
“Thân thiết ở đâu? Tôi bạn bè gì với cậu hả? Đừng thấy người sang bắt quàng làm họ. Cậu lai lịch bất minh, trong khi tôi đường đường là cánh sát đảo, lại chẳng quen biết gì cậu!” Shimizu bừng bừng tức giận.
Kindaichi luống cuống đáp, “Vâng, vâng, anh nói phải… A, xin chào! Cô đến đúng lúc quá, đang định sang bên ấy thăm hỏi đây. Không, không phải tôi, anh Shimizu nói vậy mà. Đúng không, anh Shimizu?”
Phu nhân Shiho chi thứ đang đi từ cổng chùa vào, còn có Ukai theo sau. Kindaichi chẳng hiểu vì sao Shimizu đột nhiên quay ngoắt như vậy, nhưng để thoát khỏi sự dồn ép hùng hổ của Shimizu, anh bèn niềm nở chào hỏi phu nhân Shiho, ngờ đâu lại càng khiến Shimizu nghi ngờ.
“Hai anh đang tranh cãi à?” Hôm nay phu nhân Shiho trang điểm cầu kì. Cô ta thong thả vén sương sớm đi đến, đẹp như một đóa triêu nhan trắng muốt. Thêm vào dáng đi vô cùng tao nhã, toàn thân cô ta toát ra sức quyến rũ ma mi, tưởng chừng sắp phấp phới ba lên.
“Không không, đâu có. Chúng tôi có, có tranh cãi gì đâu.”
Kindaichi lại bắt đầu lắp bắp, anh luống cuống gãi gãi đầu, như thể làm thế sẽ đỡ nói lắp vậy.
“Ồ, thế ư? Vậy thì tốt quá, anh Shimizu nhỉ.” Phu nhân Shiho liếc Kindaichi đầy quyến rũ rồi quay sang Shimizu, “Tôi nghe thấy vài tin đồn quái lạ nên tới đây xem thử.”
“Tin đồn, đồn quái lạ gì, gì thế?”
Đứng trước phu nhân Shiho, Shimizu bỗng trở nên lúng túng, khác hẳn thái độ hùng hổ khi nãy, lắp bắp gằng nói cho hết câu rồi căng thẳng nuốt nước bọt.
“Tin đồn quái lạ là tin đồn quái lạ thôi. Tôi muốn hỏi mọi người cho rõ ràng nên dẫn cả anh Ukai theo. Anh Kindaichi, sư Ryozen đâu rồi?”
“Tôi đây.” Sư thầy từ phòng trụ trì vòng qua hành lang bên ngoài chính điện, chậm rãi đi đến. “Chào phu nhân Shiho. Ông Gihee thế nào? Bệnh thống phong đã đỡ chút nào chưa? Mời phu nhân sang đây ngồi. Ryotaku, con mau chuẩn bị đệm ngồi cho khách. Cậu này tên là gì nhỉ? A, phải phải, cậu Ukai. Cậu cũng qua đây ngồi đi, đừng ngại. Cậu tuấn tú thế này, mọi người yêu mến còn chưa xong, ai nỡ ăn thịt đâu mà. Ha ha ha! À, quên, phu nhân Shiho…”
Phu nhân Shiho bỗng như cấm khẩu, cứ tròn mắt ngạc nhiên nhìn chằm chằm vào nhà sư đang khoanh chân ngồi xuống. Nhà sư tiếp, “Vừa rồi tôi ở bên kia nghe thấy, hóa ra phu nhân đến hỏi tội à? Chẳng phải phu nhân nói muốn hỏi mọi người cho rõ ràng đấy ư? Ha ha ha! Không phải đến hỏi cho rõ ràng à? Hay phu nhân định tới nói gì với tôi? Có gì muốn nói phu nhân mau nói đi, à phải. Hanae bên kia cũng đang nghe đấy.”
Đoạn ông ta giơ ngón ta thô ráp trỏ vào chính điện. Ukai nghe vậy nhíu mày, rụt lại sau lưng phu nhân Shiho. Shiho hơi hoảng, nhưng mau chóng khôi phục vẻ bình thản, mặt lúc đỏ lúc tái, mắt sáng rực lên như đốt lửa bên trong. Cô ta cố kiềm chế cơn giận, bởi mất bình tĩnh lúc này là thua trắng, cô ta không cho phép bản thân cởi giáp đầu hàng trước bất cứ kẻ nào.
“Hì hì, thầy quá đáng thế.” Phu nhân Shiho ngồi lên tấm đệm chú tiểu kê, khẽ khàng cười bằng giọng ngọt lịm pha lẫn âm mũi, rõ ràng đã kiểm soát được cơn nóng nảy, “Thầy nói như thể tôi toàn đến kiếm chuyện ấy. Tôi là con gái nhà quê, không giỏi ăn nói, gặp chuyện bất ngờ lại càng không kiềm chế được, thầy đừng ức hiếp kẻ yếu chứ?”
“Phu nhân mà là kẻ yếu à? Phụ nữ cũng có…”
Người thiếu phụ đỏ mặt. Nhà sư lại tiếp, “Thôi, bỏ qua. Vừa rồi cô bảo có lời đồn kì quái, là gì vậy?”
“À, là thế này. Đêm qua Hanae bị giết ở đây đúng không? Dân làng đồn ầm cả lên, nói tôi xui anh Ukai dụ cô ấy ra rồi cùng hợp sức giết chết. Làm gì có chuyện đó!”
“Lời đồn khó nghe thật. Nhưng người ta vẫn nói không có lửa làm sao có khói. Phải chăng phu nhân đã lầm lỡ chuyện gì rồi?”
“Ối chao ôi! Đến thầy còn nói thế, thật khiến tôi thất vọng quá.”
“Không, không, tôi không bảo phu nhân giết Hanae, có điều thứ dẫn dụ Hanae ra là lá thư của cậu Ukai.”
“Thư của Ukai ư? Ukai, anh viết thư hẹn Hanae ra à? ”
“Tôi viết thư cho cô Hanae? Không, làm gì có chuyện đó.”
Đôi mày thanh tú của Ukai nhíu lại. Đây là lần đầu tiên Kindaichi nghe thấy giọng gã, quả là người nào giọng nấy, thanh thoát đẹp đẽ, hơi run rẩy, gợi cảm giác mơ màng lãng đãng như nằm mộng.
“Anh Ukai bảo là không phải, nhất định các vị nhầm lẫn ở đâu rồi.”
“Vâng, tôi có nhầm ở một điểm. Cậu Ukai không viết thư cho Hanae, mà cho Tsukiyo, chị cô ấy. Song chẳng hiểu vì sao bức thư lại rơi vào tay Hanae, cô ấy cũng không đưa cho chị mà chạy đến chùa đợi. Ryotaku, con đem bức thư tối qua ra đây. Cậu Ukai có nhớ thứ này không?”
Phu nhân Shiho và Ukai nhìn nhau, rồi người thiếu phụ ưỡn ngực, “Hóa ra trên người Hanae mang phong thư này, thế thì tôi vẫn nhớ. Anh Ukai, không giấu được nữa đâu, phải nói ra thôi. Thư là tôi đọc cho anh ấy viết. Anh Ukai và cô Tsukiyo đã khăng khít như vợ chồng, song chẳng hiểu sao mọi người đều muốn chia rẽ họ, tôi thấy không đành lòng, mới giúp một tay. Ai nói gì cũng mặc, tôi định tác thành cho hai người họ đấy.”
“Chuyện này tôi không có ý kiến, tùy phu nhân muốn làm sao thì làm. Nhưng tối qua cậu Ukai đã tới chùa phải không? Có người bắt gặp cậu đi trên đường mòn.”
Ukai thoáng do dự, nhưng thấy tia nhìn khích lệ của phu nhân Shiho, gã hơi nhích lại gần sư thầy, rồi vừa lấm lét tránh ánh mắt mọi người như sợ ánh sáng, vừa ấp úng đáp, “Vâng, đúng là tôi đã đến chùa. Thực tình tôi cũng sợ bị hiểu lầm nên hôm nay mới tới giải thích. Phong thư kia đúng là tôi viết, nghĩ rằng cô Tsukiyo sẽ tới chỗ hẹn nên mới ở đó đợi. Nhưng nửa tiếng rồi cả tiếng trôi qua, vẫn chưa thấy cô ấy tới, tôi đành thất vọng quay về.”
“A, ra thế. Vậy trong thời gian đó cậu có thấy Hanae không?”
“Không hề, tôi nằm mơ cũng không ngờ Hanae lại tới đây.”
“Cậu đến đây lúc mấy giờ?”
“Mấy giờ à? Thời gian chính xác tôi không nhớ lắm, song lúc tôi ra cửa…” Ukai quay sang Kindaichi, “Anh đây vừa rời khỏi chi thứ Kito. Sau đó anh gặp thầy trò trụ trì và anh Takezo từ chùa đi xuống ở cuối đường mòn dưới núi, tất cả cùng đi đến chi chính. Tôi đợi mọi người đi xa mới lên chùa, cũng không rõ là đợi bao lâu, chỉ biết về tới nhà không lâu thì đồng hồ điểm chuông 8 giờ, nên có lẽ tôi đã đợi đến chừng 7 rưỡi.”
“Hừm, nếu trong thời gian đó cậu ta không gặp Hanae, thì rốt cuộc cô ấy ở đâu?” Sư thầy xoa cằm nhìn mọi người.
Tất cả đều im lặng. Một lần nữa, phu nhân Shiho lại đỡ lời thay, “Dù thế nào, Ukai cũng không liên quan, anh ấy không có động cơ, càng không có gan giết Hanae.”
Nãy giờ Kindaichi vẫn thích thú đứng xem trụ trì và Shiho đấu khẩu, giờ mới cất lời, “Tôi muốn hỏi cậu Ukai một việc, trong lúc đợi cô Tsukiyo, cậu có hút thuốc không?”
“Thuốc ư? Không, tôi không biết hút.”
“Tối qua cậu mặc đồ Nhật hay đồ Tây?”
“Đồ Nhật. Tôi không có bộ đồ Tây nào ra hồn cả.”
“Nhưng vẫn có phải không nào? Giày cậu đi là giày lính à?”
“Vâng, là giày lính.”
“Anh Shimizu này, để cho chắc chắn, lát nữa nên mời cậu Ukai đây cởi giày ra xem thì hơn, tuy nhiên tôi nghĩ có lẽ là không phải… Đúng rồi, còn một vấn đề nữa, bình thường gửi thư cho cô Tsukiyo cậu kí tên thế nào? Tại sao phong thư kia lại rơi vào tay cô Hanae?”
“Tại vì…” Ukai ngập ngừng, thấy ánh mắt khích lệ của phu nhân Shiho mới đỏ mặt đáp, “Chúng tôi, tôi và cô Tsukiyo, mỗi lúc gửi thư cho nhau đều nhét vào hốc cây Hoa trong bão.”
“Hoa trong bão ư?”
Mọi người không khỏi tròn mắt, Kindaichi vừa thích thú gãi đầu vừa trầm trồ, “Lãng mạn quá, nhưng có loài cây ấy thật sao?”
Ukai đỏ mặt, “Tôi cũng không rõ lắm, nghe nói cây đó là lăng tiêu, nhưng Tsukiyo cứ gọi là Hoa trong bão. Nó nằm trong khu rừng ở thung lũng bên dưới con đường mòn, hằng năm tới tháng Bảy lại nở hoa đỏ hồng rất đẹp. Tsukiyo nói nếu đính ước dưới gốc cây, nhất định sẽ được hạnh phúc.”
Khi cuốn tiểu thuyết Hoa trong bão của Kawaguchi Matsutaro[9] được chuyển thể thành phim, khán giả nữ trên toàn nước Nhật đều khóc sưng cả mắt. Ca khúc “Hoa trong bão đợi lâu ắt đến” trở nên phổ biến toàn quốc, có rạp chiếu bóng, nhưng nghe nói lúc phim công chiếu ở Kasaoka còn sắp xếp cả cano phục vụ đi lại nên các cô gái trên đảo đều kéo nhau đi xem, ba chị em nhà Kito là những người hâm mộ cuồng nhiệt nhất. Trong thời gian công chiếu, họ ở lì tại nhà bạn ở Kasaoka, ngày nào cũng xem, khóc lóc sướt mướt.
“Ra thế,” Shimizu xúc động hỏi, “là vì đợi lâu ắt đến, đúng không nào? Nhưng tối qua Hoa trong bão mất linh nên anh đợi mãi không thấy cô Tsukiyo đâu. Dĩ nhiên cô ấy không đến, bởi thư đã bị cô Hanae lấy mất. Hanae biết bí mật giữa hai người phải không?”
“Đúng rồi, rõ ràng là thế. Trong ba chị em chi chính, Hanae ghê gớm nhất mà.” Phu nhân Shiho nói, “Vậy là đủ hiểu tại sao lá thư rơi vào tay Hanae rồi! A, trưởng làng kìa.”
Trưởng làng Araki từ cổng chùa đi vào, khóe miệng trễ xuống, có Takezo theo sau.
“Nhức đầu quá anh cảnh sát ơi! Điện thoại vẫn chưa thông.” Trưởng làng nhìn lướt qua mọi người rồi quay sang Shimizu.
“Điện thoại ư? Liên quan gì đến điện thoại?” Sư thầy hỏi.
“Sáng nay nghe nói có án mạng, tôi nghĩ phải báo cáo ngay cho sở cảnh sát, nhưng đường dây trục trặc, nên phải nhờ trưởng làng Araki. Không gọi điện được phiền lắm, lại phải phái người đi báo hoặc nhờ tàu chuyển lời. Cả hai cách đều phiền phức. Ông trưởng làng, đường dây vẫn chưa sửa được à?”
“Nghe nói là trục trặc ở đoạn cáp dưới đáy biển, chưa sửa ngay được đâu. Nhưng thi thể để đây mãi không tiện. Tôi nghĩ hay là đưa về chi chính trước, nên đem cả ván cửa tới đây rồi. Thầy thấy sao?”
“Hiện trường tối qua mọi người đều mục kích rồi đấy, không sợ không có nhân chứng. Dĩ nhiên phải hỏi ý anh Shimizu, nhưng tôi cũng nghĩ đưa về chi chính thì hơn.”
Shimizu tuy khó xử, nhưng sau khi bàn bạc vẫn quyết định trả thi thể về cho gia đình.
Vậy là kẻ bị hại đầu tiên trên đảo Ngục Môn được đặt lên ván cửa khiêng xuống núi.
Tối hôm đó, nạn nhân thứ hai mất tích.
Bác thợ cạo Oshichi từng nói, “Tuy dân đảo là hậu duệ do con cháu cướp biển và tội phạm lưu đày sinh ra, nhưng tôi cảm thấy vẫn còn lác đác vài người mang huyết thống nhà Heike, ví dụ điển hình là phu nhân Shiho. Nhìn thế nào cũng thấy cô ta không giống người ở đây, nhất định là dòng máu hoàng tộc của nhà Heike sau mấy trăm năm đã anh hoa phát tiết trên mình cô ta. Cô Sanae cũng vậy, tuy giống dân đảo hơn phu nhân Shiho, nhưng phong thái chín chắn trước tuổi cùng tính tình cứng cỏi lại khác hẳn người thường.”
Quả vậy, khi thi thể Hanae được đưa về chi chính, thái độ của Sanae thật khiến người ta bội phục. Dĩ nhiên cô cũng tái mặt, đáy mắt ánh lên vẻ kinh hãi, nhưng chẳng hề luống cuống, trái lại vừa trách bà Katsu tuổi lớn mà tính chưa lớn, vẫn lập cập bàng hoàng, vừa vỗ về an ủi hai chị em Tsukiyo và Yukie chỉ biết khóc lóc, đồng thời chỉ huy Takezo lo liệu công việc. Trước tình cảnh ấy, Kindaichi không khỏi cảm thấy nhận xét của bác Oshichi không sai một chữ. Sanae giống hệt một chiến binh xem thường cái chết, việc đã đến nước này, cô đành dùng đôi tay mảnh khảnh của mình chèo chống tòa thành trơ trọi giữa hoàng hôn ấy mà thôi.
“Vậy…?”
Sau khi đưa thi thể vào gian thờ Phật, mọi người ngồi quây lại trong phòng khách. Sanae nhìn xoáy vào sư thầy gặng hỏi, ánh mắt rực lửa căm hờn. Sư Ryozen gượng gạo tằng hắng một tiếng, “Ừm… xảy ra chuyện bất trắc thế này, tôi cũng chẳng biết nói sao nữa.” Đoạn ông giơ bàn tay to bè lên xoa mặt.
Trưởng làng Araki nặng nề tiếp lời, “Xem ra lễ tang của cậu Chima phải hoãn lại rồi.”
Sanae quay ngay sang, nhìn chằm chằm vào trưởng làng, “Tang ma tạm hoãn cũng được, mấu chốt là kẻ nào gây ra hành động tàn nhẫn này? Kẻ nào? Rốt cuộc kẻ nào đã hãm hại Hanae?”
Cả phòng khách im phăng phắc, không ai trả lời nổi câu hỏi của cô. Kindaichi có cảm giác ai nấy đều ấp ủ âm mưu trong lòng. Cuối cùng bác sĩ Murase cất tiếng, chòm râu dê rung rung, “Nếu biết là ai thì đã tốt…” Đoạn ủ ê rũ đôi bờ vai gầy gò xuống.
“Hở, sao lại không biết được?” Sanae lập tức chuyển hướng sang ông bác sĩ, “Chúng ta ở đây chỉ có một nhúm người, đâu đông đúc như Tokyo hay Osaka, hơn nữa bốn bề đều là nước, không người ngoài nào đến gây án được. Vì vậy hung thủ giết Hanae nhất định là dân đảo. Không…” Nói tới đây, Sanae bỗng nghẹn lời, liếc Kindaichi rồi tiếp, “Nhất định là dân đảo hoặc hiện đang có mặt tại đảo. Sao lại không biết hung thủ là ai! Thưa thầy!”
“Hả? Chuyện gì thế?”
“Nghe nói trên người Hanae có bức thư của… ừm, Ukai phải không?”
“Cô hỏi cái này ấy à? Hanae lén lút rời nhà chạy đến chùa quả thật là vì nó, song tôi không cho rằng gã đó đủ sức gây ra chuyện đáng sợ đến thế. Trước hết, gã ta không có động cơ giết Hanae.”
“Đúng là Ukai không có động cơ, nhưng kẻ đứng đằng sau giật dây gã thì sao? Ví như ông Gihee hay phu nhân Shiho? Bọn họ… Bọn họ…”
“Sanae!”
Sư thầy quát lớn. Sanae nem nép nhìn ông rồi cúi gằm mặt xuống. Nhà sư dịu giọng, “Không được nói bừa. Cô kích động cũng là lẽ thường, hiện giờ cô đang đau buồn, dễ nghi ngờ người khác, nhưng không được ăn ốc nói mò. Dẫu sao người ta cũng có địa vị, chẳng may nghe được, gây sự với mình thì mệt lắm. Nếu quả thật là tội của họ, phía cảnh sát sẽ xử lý công bằng mà. Anh Shimizu nói có phải không?”
“Không… Phải, phải. thầy dạy phải lắm. Chỉ cần chứng cứ xác đáng, dù đối phương có là ông chủ hay bà chủ tàu, tôi cũng không bỏ qua, nhất định sẽ bắt họ trả lại công bằng cho cô. Xin cô cứ yên tâm.” Shimizu xoa hàm râu xồm xàm, cố nói bằng giọng uy quyền. Nhưng Sanae có vẻ không tin, chỉ cắn môi cúi đầu nín lặng. Một giọt nước mắt rơi xuống đầu gối.
Đúng lúc ấy, Kindaichi lên tiếng, “Quên mất, chúng ta phải dốc sức thu thập chứng cứ thôi. Tôi có thứ này muốn cho cô Sanae xem.”
Đoạn anh lấy trong ngực áo ra mấy đót thuốc nhặt được tối qua, Shimizu thoáng thấy đã hậm hực hừ một tiếng.
Sư thầy và bác sĩ nhìn nhau, trưởng làng vẫn nghiêm mặt, hai mép trễ xuống. Sanae cau mày ngạc nhiên, “Mấy đót thuốc này là…”
“Tôi muốn hỏi cô một việc liên quan đến đót thuốc. Đây là thuốc cô cuốn cho ô… ừm, bệnh nhân ở trong kia phải không?”
Sanae gật đầu.
“Nhưng những đót thuốc này lại rơi trong sân chùa Senko, cạnh thi thể Hanae.”
Sanae mở to mắt kinh ngạc, sau đó trân trối nhìn Kindaichi, hổn hển đáp, “Nhưng… Nhưng… sao lại kì quái như thế được… Mà từ điển này không phải loại quý hiếm gì, biết đâu nhà khác cũng có. Chắc chắn là đót thuốc của nhà khác.”
“Phải, phải, nên tôi mới muốn xác, xác nhận lại. Lần gần nhất cô cuốn thuốc cho bác là khi nào?”
“Tối qua… vâng, chập tối qua.”
“Bao nhiêu?”
“Hai mươi điếu.
“Vậy phiền cô vào trong… không…” Như nhớ ra gì đó, Kindaichi bỗng gãi đầu, “Yêu, yêu cầu này bất lịch sự, nhưng phiền cô dẫn tôi vào trong được không? Không phải tôi nghi ngờ cô, song, song, song chuyện này quan trọng.” Anh lắp ba lắp bắp nói hết câu rồi căng thẳng nuốt nước bọt.
Trụ trì Ryozen, trưởng làng Araki và bác sĩ Murase kinh ngạc nhìn anh, Shimizu lại hừ một tiếng vẻ bất mãn.
Sanae cũng hết sức ngạc nhiên, chăm chú nhìn anh giây lát vẻ thăm dò, đoạn khẽ khàng đáp,“Mời anh.” Dứt lời bèn đứng dậy.
“Làm vậy liệu có sao không, cô Sanae? Liệu có quấy rầy người bệnh không?” Trưởng làng lo lắng.
“Không làm ồn thì không sao đâu, bác đang ngủ say mà.”
“Được, vậy tôi cũng đi.” Sư thầy đứng dậy.
“Anh Shimizu đi luôn chứ?” Kindaichi mời.
Cuối cùng chỉ còn trưởng làng Araki và bác sĩ Murase ngồi lại phòng khách, những người khác đều đi vào. Kindaichi đã đến phòng khách hai lần, nhưng chưa từng vào trong. Từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy dinh thự này như mê cung, hành lang dài miên man bất tận, quanh co khúc khuỷu, khiến người ta không khỏi tưởng tượng tới cảnh xa hoa hồi cụ Kaemon còn khỏe mạnh. Nếu giữa chừng lạc đường, e rằng chẳng quay lại được phòng khách nữa.
Ra đến hành lang bên ngoài thì thấy một dãy hành lang nối sang tòa nhà khác. Sanae quay lại bảo mọi người, “Các ông đợi cho một lát, tôi vào xem tình hình bác ấy đã.”
Nói đoạn cô rảo bước qua dãy hành lang nọ. Kindaichi tì người vào lan can, tò mò nhìn ra ngoài. Quá mù sa mưa, mưa bụi làm ẩm cả khoảnh sân. Bên kia sân, một gian nhà mái tranh hiện lên ở khúc quanh xa nhất. Lần trước trụ trì Ryozen đứng trên núi đã chỉ cho anh, nói là phòng cầu nguyện. Kindaichi đưa mắt nhìn lướt từ phòng cầu nguyện qua sân đến bên dưới hành lang nối thông. Đột nhiên anh nhoài người ra, chẳng biết đã phát hiện được gì. Đúng lúc đó, Sanae quay lại.
“Mời qua bên này. Phiền các ông khẽ khàng cho, bác tôi đang ngủ say.”
“Chúng tôi hiểu rồi.” Sư thầy vội đi theo Sanae, Shimizu toan dợm bước thì Kindaichi cầm tay kéo lại, ghé tai thì thầm một hồi. Shimizu trợn tròn mắt kinh ngạc, căng thẳng nhìn xuống bên dưới hành lang nối thông.
“Nhờ cả vào anh đấy.” Kindaichi để Shimizu lại rồi một mình băng qua hành lang. Cuối hành lang là một ngã rẽ hình thước thợ, ngoặt qua là đến phòng nhốt Yosamatsu. Nghe tới phòng giam, Kindaichi ngỡ sẽ phải chứng kiến cảnh tượng vô cùng nhếch nhác và thê thảm, nhưng sự thật khác hẳn. Dĩ nhiên, cửa giả đều phải gắn chấn song, nhưng vẫn sạch sẽ hơn anh tưởng, thoáng gió và sáng sủa. Không gian bên trong khá rộng, chừng mười chiếu[10], còn có góc toko, chiếc tủ nhỏ kê cạnh đó cũng tinh xảo. Nếu gỡ hết chấn song ra thì chẳng khác nào một căn phòng bình thường… không, thậm chí xa hoa. Kéo cửa ra là thấy nhà vệ sinh và phòng tắm, e rằng chẳng tìm đâu ra một phòng giam tiện nghi như thế nữa.
Yosamatsu nằm giữa phòng, ngủ say sưa sau tấm bình phong nhỏ. Râu hơi dài, nhưng tóc tai được cắt gọn gàng, cũng không có gàu. Nhìn ông ta ngủ yên thế này, chẳng ai nhận ra được đây là một bệnh nhân tâm thần. Gương mặt trông nghiêng và sóng mũi cao thẳng giống hệt Chima quá cố.
Sanae lấy cây gậy trúc dài treo ngoài song xuống. Đầu gậy gắn móc câu kim loại để tiện khều đồ vật. Sanae thò gậy qua song cửa, khều chiếc chậu cạnh gối Yosamatsu. Trong chậu có gạt tàn và hộp thuốc. Cô từ từ thu gậy lại, kéo chậu đến gần. Nếu việc phải làm không cần mở cửa, có lẽ Sanae đều làm thế này. Cô kéo chậu đến bên chấn song rồi lặng lẽ lấy hộp thuốc đưa cho Kindaichi. Bên trong có sáu điếu thuốc.
“Lấy cho tôi cả gạt tàn đi.” Kindaichi thì thào.
Sanae lập tức lấy gạt tàn đưa cho anh. Kindaichi đổ hết đầu thuốc ra giấy xi măng rồi hỏi, “Cô đổ gạt tàn lúc nào.”
“Tối qua, lúc cuốn xong thuốc đưa vào.”
“Cô đưa hai mươi điếu vào đúng không?”
Sanae gật đầu.
Kindaichi vui vẻ gãi đầu nói, “Xin lỗi, nhưng trong này có sáu điếu thuốc, sáu đót thuốc, cộng lại chỉ mới mười hai điếu, lại thêm…”
Anh nói đến đấy thì Yosamatsu thình lình ngồi dậy, như thể bị tiếng thì thào đánh thức.
“Ôi, bác dậy rồi đấy ạ?”
“Chào ông Yosamatsu, ông khỏe không?” Sư thầy dùng thân hình to cao che cho Kindaichi.
Yosamatsu chỉ ngồi đó ngơ ngác hết nhìn nhà sư lại nhìn Sanae. Căn cứ theo tuổi Chima, ông ta hẳn đã hơn năm mươi, nhưng nhìn như mới ngoài tứ tuần vậy. Có lẽ vì ít vận động nên ông ta trông hơi phì nộn, bờ vai dưới lần áo ngủ flannel căng tròn, đôi chân khoanh lại cũng sưng to như bị phù nề, thêm vào làn da bệch bạc thiếu sức sống và cặp mắt lờ đờ thất thần, thoạt trông đã biết là một kẻ loạn trí. Kindaichi thoáng thất vọng, đúng lúc này, chợt nghe tiếng cười sằng sặc kèm tiếng chân Tsukiyo và Yukie lan đến gần.
“Thôi chết! Gay rồi!” Sanae thốt lên, “Phiền thầy mau dẫn anh ấy sang bên kia…” Kindaichi hiểu ngay vấn đề, bởi vừa nghe tiếng Tsukiyo và Yukie, Yosamatsu thoắt thay đổi hẳn. Cặp mắt vốn thất thần lóe lên sát khí như dã thú, đầu tóc dựng đứng, đôi má nhẽo nhẹt giần giật, trông cực kì đáng sợ.
“Cậu sang bên kia đi!” Nhà sư kéo tay Kindaichi ra hành lang nối thông. Ngay sau đó vang lên tiếng lắc chấn song lạch cạch và tiếng gào thét như dã thú, xen lẫn tiếng Sanae nức nở.
“Sao thế? Ồn quá…” Shimizu đang tản bộ dưới hành lang ngạc nhiên hỏi sư thầy rồi gật đầu đầy thâm ý với Kindaichi.
“Bệnh nhân lại lên cơn rồi, chỉ mình cô Sanae giải quyết được thôi. Lạ thật, cô bé này thế mà lại giỏi trị người điên.”
Cả ba trở về phòng khách, thấy trưởng làng Araki và bác sĩ Murase đang ngồi lặng nhìn nhau.
“Bệnh nhân lại lên cơn ư, thưa thầy?” Ánh mắt bác sĩ đầy sợ hãi, trong khi trưởng làng Araki vẫn thản nhiên.
Tiếng Tsukiyo và Yukie cười khanh khách chẳng biết từ đâu vọng lại.
Sư thầy cau mày vẻ không vui, lẩm bẩm cảm khái, “Hai cô ấy đúng là khiến người ta đau đầu, nhưng người điên kia cũng rắc rối chẳng kém, hễ nghe tiếng họ là nổi khùng, ôi chao, rõ ràng là cha con mà, chẳng lẽ nhân quả kiếp trước hay sao?”
“Cậu Kindaichi, đót thuốc kia điều tra đến đâu rồi?” Shimizu hỏi.
“Hừm…” Kindaichi lấy đót thuốc và thuốc cuốn ra. “Giống hệt đám đót thuốc rơi ở hiện trường. Mời các vị xem, thuốc này cuốn bằng trang chữ D trong từ điển, có những từ dum’dum, dummy, dump, trên đót thuốc phát hiện trong chùa cũng in những từ dumping, dumpish, dumpling, nên không cần biết đót thuốc nhặt được là do kẻ nào hút, đều lấy từ số hai mươi điếu thuốc hôm qua Sanae cuốn. Ờ mà… anh Shimizu, anh điều tra dấu giày thế nào rồi?”
Gương mặt râu ria nhăn nhó vì nghi hoặc, Shimizu đáp, “Chậc… Chậc… Lạ lùng lắm, đúng là dấu giày ấy không chệch đi đâu được, nên… ừm, quả thật giống hệt dấu giày trong chùa.”
“Dấu giày ư?” Sư thầy c