← Quay lại trang sách

Chương 5 Giáo phái thần bí của Osayo

Như đã nói trên, làng chài trên đảo tập trung cả ở mé Tây. Một phần vì ở những hòn đảo hẻo lánh, dân chúng có tập quán sống quần tụ để tiện phòng thủ cướp biển đánh úp, phần còn lại là vì địa hình trên đảo. Trừ phần phía Tây ra, đảo Ngục Môn không còn khoảnh đất bằng nào phù hợp cho người ở.

Núi Suribachi không cao lắm. Ba mặt núi đều là vách đá dựng đứng, nhô hẳn ra biển. Vừa không có chỗ thả neo, nơi biển và đất liền gặp nhau cũng chẳng có chỗ nào tiện để lên bờ. Vì vậy, hiện giờ mọi người phong tỏa nút cổ chai phía Tây đảo rồi cuốn chiếu dần lên, tên cướp chỉ có nước chạy lùi, chẳng khác nào bắt ba ba trong giỏ.

Mảnh trăng lưỡi liềm mùng mười còn treo trên sườn núi Suribachi, bầu trời lấp lánh muôn ánh sao. Sông Ngân kéo chiếc đuôi dài thượt ngang qua, có thể thấy thấp thoáng quầng sáng trắng sữa. Đảo Ngục Môn như một thế giới lung linh màu bạc, bảng lảng sương mờ, những ngọn đuốc lập lòe như ma trơi trôi nổi khắp nơi, trườn dần lên dọc triền núi. Trên đỉnh Suribachi vẫn còn di tích sào huyệt cướp biển, trai làng thỉnh thoảng lại hét thật to, tiếng vọng văng vẳng trong thung lũng nghe như sẩm nổ ì ùng đằng xa.

Kindaichi đang lẳng lặng đi theo sự chỉ huy của Isokawa, chợt nhận ra bác thợ cạo Oshichi lẫn trong đám đông.

“Ồ, bác cũng đi à.” Kindaichi nhe răng cười hỏi.

Bác Oshichi gật đầu cười đáp, “Ha ha ha, đây là đợt truy quét quy mô mấy năm nay mới gặp một lần, sao tôi khoanh tay đứng nhìn cho được? Nhưng hình như mọi sự không được thuận lợi lắm, đúng không?”

“Vâng, không mấy thuận lợi. Dân đảo nói thế à?”

“Nói thì nhiều lắm, nhưng chẳng đáng nhắc đến. Lời nói không phải đóng thuế, ai thích nói gì thì nói. Có điều dân đảo ai ai cũng kinh ngạc, ngay tôi còn giật nảy mình đấy.”

“Kinh ngạc chuyện gì?”

“Chuyện về cậu đấy, lúc mới đến chẳng phải cậu vừa bẩn vừa hôi à? Trông như gã lang thang đầu đường xó chợ, dân đảo cố nhiên đều ngờ vực. Ai cũng nói Kindaichi đáng nghi.”

“Kể cả thế, tôi cũng không có lí do giết Hanae và Yukie mà?”

“Có, cậu muốn chiếm đoạt tài sản của chi chính. Đừng giận, đây chỉ là lời đồn đại thôi. Cậu yên tâm, giờ chẳng ai nghĩ thế nữa đâu. Nhưng tôi vẫn thảng thốt không sao tin được. Hóa ra cậu lại là thám tử lừng danh hàng đầu Nhật Bản! Dân đảo ai cũng sợ vỡ mật. Tôi bèn bảo họ, ‘Lũ chết tiệt này đúng là vô lễ, người ta nhìn thế nào cũng là dân thành phố sang cả mà!”

“Cảm ơn, cảm ơn, bác đừng khen tôi nữa. Vừa rồi bác nói tôi giết Hanae và Yukie để chiếm đoạt tài sản nhà họ là sao? Tài sản ấy làm sao rơi vào tay tôi được.”

“Ôi chà, họ đã viết sẵn kịch bản hộ cậu rồi, để tôi kể cho. Trước hết là giết sạch ba chị em Hanae, sau đó dụ dỗ Sanae, gạt được cô ta xong thì ở rể… Nghe hợp lí chưa? Bấy giờ tôi bèn bảo, ‘Đừng nói bậy, người ta là dân thành phố sang cả, việc gì phải vòng vo rắc rối như vậy? Cần tiền thì cầm súng đi cướp luôn có phải nhanh hơn không, với cả người đô thành sao nuốt nổi cơm hẩm đảo này.’ Tôi lúc nào cũng đứng về phía cậu đấy nhé.”

Kindaichi thấy vừa buồn cười vừa sợ hãi, “Nghe cứ như ca kịch ấy, chẳng khác gì tranh quyền đoạt lợi trong nhà quyền quý thời xưa. Tôi đóng vai quản gia lưu manh à?”

“Không, trái lại, vai trai bao được bao nuôi chứ, dạng đàn ông ngoan ngoãn chiều chuộng đàn bà.”

“Bác à,” Kindaichi đột nhiên đổi giọng, hít một hơi rồi hỏi, “Người trên đảo đều nhìn nhận sự việc như xem mấy vở kịch sáo mòn thế sao?”

Shimizu từng nói với anh như vậy. Kindaichi thấy thú vị với lối suy nghĩ thoát ly hiện thực, vớ vẩn trên mây trên gió của họ.

“Dĩ nhiên không phải lần nào cũng thế. Có điều mọi người đều thích xem kịch, cụ Kaemon quá cố còn là người hâm mộ nhiệt tình. Chẳng hay cậu có biết một sân khấu lâu đời ở Sanuki, tỉnh Kagawa xưa không. Nó được dựng từ thời Tenpo (1830-1844) hoặc thời Kaei (1848-1854) cơ. Nó là nguyên mẫu cho sân khấu rạp Onishi ở Osaka, giờ vẫn còn đấy. Các diễn viên ở Kyoto, trong đó có một vài người là diễn viên tên tuổi hẳn hoi, cũng thường tới đây biểu diễn. Cụ Kaemon là một người hâm mộ nhiệt tình, hễ có vở hay lại dong tàu lớn đi cổ vũ. Vung không biết bao nhiêu tiền, bao cả rạp cho đám dân chài dưới trướng xem chung, thỉnh thoảng lại thân thiết gọi tôi cùng đi. Giờ nghĩ lại, cứ như nằm mơ vậy. Giai đoạn thịnh vượng ấy chẳng bao giờ trở lại nữa rồi…”

“Ra vậy, nên bác cũng đứng về phía chi chính. Trước đây chắc bác được lòng cụ lắm nhỉ.”

“Còn phải nói, nhất là tôi lại võ vẽ biết làm thơ haiku. Cậu biết haiku chứ nhỉ? Haiku có nhiều loại, tôi chỉ chuyên làm kanku, nghĩa là người ta đã viết câu đầu rồi, tôi làm câu thứ hai và câu chốt, tổng cộng mười hai chữ. Thời trẻ tôi mê ngón đó lắm, làm quen với nhiều người cùng sở thích, còn từng được thầy Kusataro chỉ dạy. Kusataro là nhất về kanku đúng không? Bấy giờ ở vùng Chugoku phía Tây Honsu thịnh hành haiku, một dạo còn ra hẳn mười mấy tạp chí kanku. Tuy đều gọi chung là haiku, nhưng loại tôi làm có phần phổ biến dân dã hơn, nhưng nếu thơ hay giàu cảm xúc thì đâu khác gì haiku chính thống. Có lần tôi làm một bài độc nhất vô nhị… à thôi, không nhắc chuyện đó nữa. Cụ Kaemon được gọi là ngài Taiko, nên thích những trò tiêu khiển. Cụ ấy viết cả haiku chính thống, nhưng lại thích loại haiku dân dã hơn, còn tự đặt cho mình danh hiệu là Cực Môn…”

À ra thế, cuối cùng Kindaichi cũng vỡ lẽ, lần trước căng mắt nhận mặt chữ mất bao lâu, hóa ra mấy chữ ngoằn ngoèo như giun bò trên bức tranh ở bình phong là bút tích của cụ Kaemon quá cố.

“Cực Môn bắt nguồn từ chữ Ngục Môn. Cụ ấy tự xưng là chúa đảo, nên… thường tổ chức hội thơ haiku. Dù sao đi nữa tôi cũng là người hiểu nhiều biết rộng, lại là học trò của một nhà thơ nổi tiếng nên cụ khá xem trọng, thường khen ngợi, ‘Oshichi vắng mặt là một tổn thất lớn.”

“Cụ Kaemon thích xem kịch nên mới cho phép con trai cưới cô đào về làm vợ kế đúng không?”

Kindaichi đã ấp ủ câu này trong lòng rất lâu, nay mới có cơ hội hỏi. Anh hết sức tò mò về mẹ đẻ của ba chị em Tsukiyo, luôn muốn tìm người hỏi han, nhưng nếu hỏi thẳng thường chẳng thu được mấy hiệu quả. Nhất là hiện giờ, mọi người đều đã biết lai lịch của anh, dù hỏi thế nào, người ta cũng chỉ trả lời cầm chừng, rốt cuộc chẳng biết được đối phương có nói thật không. Muốn thăm dò thật khéo, thật kín kẽ, nên anh mới kìm nén chờ thời điểm thích hợp. Quả nhiên bác Oshichi mắc câu ngay.

“Không, hoàn toàn không phải thế, nhưng cũng không sai, đúng là cụ Kaemon thích xem kịch nên mới dẫn tới chuyện đó, có điều, Osayo… Osayo là tên thật của người phụ nữ đó, chẳng biết nghệ danh là gì. Nghe tin con trai muốn cưới bà ta làm vợ kế, cụ Kaemon đã nổi giận đùng đùng.”

“Bác có biết bà ta không?”

“Có. Lúc tôi đến đây, bà ta vẫn còn sống, nhưng chưa đầy nửa năm thì mất, vì vậy tôi không rõ lắm, nhưng trên đảo vẫn có nhiều lời đồn đại.”

“Vở tủ của bà ta là Truyền thuyết chùa Dojo, ông Yosamatsu xem kịch rồi mê người, bèn cưới về làm vợ kế phải không?”

“Đúng, nghe nói ngoài ra còn mấy vở nữa như Kitsune Tadanobu[1] và Kuzunoha[2], đều là những câu chuyện liêu trai. Cụ Kaemon nghe nói đoàn kịch do cô ta làm chủ lưu diễn ở Chugoku phía Tây Honsu, bèn bỏ nhiều tiền mời cả đoàn đến đảo biểu diễn. Dĩ nhiên sân khấu dựng trong sân dinh thự chi chính, diễn vở Truyền thuyết chùa Dojo, ai ngờ ông Yosamatsu lại mê mệt cô ta. Có điều, cụ Kaemon nổi giận đùng đùng cũng hơi vô lí. Ông Yosamatsu vừa góa vợ, chính là mẹ ruột cậu Chima đấy, đang lúc chăn đơn gối chiếc trong nhà lại có một cô đào xinh đẹp nũng nịu với mình, ai mà chẳng liêu xiêu, làm sao cầm lòng cho nổi? Khác nào mỡ treo miệng mèo. Đây quả là nước cờ sai lầm nhất trong đời cụ Kaemon!”

“Sao cụ ấy lại phản đối con trai cưới bà ta?”

“Còn phải hỏi à? Osayo chỉ là một đào hát lai lịch không rõ ràng, trong khi Kito là nhà chủ tàu giàu nhất đảo. Chưa kể dân đảo thường không kết hôn với người nơi khác.”

“Bị ngài Taiko ác cảm, bà Osayo kia chắc thảm lắm nhỉ?”

“Còn phải nói. Có điều nếu là hạng đàn bà ngoan ngoãn biết điều còn đỡ, đằng này bà ta cũng chẳng vừa. Osayo tìm mọi cách xúi giục ông Yosamatsu, ngày càng ngang ngược, cứ thế, một việc đáng lẽ có thể giải quyết êm xuôi lại thành ra rắc rối. Yosamatsu nghe lời bà ta răm rắp như bị bỏ bùa. Sống dưới cùng một mái nhà càng dễ va chạm, thế là hai cha con xung đột liên miên, thậm chí có lời đồn một dạo Yosamatsu còn ép cha lui về để mình nắm giữ gia sản. Người cương quyết mạnh mẽ như cụ Kaemon cũng không địch lại ả hồ ly tinh đó, chẳng bao lâu đã già xọm hẳn đi.”

“Nói vậy bà ta cũng không phải dạng chịu lép vế nhỉ.”

“Còn phải nói. Nếu không bày ra mấy trò đó, thì giờ chi chính đã do bà ta và ông Yosamatsu cùng nắm giữ rồi.”

“Mấy trò đó là gì vậy?”

“Thì cầu nguyện đó!”

“Cầu nguyện ư…” Kindaichi trợn tròn mắt, lồng ngực phập phồng dữ dội. Tạo hình ban nãy của Tsukiyo lại lướt qua đầu anh.

“Đúng thế, chắc cậu cũng biết sân sau dinh thự chi chính có một gian nhà kì quái, nghe nói là do ông Yosamatsu dựng cho bà vợ. Osayo chẳng biết học đâu được cách làm phép, cầu nguyện, lúc tôi đến đây thì bà ấy đã bệnh nặng không làm phép được nữa, song nghe nói dạo trước khí thế lắm, ăn mặc như pháp sư hoặc đạo sĩ, rung chuông thắp hương niệm, ‘Mời Thánh thiên hộ pháp Tengu giáng lâm, con là… sinh ngày…’ đọc một chập những kệ kinh thần chú.”

Kindaichi phì cười, “Gì cơ, đúng là lố lăng.”

“Sao cậu lại cười?”

“Thánh thiên hộ pháp thần là người thân cận bên Phật tổ. Nhưng vừa rồi bác kể Osayo ăn mặc như pháp sư đạo sĩ cơ mà?”

Tsukiyo vừa rồi trông cũng không giống tì kheo, mà giống pháp sư hơn.

“Ai quan tâm nguồn gốc tôn giáo đâu? Mấy nghi thức cầu khấn kia chẳng qua là vờ vịt để lừa gạt con nhang đệ tử thôi. Chắc hẳn Osayo học mót được trong khi đi lưu diễn, theo lời bà ta thì người bà ta cầu khẩn quả thật là Thánh thiên hộ pháp thần. Có điều bà ta cầu khẩn linh lắm, à không, phải nói là truyền bá linh lắm. Đau bụng à, ghẻ lở à… Con nhang đệ tử đa phần là người trẻ tuổi nên cũng dễ mắc mấy bệnh lạ lùng, chỉ cần nhờ Osayo cầu thần giúp, khấn mấy câu như ‘Mời Thánh thiên hộ pháp Tengu giáng lâm, con là… sinh ngày…’, sẽ lành bệnh ngay, cứ như phép lạ. Vì vậy không chỉ ông Yosamatsu mà trên đảo ngày càng nhiều người tin theo, về sau người đảo khác còn kéo tới nhờ bà ta cầu khấn, hương khói nghi ngút là. Cứ thế, vô tình lại đẩy Osayo đến bước đường diệt vong.”

“Sao vậy? Con nhang đệ tử ngày càng đông, hương khói ngày càng nghi ngút cơ mà?”

“Thoạt nhìn thì thế, nhưng Osayo tự cao tự đại quá, quên cả lo lót sư sãi chùa Senko.”

“À ra vậy.”

“Từ góc độ của trụ trì Ryozen thì không thể chấp nhận được. Xưa kia muốn xem lành dữ người ta phải đến chùa, nay lại kéo đến chỗ Osayo. Trụ trì vốn dĩ chẳng chấp nhặt, ban đầu coi như không thấy, gượng cười cho qua, nhưng Osayo ngày càng lấn lướt, cuối cùng còn tự xưng là giáo chủ phái Osayo thánh thiện gì đó, đặt ra đủ thứ giáo điều tả pí lù, tuy không lập miếu song quy mô tương đương. Đến mức ấy thì sư thầy không nhịn nổi nữa, ông ta rộng lượng thì rộng lượng thật, nhưng một khi nổi giận, hậu quả thật không thể tưởng tượng. Ông ta quyết định diệt tận gốc trốc tận rễ giáo phái của Osayo.”

“Gây cấn quá đi mất, bác kể chuyện hấp dẫn thật đấy!”

“Cậu quá khen, tóm lại, ai đối đầu với tôn giáo ắt sẽ bị tiêu diệt. Tuy tín đồ bị cướp nhưng dù sao cũng là tín ngưỡng truyền thống lâu đời, thế lực chùa Senko nào phải một sớm một chiều mà lấn át được. Tiếc rằng Osayo không nhận ra, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu mà. Vốn dĩ sư thầy vẫn khoanh tay đứng ngoài vòng tranh chấp của cha con cụ Kaemon, nhưng đến nước này ông ta bèn đứng về phía cụ Kaemon, kết thành đồng minh. Osayo có giỏi giang đến đâu cũng đừng hòng thắng nổi họ. Đến đảo mà lại dám đối đầu với chùa Senko và chủ tàu thì đúng là tự tìm đường chết nên giáo phái của bà ta cứ lụn bại dần. Càng thua thê thảm, bà ta càng như chó cùng rứt giậu, bắt đầu nói ra những câu lạ lùng, cái gì mà sắp sóng thần, nuốt chửng cả đảo, rồi núi Suribachi nứt làm đôi, hoặc trời đổ mưa lửa… Cứ thế mãi, dân đảo ngu ngốc đến đâu cũng bắt đầu phản cảm, dần dà không lui tới nữa. Cuối cùng Osayo còn nói nếu muốn thay đổi bản tính, thì không thể cầu nguyện suông được, bèn dùng que cời nung đỏ ấn vào mặt tín đồ, làm náo loạn cả lên, rõ ràng tâm trí không được bình thường cho lắm. Cụ Kaemon bèn sửa một phòng trong nhà thành phòng giam, nhốt bà ta lại, giáo phái Osayo đến đây hoàn toàn sụp đổ.”

“Hừm… ông Yosamatsu khoanh tay đứng nhìn ư?”

“Ông ta ấy à, đối với cụ Kaemon, ông ta chẳng là cái thá gì cả. Yosamatsu vốn không phải đối thủ của cha mình, chẳng qua trước đây có Osayo đứng sau nên còn tác oai tác quái, hiện giờ quân sư quạt mo bị nhốt lại, ông ta như chim gãy cánh rắn bẻ răng, không dám chống đối nữa. Nghe nói ban đầu ông ta còn định lén lút thả vợ ra, hoặc giở vài trò vặt vãnh, nhưng chẳng bao lâu bà ta hóa rồ rồi chết, lần này đến lượt ông ta bị nhốt vào phòng giam. Chi chính Kito không dưng lại nảy lòi ra một người đàn bà quái đản, từ đó liên tiếp xảy ra bất trắc, như bị báo ứng vậy.”

“Bà ta là mẹ đẻ ba chị em cô Tsukiyo à?”

“Ừ, ai cũng nói người như thế mà còn sinh nở được đúng là chuyện lạ. Đào hát theo gánh bôn ba khắp nơi, không chỉ biểu diễn mà còn thường kiêm cả bán dâm. Tuy không tịt đẻ, nhưng chẳng biết là may hay rủi, đẻ ra ba cô con gái đều ngớ ngẩn. Nghe nói Osayo là người đẹp nghiêng nước nghiêng thành đấy. Có người nhận xét rằng gương mặt bà ta nét nào ra nét đó, mắt to mũi cao, thời trẻ hẳn phải xinh đẹp tuyệt trần. Tiếc rằng tôi chẳng được chứng kiến, vì khi đến đây thì bà ta đã bị giam cầm, tôi chỉ nhác thấy một lần khi bà ta được thả ra, trông hệt như mụ phù thủy vậy, chẳng thấy đâu phong thái yêu kiều tha thướt.”

“Cám ơn bác, chuyện hấp dẫn thật đấy.” Kindaichi vừa dứt lời thì nghe thấy tiếng súng rền vang cả núi, tiếp đó là phát thứ hai… phát thứ ba… Mọi người kinh hãi thét lên, nhốn nháo náo động khắp thung lũng.

“A, Kindaichi, hình như tìm thấy rồi đấy!”

“Hay quá, ta đi xem thử, tốt nhất là bắt sống, đừng làm hắn bị thương.”

Nhóm của Isokawa chẳng mấy chốc đã leo đến gần đỉnh núi, sào huyệt cướp biển đang ở ngay trước mắt. Mọi người luôn để ý rễ cây và đá dưới chân, men theo con đường mòn ngập ánh trăng, vừa đi vừa thở hồng hộc.

“Cảnh sát cẩn thận đấy, chúng ta sắp bước vào khu vực trạm giám sát phòng không và trận địa pháo cao xạ trước đây, dưới chân có nhiều chiến hào lắm.” Một người đi phía sau hổn hển nhắc nhở.

Quả nhiên địa hình ở đây bằng phẳng hẳn, chiến hào ngang dọc giăng mắc khắp nơi như mạng nhện, có cái lộ hẳn ra ngoài, có cái lại được che đậy, tạo thành địa đạo.

“Đúng thế, tên này phiền phức thật đấy, trốn đến tận đây, muốn truy bắt cũng khó.”

“Tiếng súng vừa rồi hình như ở phía trên kia nhỉ?”

“Chẳng biết xảy ra chuyện gì rồi, sao không nghe động tĩnh gì nữa.”

“Cứ lên xem sao đã, cẩn thận, đối phương có súng đấy.”

Mọi người vừa để ý dưới chân vừa tiếp tục leo lên. Đột nhiên, mấy người từ sau mỏm đá lớn xông ra.

“Ai đó!”

“Shimizu đấy ư? Vừa rồi cậu bắn à?”

“Ô, là chỉ huy Isokawa. Vâng, tôi bắn đấy. Đối phương bắn trước nên tôi đáp trả.”

“Hắn đâu rồi?”

“Hắn thình lình biến mất… Tôi nghĩ chắc là lẩn xuống chiến hào nào đó rồi. À phải, tôi phát hiện được một thứ rất lạ. Cậu đưa cho chỉ huy xem đi!”

Người bên cạnh Shimizu lấy ra một đống đồ đạc lổng chổng, nào nồi, nào bao gạo, gia vị, hai ba củ cải, cá khô, còn có một con dao làm bếp, một bộ bát đũa. Isokawa ngớ ra, “Mấy thứ này ở đâu ra thế?”

“Tìm được dưới chiến hào bên kia đấy ạ.”

“Không, ý tôi là hắn lấy những thứ này ở đâu ra thế nhỉ?”

“Rõ ràng là từ dinh thự chi chính rồi.”

“Mất nhiều thứ như thế, đáng lẽ họ phải phát hiện ra chứ.”

“Hẳn là phát hiện ra, nhưng tại sao lại cố tình che giấu thì… A, có người lên kìa!”

Mọi người vội ngoái lại nhìn, thấy một người đang men theo con đường núi mà bọn họ vừa đi để leo lên.

“Ai đó!” Shimizu ra oai quát lớn.

“Ồ, anh Shimizu đấy à, tôi đây. Tôi cứ lo lắng không yên nên đến xem thử. Vừa rồi nghe tiếng súng nổ, các vị bắt được hắn rồi à?” Trưởng làng Araki thong dong đi đến, môi mím chặt, khóe miệng trễ xuống.

“A, chào ông, lễ canh linh cữu kết thúc rồi sao?”

“Kết thúc rồi.”

“Vậy đằng chi chính… Tsukiyo không sao chứ?”

“Không sao, lúc tôi đi còn nghe tiếng cô ấy đang khấn khứa, bác sĩ Murase và chú tiểu đều ở đó đợi các anh về.”

“Sư thầy đâu rồi?”

“Về chùa rồi, chứng thấp khớp kinh niên của ông ấy lại tái phát. Người của chi thứ cũng về rồi. Nhưng đừng lo, vẫn còn mấy thanh niên canh chừng ở tiền sảnh.”

Kindaichi chợt thấy lòng quặn lên bất an. Đằng kia lại tạch tạch một tràng súng nổ, sau đó có người hô lên, “Thấy rồi” Lại có người hét, “Đằng kia, đằng kia!”

“Bên kia kìa! Hắn kia rồi!” Tất cả ùa đến, hò hét váng cả sào huyệt cướp biển, ánh đuốc di động liên hồi, thoắt bên phải, thoắt bên trái.

“Ở đâu cơ? Kẻ xấu chạy đến đâu rồi?”

“Bên kia kìa, cảnh sát xem, hắn đang chạy theo sợi dây đỏ ấy. Ông cẩn thận đấy, Gen cũng bị thương rồi.” Xa xa có tiếng người nói.

“Bị thương ư? Bị hắn bắn trúng à?”

“Vâng, nhưng chỉ xây xước ngoài da thôi, không có gì đáng ngại.”

“Vậy thì tốt, các vị phải cẩn thận đấy!”

Sào huyệt cướp biển có hai tầng. Nhìn lên có một kẻ đang chạy lom khom theo sợi dây đỏ. Khi mọi người đuổi tới nơi, chỉ thấy toàn đá núi lởm chởm và tùng bách nhấp nhô, bóng kẻ tình nghi thoắt ẩn thoắt hiện.

“Hắn xong đời rồi. Chạy tiếp là vực sâu không thấy đáy.”

“Khác gì bắt ba ba trong rọ…” Shimizu leo lên trước.

Nơi đây quả là địa điểm tuyệt vời để xây dựng sào huyệt, nằm trên triền núi, phía Đông là mặt biển mênh mông trải dài trước mắt, từng con sóng lấp loáng ánh trăng như những lưỡi câu bạc ánh đen, tỏa sáng lành lạnh. Bóng đảo Ngục Môn tan tác theo ngọn sóng, lác đác mấy đốm lửa chài lập lòe dưới màng sương đêm như mộng ảo.

“Tên đó toi đời rồi, làm gì còn đường mà chạy.”

“Shimizu nguy hiểm lắm! Đừng manh động tiếp cận. Chó cùng rứt giậu, hắn bây giờ đang như lợn lòi bị thương đấy!”

Isokawa chưa dứt lời đã nghe súng nổ vang, tiếp đó là tiếng đạn bay veo véo chẳng biết từ đâu.

“Á á!” Giọng bác thợ cạo Oshichi. Mọi người đều rụt đầu vào bụi cỏ, mạnh ai nấy tìm một tảng đá ẩn nấp. Nhìn kĩ lại, hình như có một người đàn ông đang ngồi bên mỏm đá đằng xa nhìn chằm chằm sang phía này. Nấp sau tảng đá, lại bị bụi cỏ che khuất tầm mắt, chẳng trông rõ được mặt mũi, ngay cả thân hình cũng nhòe nhoẹt. Mé trái hẳn là vực sâu không đáy, chống đối dữ dội đến đâu cũng đã cùng đường rồi.

“Này! Bỏ súng xuống, đừng manh động!”

Đáp lại là hai phát súng nữa của đối phương, đạn xé gió trên đầu mọi người.

“Khốn kiếp, không thể tha thứ cho mày được! Shimizu, nổ súng đi, nhưng phải cố hết sức bắt sống.”

Shimizu bắn một phát. Đối phương lập tức phản kích, sau đó cảnh sát chi viện lại bắn liền hai ba phát nữa. Đúng lúc đó, chợt nghe tiếng thét chói tai, thân hình kẻ kia bỗng chao đảo rồi đổ ra vực thẳm cạnh đó.

“Gay rồi!” Mọi người ùa đến mép vực nhìn xuống thấy người hắn đập vào một mỏm đá, rồi lại đập vào bụi cây, nảy lên như quả bóng, rồi lại rơi xuống. Tất cả ồ lên.

“Dù thế nào cũng phải xuống xem sao!”

Đoạn họ vừa tìm chỗ đặt chân, vừa nắm lấy rễ cây, mỏm đá leo xuống. Thung lũng đang tắm trong ánh trăng nên không mấy nguy hiểm. Rốt cuộc tất cả cũng tới đáy vực, ở đây không có sông suối gì cả, khắp nơi toàn đá lởm chởm và bụi cỏ um tùm.

“Ở đâu ấy nhỉ? Đâu rồi?”

“Rõ ràng là dưới này mà…”

“Kìa, đằng kia có người…” Bác Oshichi la lớn.

Quả nhiên có một bóng đen đứng bất động trong bụi cỏ xa xa, đang nhìn chằm chằm xuống chân.

“Ai đó?” Isokawa quát hỏi. Nhưng kẻ kia không hề lên tiếng, cứ đứng đờ ra như bị đóng băng.

“Ai đó?” Isokawa lại hỏi. “Còn không ngoảnh lại sẽ nổ súng đấy!”

Nghe tiếng Isokawa, người kia hơi quay lại, thình lình Kindaichi nhảy ra khỏi bụi cỏ, “Anh Isokawa, đừng nổ súng!” Anh lao đến bên cạnh người nọ, ống quần kiểu Nhật bay phấp phới như chiếc dù, “Cô Sanae!”

Người kia di chuyển, bước chân lảo đảo cứ như sắp ngã vật ra. Kindaichi vội nhào tới đỡ lấy.

“Sao…. sao cô lại tới đây?”

Sanae ngước gương mặt tái nhợt lên, cặp mắt mở to nhìn trừng trừng vào Kindaichi, nhưng lại như không nhận ra anh.

“Cô Sanae,” Kindichi ghé sát vào tai cô. “Cô biết người này phải không? Anh ta là anh trai cô à?”

Anh liếc thi thể gã đàn ông dưới đất. Sanae mếu máo như sắp khóc, “Không phải! Hắn không phải anh tôi!” Cô giơ tay bưng mặt, nghẹn ngào đáp.

Isokawa đang kiểm tra thi thể bỗng đứng phắt dậy, nghi hoặc lẩm bẩm, “Lạ quá, không tìm thấy dấu đạn, hắn không chết vì súng.” Kindaichi giật bắn mình, vô thức ngước nhìn sào huyệt cướp biển, song từ đây chẳng thấy gì cả. Chỉ thấy vầng trăng vằng vặc treo cao.

Đúng lúc ấy, ở dinh thự chi chính cũng xảy ra cớ sự.

Đêm về khuya, phòng khách thênh thang lạnh vắng dần. Lúc canh linh cữu còn đỡ, nhưng vừa hết giờ, người của chi thứ lục đục ra về, trưởng làng sốt ruột muốn biết kết quả lục soát trên núi nên hối hả đi luôn xem sao, sư thầy thì bị đau khớp phải quay lại chùa. Cuối cùng chỉ còn bác sĩ Murase râu dê và chú tiểu Ryotaku, chú tiểu như gà bị vặt lông, vừa lạnh vừa sợ, “Bác sĩ đừng uống nhiều thế, ảnh hưởng đến cái tay gãy đấy.”

“Không, không sao đâu. Say được là tốt, quên hết mọi thứ, quên cả đau! Uống rượu giải sầu mà! Chú keo kiệt thế? Tiếc rượu à? Ha ha ha!”

“Không, không phải tôi tiếc ông, tôi chỉ sợ ông uống nhiều quá tay lâu bình phục, nhất là hôm nay không như mọi ngày…”

“Không như mọi ngày à… Ha ha ha! Khỏi cần chú nhắc. Tôi vẫn nhớ rõ mà. Hôm nay là lễ canh linh cữu của Yukie và Hanae đúng không nào? Thế nên tôi mới phải uống túy lúy để cầu Phật tổ phù hộ cho người đã khuất đấy! Ha ha ha!”

“Không, ý tôi không phải nói chuyện đó.”

“Thế thì là chuyện gì?”

“Bác sĩ quên rồi ư? Trước lúc lên núi, chỉ huy Isokawa và anh Kindaichi đã dặn rằng những việc còn lại giao cả cho chúng ta, nhờ chúng ta coi sóc cô Tsukiyo đấy thôi!”

“À, tôi còn tưởng việc gì! Nãy giờ tôi vẫn để ý đấy chứ. Tôi nhớ như đóng đinh vào óc ấy!”

“Nhưng ông uống nhiều thế thì…”

“Không sao, không sao, chú cứ yên tâm đi! Uống hay không tôi cũng không làm hỏng việc đâu… Hà hà, phiền chú, nhờ chú đi xin bà Katsu chai nữa đi… Chai này hết mất rồi, thêm một chai nữa thôi, chai cuối cùng đấy! Cho tôi thêm một chai nữa thôi! Không, nửa chai là được rồi! Nhờ chú đấy! Chú Ryotaku à, tôi xin chú mà…”

Đúng là con sâu rượu, hễ uống là liên tu bất tận. Ban đầu đã làm một hơi hết sạch một chai, còn chưa đủ, lại xin thêm một chén nửa chén, rồi một chai nửa chai, cuối cùng say không biết trời trăng gì nữa, lăn ra ngủ. Phải thế mới đã cơn ghiền.

“Bác sĩ đừng đùa nữa. Ông đã say thế rồi còn đòi uống thêm à?”

“Phải, phải, vẫn phải uống chứ! Chú đừng sưng sỉa thế, làm sứ giả xuống bếp xin thêm cho tôi đi. Mời anh sứ giả. Anh lấy khăn lạnh mà lau đi, anh vất vả quá. Chẳng hay anh có việc gì… Điện hạ Katsuno xin anh nghĩ cho, thái thú Murase Koan râu dê tối nay vô cùng biết ơn anh đã nhiệt tình khoản đãi, tôi đang đợi anh đưa thêm một bình rượu nữa lên đây… Cứ thế nhé! A ha ha! Sao chú cau có thế! Thôi thôi không phiền đồ keo kiệt như chú nữa, Murase tôi sẽ đích thân đi, nói không chừng bà ta lại mời tôi uống cả vò ấy chứ…”

Bác sĩ Murase chống một tay xuống chiếu hăm hở nhấc mông lên, tiếc rằng ông ta đã say mèm, tay trái chống không vững, cả người chao đi, muốn đứng dậy song hai chân đã nhũn ra, “Uỵch” một tiếng, ngã đập mông xuống đất.

“Ôi, ui da, đau quá!”

Chú tiểu thở dài, “Bác sĩ phiền phức quá. Lúc tỉnh thì tử tế thế mà… Thôi thôi, tôi chịu thua, để tôi đi lấy cho. Chỉ một chai nữa thôi nhé. Một chai thôi đấy. Ông nằn nì thế nào tôi cũng không nghe đâu.”

Trẻ con ăn vạ và sâu rượu đúng là hết thuốc chữa. Chú tiểu bất đắc dĩ đành cầm bình không xuống bếp, thấy một bàn chồng chất toàn chén dĩa chưa rửa sạch mọi người ăn trong lúc canh linh cữu, bà Katsu đang lúi húi phía trong tìm kiếm gì đó.

“Bà tìm gì thế?”

“A, chú có thấy Miu Miu của tôi đâu không?”

Miu Miu là con mèo cưng của bà Katsu, cũng như những người phụ nữ không có con khác, bà ta dồn tất cả yêu thương vào mèo, coi nó như con mình vậy.

“Miu Miu hả? Tôi không thấy, chắc là chạy ra ngoài chơi rồi. Xin lỗi, bà cho chúng tôi một chai rượu nữa được không? Bác sĩ Murase cứ làm ầm lên đòi uống thêm.”

“Hở? Ông ta uống nhiều thế có sao không? Nếu say khướt ra đấy thì còn trông nhà sao được.”

“Tôi khuyên nhủ vậy nhưng ông ấy cứ nằng nặc đòi, tôi chẳng làm gì được. Một chai nữa thôi, bà rót cho ông ấy đi.”

“Đồ sâu rượu ấy, trông nhà trông cửa gì được…” Bà Katsu vừa lầm bầm vừa rót rượu.

Chú tiểu nhìn quanh căn bếp tối tăm rồi hỏi, “Cô Sanae đâu hả bà?”

“Sanae ư? Nó không ở phòng khách à?”

“Làm gì có!”

“Tôi cứ ngỡ nó ở phòng khách, vậy chắc là vào trong ngủ rồi. Biết tôi bận túi bụi thế này cũng chẳng xuống giúp một tay, rõ là…” Bà Katsu vừa oán trách vừa rửa chén loảng xoảng.

Chú tiểu cứ thấy bứt rứt không yên, Sanae không phải người vô ý vô tứ, chỉ biết lủi về phòng ngủ sướng thân như thế.

“Bà không thấy cô ấy từ lúc nào?”

“Từ lúc nào à… à phải, lúc trụ trì ra về, nó tiễn ra tận tiền sảnh, rồi không thấy đâu nữa. Tôi cứ tưởng nó ở ngoài phòng khách. Chú tìm nó có việc gì?”

Bà Katsu có vẻ không mấy quan tâm tới Sanae, chỉ chăm chăm lo cho con mèo, “Chẳng biết chạy đi đâu, khuya lắc khuya lơ còn chưa chịu về, làm người ta lo chết đi được, hẳn là ngửi thấy hơi đực rồi, người với mèo rặt một giuộc như nhau. Xong rồi chú ạ.”

Chú tiểu khệ nệ bưng chai rượu quay lại, thấy bác sĩ Murase đã nằm lăn ra sàn, còn ngáy pho pho.

“Này! Bác sĩ, rượu về rồi đây. Này, bác sĩ, bác sĩ… Ôi ngủ như chết thế kia, thôi cũng được, đừng làm phiền tôi nữa nhé.”

Chú tiểu đặt chai rượu bên cạnh rồi ngồi xuống đệm. Thấy phòng khách mỗi lúc một lạnh, chú tiểu xắn tay áo toan cời than trong lò cho lửa cháy lớn hơn, nào ngờ lại sơ ý làm tắt lửa, vội lấm lét nhìn quanh, thấy bác sĩ Murase vẫn đang ngủ mê mệt, ngáy o o. Nghe văng vẳng tiếng chuông từ phòng cầu nguyện, chú tiểu thấy hiu quạnh khôn xiết, liền khép cổ áo lại như bị thứ gì lành lạnh rơi vào.

“Này, bác sĩ! Bác sĩ, dậy đi! Ông ngủ thế này không được đâu! Này, bác sĩ! Ôi chao, đúng là hết cách.” Chú tiểu càng lúc càng bứt rứt, đứng ngồi không yên.

Tiếng chuông leng keng như gọi hồn vẫn từ phía sau vọng lại, chú bất giác đứng lên rời khỏi phòng khách, bước ra ngoài tiền sảnh như chậy trốn.

“Ây, chú Ryotaku làm sao mà tái mặt thế? Bên trong xảy ra chuyện gì à?”

Hai ba thanh niên ở lại trông coi theo lời Kindaichi đang quây quần quanh lò lửa phía trong cửa, nhắm rượu với củ cải muối. Chú tiểu thấy họ thì như ở giữa địa ngục gặp được Phật tổ, vội lê guốc gỗ đi đến.

“Không, không có gì. À phải, các anh có thấy cô Sanae không?”

“Sanae ấy à? Không thấy! Cô ấy làm sao?”

“Không sao, chỉ là từ nãy đến giờ không thấy cô ấy.”

“Bác sĩ Murase sao rồi chú?”

“Ông ấy say khướt, đi ngủ rồi.”

“Ha ha, chúng tôi đoán đúng rồi nhé, có phải chú định thổ lộ với Sanae không?”

“Ấy, nói trúng tim đen rồi kìa, nhất định là cô ấy từ chối thẳng thừng nên chú mới mặt ủ mày chau đúng chưa nào?”

“Đừng nói bậy!”

“Ha ha, chú tiểu xấu hổ kìa. Không sao đâu, chú cứ thổ lộ hay theo đuổi cô ấy đi. Dù sao hai người cũng là bạn thời thơ ấu, lớn lên bên nhau, tôi còn nhớ lúc đi học chú mau nước mắt, học thì giỏi nhưng nhát như cáy, hơi tí là khóc.”

“Đúng đấy, chúng tôi còn buồn cười, thi nhau bắt nạt chú, ai ngờ Sanae lại ra mặt bênh vực. Con gái con đứa mà đanh đá ra phết, hễ chúng tôi bắt nạt chú, cô ấy lại lao ra, không biết đúng sai chửi xa xả. Thấy cô ấy bênh chú chằm chặp, tôi phát ghen lên được, có lần còn đánh nhau ầm ĩ. Cuối cùng bị Sanae cào nát cả mặt.”

“Cậu nói thế tôi mới nhớ, Sanae hồi xưa được gọi là ‘mèo rừng’ cơ mà. Tức thì tức, nhưng giờ nghĩ lại mới thấy, cô ấy đã thích chú từ bé rồi.”

“Vớ vẩn!”

“Vớ vẩn gì chứ! Hồi ấy tên hai người còn được vẽ thành ô tình nhân nữa cơ! Chú phải bạo dạn lên chứ. Thời nào rồi còn đòi giữ sắc giới, sư sãi bây giờ toàn rượu chè lấy vợ đầy ra đấy. Đừng rụt rè như thiếu nữ thế. Cứ trông thấy gái là cụp đuôi chạy mất, chứng tỏ chú vẫn chưa tu thành chánh quả đâu.”

“Phải phải, mặc kệ cô ta cự tuyệt, chú cứ làm tới đi, trước lạ sau quen mà…”

“Hừm, lại nói lăng nhăng rồi đấy.”

“Này, chính chú muốn đề cập mấy chuyện lăng nhăng ấy nên mới nhắc tới thì có.”

Thanh niên trên đảo ngoại trừ rượu chè gái gú ra chẳng còn chủ đề nào khác. Hơn nữa đối với việc nam nữ lại vừa táo tợn vừa suồng sã, chẳng chút e dè, trắng trợn hơn cả truyện khiêu dâm. Hễ có ai hào hứng nhắc tới mấy đề tài tục tĩu đó, họ sẽ háo hức góp vui.

Chú tiểu phớt lờ họ, song lòng chợt thấp thỏm lạ lùng. Không phải chú khát khao đời sống tình ái như họ, mà là xúc động trước hơi ấm của cõi tục đã lâu không tiếp xúc.

“Chú sao thế? Không làm một chén à?”

“Không, tôi không được uống rượu.”

“Cổ hủ vừa chứ. Tuy say rượu không được vào chùa, nhưng chẳng phải chùa nào cũng giấu ít rượu gọi là ‘canh Bát Nhã’ à, chỉ có mỗi trụ trì Ryozen là ngoại lệ.”

“Trụ trì cứng nhắc quá, ông ấy từng đó tuổi rồi thì đã đành, bây giờ là thời buổi nào cơ chứ, tội nghiệp chú Ryotaku ghê. Không sao đâu, chú cứ uống một chén đi, thỉnh thoảng vào làng, nghe chúng tôi kể chuyện chơi gái còn hơn ngày ngày giam mình trong chùa tụng kinh. Đó cũng là một phong cách tu đấy, ha ha ha!”

Chú tiểu dứt khoát từ chối, đám thanh niên mời mọc ép nài thế nào cũng không được. Song dường như bị chuốc say vì những lời của họ, tâm trạng chú cứ lâng lâng phơi phới, tuy áy náy vì tắc trách, nhưng vẫn muốn hóng chuyện, cuối cùng bèn ngồi xuống.

Chẳng biết chú Ryotaku ngay thẳng sẽ thọ đến bao nhiêu tuổi, nhưng e rằng trong những năm tháng còn lại chú sẽ luôn bị dằn vặt về chuyện hôm nay. Chú chỉ lơ là nhiệm vụ trong một thoáng, mà một tấn thảm kịch thương tâm đã thừa cơ xảy ra.

Cơn ác mộng dằn vặt suốt đời của chú là thế này.

Chú tiểu đang háo hức nghe đám thanh niên kể mấy truyện trai gái gió trăng, chợt nghe thấy tiếng phụ nữ thét lên thảm thiết, liền đứng bật dậy.

“Đó là…”

Không chỉ chú tiểu, đám thanh niên đang thao thao tán chuyện cũng lũ lượt đặt chén xuống, đứng phắt lên. Sau tiếng thét là một tràng huyên thuyên không hiểu là khóc hay nói.

“Đấy là… giọng bà Katsu nhỉ?”

“Đúng là bà ta, chẳng hẳn xảy ra chuyện gì rồi!”

Bà Katsu hễ hoảng sợ là cuống lên, lưỡi líu lại, nên hiện giờ chỉ biết nức nở hàng tràng âm thanh vô nghĩa. Không, chắc là có ý nghĩa, song vì không điều khiển được đầu lưỡi nên không diễn đạt rõ ràng được.

Chú tiểu tái mét mặt mày, run rẩy giục, “Đi xem thử đi! Phiền mọi người đi cùng tôi!”

Mấy trai làng theo chú tiểu xông vào tiền sảnh, lần theo tiếng la của bà Katsu, chạy đến phòng khách vừa nãy. Bác sĩ Murase đang ngơ ngác ngồi đần ra trên đệm. Bà Katsu ngồi ngay trước mặt ông ta, vừa khóc nức nở vừa líu lo nói gì đó.

“Bà sao thế? Xảy ra chuyện gì thế, bác sĩ?”

“Tôi nào có biết! Bà Katsu lay tôi dậy, nhưng tôi không hiểu bà ấy nói gì cả!”

Bác sĩ Murase nhìn bà Katsu vẻ bất lực, mặc cho nước dãi nhễu xuống bộ râu dê, “Bà Katsu, bình tĩnh nói cho chúng tôi xem rốt cuộc xảy ra chuyện gì vậy. Hả? Mèo à? Mèo làm sao? Xin bà đấy, chúng tôi đang lo muốn chết, ai để tâm được đến mèo của bà! Gì cơ? Bà bảo người điên trong phòng giam… mất tích rồi à?”

Mọi người kinh hãi nhìn nhau, gương mặt đã đen của chú tiểu càng tối sầm lại.

“Ma ơi, Gin ơi, hai người ra đằng sau kiểm tra phòng giam đi. Phòng giam ấy… biết không hả?”

Hai thanh niên nghe phân công vội vã rời phòng khách.

“Bà Katsu à, khóc lóc có giải quyết được gì đâu, dù bệnh nhân trốn ra ngoài cũng không có gì đáng ngại kia mà. Bên ngoài nhộn nhịp như vậy… ông ấy cũng muốn ra hít thở không khí chứ. Hả? Không chỉ có thế à? Còn gì nữa? Mèo á? Chậc, lại là mèo, mèo rốt cuộc… Hả, cô Tsukiyo vẫn ở trong phòng cầu nguyện phía sau… Hả?!”

Chú tiểu và cậu thanh niên kia bàng hoàng nhìn nhau, mọi người đều sợ đến mức răng đánh lập cập, song chẳng ai thốt nên lời. Bên tai vẫn nghe tiếng chuông leng keng vang vọng.

“Bà vừa nói xảy ra chuyện gì hả? Chẳng phải Tsukiyo vẫn ở trong phòng cầu nguyện rung chuông đấy ư?”

Bà Katsu không đáp mà cứ lắc đầu quầy quậy, vật vã như muốn điên dại gì đó, nào ngờ càng cố càng líu lưỡi, không ai nghe ra cả. Lúc này hai thanh niên đi kiểm tra phòng giam đã quay lại, mặt mày tái mét, “Không hay rồi! Phòng giam trống trơn, người điên trốn mất rồi!”

“Đến phòng cầu nguyện xem thử đi!”

Chú tiểu lao ra khỏi phòng khách trước tiên, ba gã trai làng hốt hoảng theo sau. Bác sĩ Murase vẫn thẫn thờ như bị bắt hồn, bà Katsu tiếp tục khóc nức nở. Như đã kể lúc trước, phòng cầu nguyện nằm trên một mô đất hơi gồ lên trong sân, là một gian nhà kì quặc, không biết xây theo kiến trúc Phật giáo truyền thống hay kiến trúc đền thờ Thần đạo của Nhật, ba mặt có hành lang bao quanh, trước hành lang chính điện có một dãy bậc thềm rộng rãi. Cánh cửa gỗ sam trong hành lang đang khép hờ.

Chú tiểu chạy lên thềm gọi lớn, “Cô Tsukiyo! Cô Tsukiyo!”

Chẳng ai trả lời, chỉ nghe tiếng chuông rung leng keng chói tai.

“Cô Tsukiyo! Mời cô ra đây, mọi người đang lo lắm, cô ra đây đi!”

Đợi một hồi lâu Tsukiyo vẫn không đáp, chỉ thấy tiếng chuông rung lắc dữ dội hơn, khiến ai nấy càng thêm bấn loạn.

“Không sao đâu, mọi người cùng xông vào đi. Nếu bị mắng thì xin lỗi là được mà.”

Một thanh niên bước lên thềm, kéo cánh cửa gỗ sam ra. Phòng cầu nguyện rộng chừng mười chiếu, sâu tít bên trong là một bệ thờ rộng rãi, cao khoảng ba thước, bên trên bày đủ loại tượng hình thù quái dị lớn có nhỏ có. Giữa các pho tượng đặt bát hương, bình hoa, giá nến và la liệt chuông cầm tay, đều đã khá cũ, vừa rùng rợn vừa ma mị. Trên bệ thắp một ngọn đèn dầu leo loét, gió thốc vào làm nó chập chờn chực tắt. Trong phòng mù mịt khói nhang vòng, cay xè mắt.

“Cô Tsukiyo, cô Tsukiyo, cô đâu rồi?”

Xung quanh đã tối, lại thêm khói nhang mù mịt, khó mà thấy rõ.

“Này, ai mang diêm không?”

“Tôi có đây.”

“Có à, tốt quá, trên bệ thờ có nến, cậu đem lại đây.”

Gã thanh niên dò dẫm băng qua làn khói nhang đi đến gần bệ thờ, thình lình rú lên chạy ngược trở lại.

“Sao, sao thế?”

“Cô… cô Tsukiyo ở đằng kia…”

“Tsukiyo à? Này, đừng sợ, lấy nến là được mà.”

Gã thanh niên run rẩy quẹt diêm nhưung cứ quẹt lại tắt, quẹt lại tắt, tay cứ run bần bật.

“Chẹp, đúng là đồ chết nhát. Phải rồi, đằng kia có ngọn đèn dầu, châm nến vào đó cũng được.”

Thắp nến xong, không gian sáng sủa hẳn lên.

“Nam mô…” Chú tiểu chắp tay, hai hàm răng đánh nhau lập cập. Mấy người kia cũng đờ ra như bị đóng băng. Gã thanh niên cầm nến run bần bật.

Cảnh tượng trước mắt vô cùng quái dị. Tsukiyo nằm ngay dưới chân họ, như một du nữ Shirabyoshi, áo lụa trắng, quần đỏ thẫm, đầu đội mũ cao màu vàng kim xinh xắn,mái tóc dài buông xõa, gương mặt trang điểm nhạt, quả là giai nhân tuyệt sắc. Song nhan sắc khiến người ta phải trầm trồ ấy lại đi kèm với nỗi kinh hoàng như ác mộng, đó là chiếc khăn mặt thắt quanh cần cổ mảnh mai của cô.

“Trên bục…”Một thanh niên định nói gì đó, nhưng mới hé miệng đã nín bặt. Chẳng mấy chốc mọi người cũng nhận ra điều gã muốn nói. Trước bệ thờ có một bục cao chừng một thước. Chắc hẳn trong lúc ngồi trên đó tụng niệm cầu khấn. Tsukiyo đã bị hung thủ đẩy từ phía sau. Sau khi ngã xuống, cô còn ra sức chống cự, bằng chứng là tay phải cô nắm chặt một đầu khăn, hệt như tự tay siết chết mình vây.

“Chú Ryotaku, chú Ryotaku…” Một thanh niên lúi húi kiểm tra thi thể đáng thương của Tsukiyo dưới ánh nến lập lòe, chợt tóm lấy tay chú tiểu, ngập ngừng nói, “Cũng không bất ngờ, ai mà chẳng biết sớm muộn gì Tsukiyo cũng bị giết, dân đảo vẫn xì xào lần này ắt tới lượt Tsukiyo… Nên chúng ta không có gì phải sợ, không cần thần hồn nát thần tính. Nhưng kia là gì vậy? Cái gì rơi trên mình cô ấy kia?”

“Bông lau…”

“Tôi biết mà, tôi có mù đâu. Nhưng tại sao trên mình cô ấy lại có bông lau? Trong phòng đâu có cắm bông lau! Dứt khoát là hung thủ đem đến rồi. Tại sao hung thủ lại đem bông lau… Á!”

Thình lình mọi người giật nảy mình, như bị sét đánh.

Bởi tiếng chuông họ quên bẵng nãy giờ lại đột ngột vang lên.

Như gặp ma ai nấy trợn trừng mắt.

Bên phải đối diện bệ thờ treo năm sáu dải vải màu giống như phướn, rủ xuống tận nền nhà. Trong đó có một dải buộc quả chuông của Tsukiyo ở giữa, đầu kia buộc vào mình con mèo cưng của bà Katsu…

Vó ngựa dập dồn

Hoa rơi lả tả

Mèo nhảy múa

Chuông nhỏ ngân nga.

Tiếng chuông họ nghe thấy là do con mèo gây ra.

Không lâu sau, toán người soát núi cũng trở về.

[1] Vở kịch nói về Tadanobu, một viên tướng tài dưới trướng Minamoto Yoshitsune thời Heian. Tadanobu trong vở kịch này được cho là do một con cáo (kitsune) hóa thành, nhờ cứu được vợ của Yoshitsune mà được trọng thưởng. Vợ cùa Yoshitsune có một chiếc trống da cáo, mỗi khi gõ trống, Kitsune Tadanobu sẽ tức thì xuất hiện lắng nghe. Một hôm, Kitsune Tadanobu thừa nhận mình là con của con cáo bị lột da làm cái trống này. Yoshitsune nghe vậy bèn ban chiếc trống cho Tadanobu. Tadanobu mừng rỡ ôm trống bay lên trời biến mất.

[2] Theo truyền thuyết Abe no Yasuna vì giúp đỡ một con cáo trắng bị thợ săn vây bắt mà bị thương. Cáo biết ơn, bèn hóa thành con gái nhà Kazunoha đưa ông ta về nhà, sau đó còn lui tới thăm hỏi. Lâu ngày đôi bên nảy sinh tình cảm, sinh được một đứa con trai. Lên năm tuổi, con trai phát hiện ra mẹ mình là cáo hóa thân, người mẹ nhân dịp đó trở về rừng.