Chương 6 Mèo nào trong đêm cũng màu đen
Lòng Kindaichi rối như tơ vò, tưởng chừng sắp phát điên lên được.
Trên con tàu hồi hương ngột ngạt oi bức ấy, Chima vừa nài nỉ anh vừa vật lộn với cơn đau lúc lâm chung.
“Nhờ anh… đến đảo Ngục Môn… một chuyến… ba đứa em tôi… ôi… em họ tôi… em họ…” Nghĩa tử là nghĩa tận, tiếc rằng cuối cùng Kindaichi lại không thể đáp ứng lời cầu khẩn từ tận đáy lòng ấy. Anh chẳng cứu được ai trong ba chị em gái cả. Kindaichi rầu rĩ đến tiều tụy cả người, mặt mày ủ rũ, tưởng như thoáng chốc đã già đi mười mấy hai mươi tuổi.
“Cô Sanae…” Anh mệt mỏi gọi.
Sanae thần người, mặt tái nhợt. Án mạng thảm thương thứ ba ập đến, khiến đêm nay càng dài đằng đẵng. Quanh phòng cầu nguyện, Isokawa và các cảnh sát ra vào như thoi đưa. Giữa bầu không khí căng thẳng đó, cả tòa dinh thự thênh thang dường như cũng run bắn lên, không dám thở mạnh.
May sao dân đảo đã nhanh chóng lùng sục được Yosamatsu rồi đưa về phòng giam an toàn nguyên vẹn. Ông ta hiếm khi ra ngoài, bị phát hiện lúc kiệt sức ngã gục trước ngôi miếu trên con đường mòn dẫn tới chùa Senko. Thần trí không bình thường nên ngây ngô vô tri, tối nay mạo hiểm trốn ra được ông ta hết sức vui sướng, bị bắt về phòng xong cứ gầm thét không thôi. Khách khứa ngồi bên phòng cầu nguyện nghe thấy tiếng gần như dã thú, tự dưng lại liên tưởng đến nhân quả nghiệp chướng giữa cha con nhà này. Kindaichi vốn dĩ cũng đợi trong phòng cầu nguyện, đột nhiên thấy buồn nôn dữ dội, đành liêu xiêu trở về phòng khách.
Sanae đang một mình ngồi thừ ra ở đó, gương mặt đáng sợ của người đàn ông đã chết dường như vẫn sờ sờ trước mắt. Người đó chừng ba mươi tuổi, râu ria bẩn thỉu, bộ dạng hung hãn, mặc một bộ quân phục cũ nát cáu bẩn bết bát mồ hôi, xỏ đôi giày lính bạc phết, đế giày quả thật có vết hình con dơi.
“Cô Sanae,” Kindaichi gọi. “Chắc cô tưởng rằng đó là anh trai mình phải không? Cô nghĩ cậu Hitoshi đã lén trở về và đang ẩn nấp trên đảo, đúng không nào?”
Sanae đờ đẫn ngoái lại, mếu máo như trẻ con sắp khóc.
“Trong đêm canh linh cữu của Chima, Hanae thình lình biến mất, cô và bà Katsu vào trong tìm, đột nhiên tôi nghe cô thét lên. Nhưng ngay sau đó lại nghe tiếng bệnh nhân gào rú, ai nấy chỉ ngỡ là ông Yosamatsu lên cơn. Không những thế, khi trở lại phòng khách, cô còn tát nước theo mưa, khiến chúng tôi tưởng thật, song hóa ra tất cả chỉ là đóng kịch. Lúc ấy cô thét lên là vì trông thấy một kẻ khả nghi lảng vảng gần phòng giam, tôi nói không sai chứ? Kẻ đó chính là người mất mạng ban nãy, đúng không?”
Kindaichi thẫn thờ nhìn ra sân, song thật ra chẳng thấy gì cả.
“Vì sao lúc ấy cô không nói rõ? Sao phải đổ cho người bệnh? Bởi cô cho rằng đó là Hitoshi. Người Pháp có câu thành ngữ ‘Mèo nào trong đêm cũng màu đen’, từ khi đồng đội của Hitoshi tới báo cậu ấy sắp giải ngũ về quê, cô đã coi tất cả quân nhân giải ngũ là anh trai mình. Nhác thấy bóng đàn ông lởn vởn trong góc tối phòng giam, cô lập tức cho rằng đó là anh trai mình, song hắn thì lại bỏ chạy thục mạng khi thấy cô, tại sao vậy? Không, trước hết nên làm rõ vì sao hắn ta phải quay về một cách lén lút đã. Điều này cô nghĩ nát óc cũng không ra, bèn bất chấp thực hư thế nào, cứ đổ riệt cho người bệnh để bao che hắn nhưng…”
Kindaichi hít một hơi rồi tiếp, “Đên ấy chùa Senko xảy ra án mạng, bên cạnh thi thể Hanae còn tìm thấy dấu giày giống hệt dấu giày ở gần phòng giam. Hay tin, cô hết sức bàng hoàng, đồng thời lại càng tin đó chính là anh trai mình, cho rằng cậu ta muốn giết chết mấy chị em Hanae nên mới trở về một cách lén lút… Lúc ấy cô đã nghĩ vậy, đúng không nào!”
Sanae bất chợt òa khóc, như muốn trút hết những đau buồn kìm nén trong lòng, “Không, thật ra tôi cũng không dám chắc như anh nói, bởi tôi không thể tin người mình thấy là anh ấy, mèo nào trong đêm cũng màu đen, câu này hay thật. Thoạt tiên tôi tưởng là Hitoshi, nên cất tiếng gọi khẽ, song kẻ kia quay lưng chạy biến nên tôi không thể xác định được. Chuyện này khiến tôi canh cánh mãi trong lòng, có thật là anh ấy không? Hay chỉ là một kẻ không liên quan? Tôi cứ day dứt như thế…”
“Sao cô không kể sớm cho tôi hay? Nếu biết trước, tôi nhất định sẽ nghĩ cách giúp cô. Hành động của cô lại khiến tôi tưởng lầm kẻ đó đúng là Hitoshi, bởi cô không đón nghe bản tin Giải ngũ trên radio nữa, còn lén lút lấy đồ ăn cho hắn…”
“Không, tôi không giao đồ trực tiếp, tôi không xác nhận được kẻ đó có phải Hitoshi không nên vừa sợ vừa lo, chỉ phán đoán nếu đúng là anh ấy thì trước sau gì cũng âm thầm trở lại nhà… Bởi vậy tôi gói ghém đồ ăn và nồi niêu, đặt ở chỗ dễ thấy trong bếp.”
“Kết quả hắn lén lút trở lại thật, à phải, lúc đó cô vẫn không trông rõ mặt hắn ư?”
“Tôi sợ quá nên… chỉ trông thấy từ đằng sau thôi.”
“Song cô vẫn không yên tâm nên tối nay mới tự lên núi tìm, phải không nào? Chưa hết, chính cô đã mở cửa phòng giam thả bệnh nhân ra?”
Sanae kinh ngạc nhìn Kindaichi, rồi rầu rĩ cúi đầu.
“Cô thông minh, sợ hắn ta là anh mình thật, bèn thả người điên ra để đánh lạc hướng mọi người. Nhưng thay vì giở mấy món vặt vãnh ấy, chi bằng cô tìm cách xác định xem kẻ đó rốt cuộc có phải Hitoshi không…” Kindaichi sầm mặt nói, “Nếu cô chịu xác nhận cho kĩ, có lẽ tối nay đã không xảy ra án mạng, Tsukiyo đã không bị giết… Dựa theo lời nói cử chỉ của cô, tôi luôn cho rằng kẻ kia là Hitoshi, không chỉ có vậy, còn tưởng bác sĩ Murase, trụ trì Ryozen và trưởng làng Araki đều biết và bắt tay ủng hộ hắn, thế nên mới đoán sai…”
“Anh Kindaichi,” Sanad rưng rưng ngước lên, “kẻ đó rốt cuộc là ai vậy?”
“Như chỉ huy Isokawa vừa nói đấy, hắn là cướp biển, khi bị cảnh sát truy đuổi, hắn nhảy xuống biển và bơi đến đây. Khi hắn lẻn vào dinh thự chi chính để tìm thức ăn thì bị cô phát hiện, tưởng nhầm là Hitoshi. Nói cách khác, chính cô đã một lòng che chở cho kẻ chẳng có liên quan gì đến mình, còn tôi thì dốc sức điều tra một kẻ hoàn toàn không liên quan tới vụ án.” Kindaichi hối hận gượng cười.
“Vậy kẻ giết Hanae và Yukie là…”
“Dĩ nhiên không phải tên đó, hắn tàn bạo thành tính, nếu có người phát hiện được đường đi nước bước của hắn, ắt sẽ bị giết chết, nhưng hắn chẳng việc gì phải cầu kì treo thi thể lên cành mai hay nhét vào lòng chuông. Nhất là lúc Tsukiyo bị giết, hắn đang trốn ở sào huyệt cướp biển trên núi mà!”
“Vậy thì là ai?”
“Hừm, tôi phải nghĩ kĩ lại đã. Theo lẽ thường, ngoài Hitoshi thì chẳng ai có động cơ để giết ba chị em Hanae. Nhưng hung thủ lại là một kẻ khác… Tuy nhiên, cũng không thể nói tên cướp biển này hoàn toàn không liên quan, chưa chừng hắn biết hung thủ là ai hoặc chứng kiến hung thủ ra tay nên mới bị giết để bịt miệng.”
Sanae lộ vẻ kinh hoàng.
“Vừa rồi lúc phát hiện thi thể hắn, cô cũng nghe chỉ huy Isokawa nói phải không. Hắn rơi xuống vực không phải vì trúng đạn. Sau ót hắn có một vết thương nặng, nứt cả sọ, song gần đó không tìm thấy tảng đá hay mỏm đá nào tạo thành vết thương như vậy cả, không chỉ có thế…” Kindaichi hít sâu một hơi rồi tiếp, “Vết thương ấy giống vết thương trên đầu Hanae, cũng có nghĩa là, hung khí đánh ngất Hanae và đánh chết tên kia có thể là một.”
“Hả! Đáng sợ quá…” Sanae tái mặt, sởn da gà, người run bần bật.
“Đúng vậy, hung thủ là một kẻ đáng sợ. Giết liên tiếp ba người trong ba buổi tối, quá là tàn nhẫn… Thản nhiên thực thi từng bước một kế hoạch sát nhân. À này, cô Sanae…” Kindaichi nhìn Sanae vẻ dò hỏi, “Cách nghĩ của dân đảo hình như hơi kì lạ. Mọi người đều cho rằng Chima chết đi, ba chị em Tsukiyo sẽ bị giết, bởi Hitoshi sẽ thừa kế chi chính… Chắc cô ít nhiều cũng nghĩ thế nhỉ. Chính vì vậy cô mới lầm tưởng tên kia là anh trai mình, đồng thời cho rằng hắn giết ba chị em Tsukiyo phải không? Nhưng vấn đề là, cách nghĩ ấy bắt nguồn từ đâu vậy? Có phải trước đây từng có người nói Chima chết thì ba cô em gái sẽ bị giết không?”
Sanae mở to mắt nhìn Kindaichi, ánh mắt đầy vẻ hoảng sợ và dao động.
“Thật ra tôi đến đây là bởi Chima cũng nghĩ thế.”
“Ôi!” Sanae bỗng rít lên, “ Anh Hai… cũng từng nói thế sao? Anh Hai…”
“Phải, nếu không cô nghĩ tôi lặn lội đến tận hòn đảo hẻo lánh này là vì cái gì? Tôi được Chima nhờ tới đây hòng ngăn cản bi kịch xảy ra thôi. Mấu chốt vấn đề ở đây là, nếu Chima chết, sẽ có người giết ba cô em gái của cậu ta đúng không? Quan trọng hơn là, vì sao Chima lại biết trước thế?”
Mặt Sanae càng lúc càng tái ngắt, môi cũng xám ngoét, khô nứt.
“Chắc hẳn cô đã biết rồi, phải không cô Sanae?”
“Tôi không biết!” Giọng Sanae run bắn lên, “Mấy chuyện đáng sợ như vậy, tôi hoàn toàn không biết gì hết!” Nói đoạn cô mím miệng.
Đúng lúc ấy, Isokawa bước vào, “Cô Sanae, cái này có phải của nhà mình không nhỉ?”
Trên tay Isokawa là một chiếc khăn mặt, mở ra thấy bên trên có hình đầu quỷ và một chữ “chính”. Sanae trợn tròn mắt nhìn Isokawa, rồi lại nhìn sang cái khăn, “Cái khăn này chính là… Tsukiyo…”
“Trong lúc cô Tsukiyo mê mải cầu khấn, hung thủ đã siết chết cô ấy từ phía sau, có điều cái khăn này trông sạch sẽ, hình như không phải đồ cũ. Các vị xem, mép khăn còn mới tinh, gần đây có ai…”
“Không biết!” Sanae cướp lời, nhưng lại vội vàng nói thêm, “Tôi không nhớ gần đây mình có cắt cái khăn nào mới không, cũng không nhớ đã tặng cho ai cả, nhưng loại khăn này rất phổ biến ở đảo. Hồi bông vải còn chưa bị kiểm soát, mỗi năm đến rằm tháng Bảy, giao thừa, đám hiếu đám hỉ đều có khăn gửi đi tặng…”
“Trong nhà các vị còn loại khăn này không?”
“Có lẽ còn hai ba cây. Khi trước nghe nói sản phẩm bông vải sắp bị kiểm soát, nên ông nội mới cho nhuộm thật nhiều đem trữ. Về sau nguyên liệu khan hiếm dần, chúng tôi hiếm khi gửi tặng ai nữa, trong nhà cũng tiết kiệm ít dùng nên còn mới.”
“Nói vậy cái khăn này cắt ra từ cả cây lụa nhuộm phải không?” Kindaichi hỏi chen vào.
“Vâng, khăn mặt kiểu Nhật để làm quà tặng đều như vậy, khi nào dùng mới cắt ra.”
Kindaichi cầm lấy cái khăn từ tay Isokawa, lật đi lật lai xem xét rồi trầm tư suy nghĩ.
Bi kịch đã khép lại, có lẽ sẽ không xảy ra những án mạng đáng sợ nữa. Tuy thương xót nạn nhân nhưng mọi người đều thở phào nhẹ nhõm.
Song án mạng vẫn chưa kết thúc, có lẽ màn chính của vở kịch bây giờ mới thực sự kéo lên. Đã là việc trên đời, đã có bắt đầu ắt sẽ có kết thúc. Cái kết khủng khiếp mà dân đảo e sợ đang từng bước tiến đến gần.
Họ cũng cảm nhận được điều ấy, bởi gần đây những chuyến đi về giữa đảo và đất liền bỗng tấp nập hẳn lên. Tàu cảnh sát lũ lượt kéo đến, lực lượng được bổ sung, ai nấy nai nịt vũ trang kĩ càng.
Trái với những hoạt động tích cực của cảnh sát, Kindaichi chỉ ủ ê rầu rĩ. Thâu đêm không ngủ, anh thất thần nhìn các cảnh sát xăng xái chạy đi chạy lại, lòng nôn nóng muốn nắm bắt điều gì, luôn cảm thấy điều đó dường như gần ngay trước mắt, có điều cứ đưa tay ra lại chụp hụt. Phải hành động thôi… Phải có cách chứ… Đầu Kindaichi phát đau vì suy nghĩ, cứ như bị niệm chú kim cô.
Trong phòng, sư thầy vẫn đang tụng kinh, tiếng tụng trầm thấp xen lẫn giọng niệm vang vang mà run rẩy của chú tiểu. Trưởng làng Araki, bác sĩ Murase và ba người của chi thứ chắc đều đông đủ. Kindaichi lê guốc gỗ bước ra sân, sau đó lại đờ đẫn đi qua bếp đến cửa sau. Anh cảm giác mình đang phát sốt, đầu đau như muốn vỡ, chưa chừng hóng gió biển một lúc lại đỡ.
Con dốc trước dinh thự chi thứ là nơi nhộn nhịp nhất đảo, với dăm cửa hàng nhỏ. Kindaichi đang định băng qua đường, chợt có người gọi giật lại.
“Ấy, cậu định đi đâu thế?”
Là bác thợ cạo Oshichi, Kindaichi bước đến cửa, thấy bên trong đã lố nhố năm sáu dân đảo.
“Mời cậu vào đây một lát, lại xảy ra chuyện lớn rồi.”
Kindaichi ngần ngừ.
“Vào đây đi, đúng lúc chúng tôi đang thảo luận, Sen mới kể một việc kì lạ lắm.”
“Việc lạ ư?” Kindaichi khựng lại.
“Bác Oshichi, đừng nói ra…” Một người, hẳn là Sen, hớt hải lên tiếng ngăn cản.
“Đừng lo, chắc là bịa đặt thôi, chuông gì mà biết đi, rõ vớ vẩn! Có điều đã xảy ra án mạng, ta cũng nên nghe ngóng từng chi tiết, đúng không cậu Kindaichi?” Một người đàn ông khác xen vào.
“Quả chuông biết đi ư?” Kindaichi sốc nặng, như bị giáng một đòn vào giữa ngực.
“Đúng đúng, Sen vừa kể mấy chuyện kì lạ nên mọi người xôn xao cả lên. Mời cậu vào đây rồi nói.”
Bác Oshichi cho rằng mình và Kindaichi là chỗ thân thiết, lấy làm tự hào lắm, ra sức mời mọc anh vào. Kindaichi dường như cũng hào hứng với chủ đề vừa rồi.
“Làm phiền bác vậy.”
Kindaichi vừa bước vào, bác Oshichi bèn bảo mọi người, “Các anh ngồi xuống cả đi.”
Mấy người dân xúm xít trong hiệu cắt tóc, nhưng không ai định cắt cả, chỉ muốn bàn tán chuyện tối qua để giết thời gian mà thôi. Vì vậy họ tự tiện trải chiếu ra, người ngồi khoanh chân, người nửa nằm nừa ngồi, hoặc ngồi thò hai chân ra ngoài mép chiếu. Kindaichi vừa bước vào, họ liền ngồi thẳng dậy nhường chỗ.
“Tối qua mọi người vất vả quá,” Kindaichi khách sáo mở đầu.
“Có gì đâu, nghe nói nhóm các cậu còn tất bật hơn, mà cậu Kindaichi mới là lu bu nhiều việc nhất.”
“Ái chà, trở lại chuyện đang nói dở đi. Quả chuông biết đi là sao?”
“Chuyện đó… Này, Sen, cậu kể rõ đầu đuôi xem nào.”
Nghe mọi người giục, Sen đỏ mặt đáp.
“Chuyện khá lạ lùng,” cậu gãi gãi đầu, lại tiếp.”Vừa rồi mọi người cười tôi, nhưng tôi đã chứng kiến quả chuông biết đi thật mà. Hôm nọ, đúng hôm Yukie biết sát hại ấy, tôi ra khơi gần đó. Lúc trở về, tuy không nhớ là mấy giờ, nhưng mặt trời vừa lặn, tôi đang chèo thuyền về phía đảo, chợt trông thấy trên sườn dốc ngay dưới Mũi Tengo có một thứ là lạ. Tôi giật bắn người nhìn kĩ, ra là quả chuông… Bấy giờ trời đã hơi tối nên không trông rõ lắm, nhưng nhìn bề ngoài cũng biết là quả chuông, tôi không băn khoăn gì cả, bởi trước đó trai làng đã khiêng chuông về mà. Vả lại từ vị trí của tôi cũng không nhìn thấy Mũi Tengo nhô ra.”
“Hở? Quả chuông không đặt trên Mũi Tengo ư?” Kindaichi kích động ngồi thẳng dậy.
“Đúng đúng, thế mới lạ chứ. Sau đó tôi cắm cúi chèo tiếp, vô tình ngước lên lần nữa lại thấy quả chuông đã nằm chễm chệ trên Mũi Tengo.”
Kindaichi nhìn Sen không chớp mắt. Thấy anh chăm chú lắng nghe, cậu ta vô cùng đắc ý, “Tôi cũng giật bắn mình. Quả chuông nặng trịch, một người không sao khiêng nổi. Muốn di chuyển nó từ vị trí tôi thấy ban đầu lên Mũi Tengo, nhất định là mất công mất sức, lại gây tiếng động ầm ĩ. Hôm đó sóng êm biển lặng, nếu có động tĩnh gì, tôi ở trên thuyền ắt nghe thấy. Song không gian êm ấm như tờ, nên tôi cho rằng quả chuông có cách tự đi lên Mũi Tengo.”
“Vậy chỗ lúc trước cái chuông đậu có còn gì không?”
“Chỗ lúc trước à? Lúc ấy nó đã khuất tầm mắt tôi, không trông thấy nữa. Giờ nghĩ kĩ, đúng là nên vòng lại xác nhận một phen. Có điều tôi hơi rợn người nên đã về thẳng nhà.”
“Nhưng cậu tận mắt trông thấy quà chuông nằm trên sườn núi, đúng chứ?”
“Về điểm này tôi dám quả quyết. Tuy trời đã nhập nhoạng, nhưng rõ ràng là quả chuông, không chệch đi đâu được.”
“Trên đảo có hai quả chuông lớn không?”
“Lấy đâu ra! Có mỗi một quả mà thời chiến còn suýt bị trưng thu mất…”
“Nó lâu đời lắm rồi à?”
“Ừm, lâu đời lắm rồi. Nghe nói trước đây từng bị nứt, lúc cụ Kaemon của chi chính làm ăn phát đạt đã đưa đi nhờ người ta đúc lại.”
“Ậy, tôi cũng nhớ, khoảng mười lăm mười sáu năm trước, hình như đưa tới Hiroshima hay Kure để đúc lại. Không thể có hai cái chuông được, nên chắc chắn là Sen hoa mắt, ắt là do mấy chuyện khủng khiếp vừa xảy ra…”
“Nói bậy, tôi trông thấy chuông trước khi Yukie chết kia mà.”
Kindaichi nghe cồn cào trong ngực, những điều Sen vừa kể nhất định có chứa chìa khóa đề phá án.
“À, vừa nãy cậu có nhắc tới cụ Kaemon. Cụ ấy từng phát đạt lắm à?”
“Vâng, cụ đức cao vọng trọng như Ngài Taiko vậy, tiếc rằng thời kì thịnh vượng đó không bao giờ trở lại nữa.”
“Nghe nói phút cuối đời của cụ vô cùng thê thảm, cứ nghĩ sản nghiệp gầy dựng sắp bị chi thứ giành mất, cụ không sao nhắm được mắt, mọi người còn đồn chết đi như vậy khó mà siêu thoát.”
“Có phải bị tai biến không ấy nhỉ…”
“Đúng đúng, tai biến mạch máu não. Lúc chiến tranh kết thúc, cụ ấy từng ngã bệnh, liệt nửa người trái mất một dạo. Lần ngã bệnh sau còn nằm bẹp suốt một tuần, nghe nói là gay go. À phải, giờ tôi mới nhớ ra sắp đến ngày giỗ cụ rồi nhỉ?”
“Liệt tay trái à?” Kindaichi lại thấy đầu ong ong như vừa ăn một đòn thật nặng.
“Phải, liệt nửa người trái, bởi thế tính tình lại càng nóng nảy. Rõ là tội nghiệp, ông cụ vốn đang phơi phới đột nhiên suy sụp hẳn. Mọi người đều nói lúc sinh thời cụ vẻ vang như Ngài Taiko, chết đi cũng vẫn canh cánh không yên như Ngài Taiko.”
Kindaichi im lặng ngẫm nghĩ. Bác Oshichi chợt lên tiếng, “Cậu Kindaichi này, chuyện tối qua suy đến cùng là thế nào vậy? Nghe nói cô Tsukiyo… bị siết cổ chết tại quán đêm sâu phải không?”
“Quán đêm sâu là gì cơ?”
“Phòng cầu nguyện ấy. Chỗ đó gọi là quán đêm sâu.”
Quán đêm sâu… quán đêm… Kindaichi thình lình trợn trừng mắt, như thể bị búa choảng vào đầu, ánh nhìn đờ dại.
“Nghe nói đó là do cụ Kaemon đặt. Tuy là một phòng trong nhà nhưng người ta chỉ ghé khi có việc, giống như đêm sâu lỡ độ đường phải tá túc ở quán trọ. Thế là gian phòng cầu nguyện ấy được gọi là quán đêm sâu.”
“Quán đêm sâu… quán đêm sâu… Quán đêm sâu, các du nữ ngủ, trăng và bông lau…” Kindaichi thình lình đứng phắt dậy khiến mọi người xung quanh giật nảy mình, đổ dồn mắt vào anh.
“Anh, anh sao vậy?”
“À không có gì đâu, cám ơn các cậu đã kể với tôi những chuyện hữu ích. Cám ơn bác Oshichi, bữa khác tôi lại sang.”
Rồi bỏ lại sau lưng ánh mắt kinh ngạc của mọi người, Kindaichi lảo đảo lao ra khỏi tiệm cắt tóc, trông như một gã say rượu.
“Này, này, anh Kindaichi làm sao thế? Anh ta sợ cái gì thế nhỉ?”
“Chắc là lần ra manh mối rồi, có vẻ như đã phát hiện được gì đó qua câu chuyện của chúng ta.
“Hừm, tay này trông cứ ghê ghê làm sao ấy.”
Đúng thế, quả thật Kindichi đã bắt được manh mối, màn mây đen mù mịt vây bọc anh trước giờ bỗng được xé toạc nhờ một tia chớp xanh.
Quán đêm sâu
Các du nữ ngủ
Trăng và bông lau.
Quán đêm sâu, rồi còn du nữ và bông lau. Hoa lau rắc trên thi thể Tsukiyo hẳn là dựa theo bài thơ này, shirabyoshi cũng có ý chỉ du nữ. Chuyện là thế nào nhỉ? Đúng là khủng khiếp! Hành vi điên rồ như vậy… Ôi, đất bằng như dậy sóng, biển cả như sôi lên, bầu trời như lấp loáng… Kindaichi lảo đảo đi như say rượu về đến tiền sảnh dinh thự chi chính thì đụng phải Isokawa đang từ trong đi ra.
“Kindaichi!” Isokawa ngạc nhiên gọi to, “Sao mặt chú tái mét thế?”
Trong nhà văng vẳng tiếng tụng kinh của thầy trò nhà sư. Hai hàm răng Kindaichi bỗng va vào nhau lập cập, anh ấp úng nói, “Phiền anh, phiền anh đi với em. Em có thứ này nhờ anh xem thử.” Isokawa kinh ngạc trợn mắt nhìn Kindaichi nhưng cũng không hỏi nhiều, chỉ lặng lẽ xỏ giày theo anh ra ngoài. Kindaichi chạy lên con dốc dẫn đến chùa Senko, dĩ nhiên trong chùa vắng tanh không có ai cả, anh bèn xông thẳng vào phòng đọc sách.
“Anh xem bức tranh dán bên trái bình phong kìa…”
Isokawa lặng đi, nghĩ thầm lẽ nào Kindaichi cũng bị điên rồi sao? Bức tranh Kindaichi chỉ là tranh trên tấm bình phong mà sư thầy khuân vào để che cạnh gối anh cho đỡ lạnh.
“Em đọc mãi vẫn không hiểu trên bức tranh kia viết gì. Nếu đọc hiểu sớm hơn, có khi đã khám phá ra sự thật lâu rồi. Anh đọc đi, nhanh lên!”
Thấy Kindaichi buồn bã, Isokawa do dự đưa mắt nhìn bức tranh anh chỉ.
“À, đó là Kikaku phải không nào?”
“Đúng nhưng là bài nào của Kikaku?”
Isokawa chăm chú đọc hồi lâu rồi đáp, “Chữ viết tháu quá, ai chưa đọc bài này chắc không nhận ra được. Đây là một tác phẩm nổi tiếng của Kikaku, viết rằng, ‘Thánh thót trên cành, treo ngược, chú hoàng oanh.’ Dường như ông ta trông thấy kỹ nữ trên gác thò đầu ra gọi người hầu, bèn sáng tác ra bài thơ này.”
“Vậy… vậy là đúng rồi!” Kindaichi run bắn lên, như có luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng lên đầu, “Hanae bị treo ngược trên cây mai, là phỏng theo bài thơ này, Yukie bị nhét vào lòng chuông, là vì bài ‘Bi thương làm sao, dưới chiếc mũ trụ, dạt dào ý thu’… Còn án mạng đêm qua, là vì bài haiku trên một bức tranh khác, ‘Quán đêm sâu, các du nữ ngủ, trăng và bông lau’.”
Isokawa sửng sốt, mắt trợn tròn như sắp lọt khỏi tròng.
“Được rồi, em biết anh muốn nói gì, tất cả bọn họ đều không bình thường! Dân đảo đều là đồ điên, tất cả bọn họ đều không bình thường! Tất cả bọn họ đều không bình thường!”
Nói đến đây, Kindaichi bỗng nín bặt, sau đó giương cặp mắt đang lồi tướng nhìn trừng trừng bức bình phong, phá lên cười sằng sặc, “Không bình thường… Không bình thường… Không bình thường…”
Kindaichi cười điên dại, cười ngằn ngặt, cười đến mức mặt đầm đìa nước mắt vẫn chưa ngưng.
“Phải rồi, dĩ nhiên là không bình thường! Sao tôi lại ngu ngốc đến thế…”
Sau khi Hanae bị giết, sư thầy từng đứng dưới gốc mai lẩm bẩm, “Tuy là người điên, nhưng cũng chẳng biết làm sao được.”
Ý nghĩa thật sự của câu này, đến giờ anh mới hiểu ra.
“Cậu muốn nghe chuyện về cụ Kaemon?” Ông Gihee đặt chén xuống, miệng còn thoang thoảng hương trà, thong dong nhìn Kindaichi. Nếp nhăn hằn sâu hai bên khóe miệng, lại thêm khuôn miệng vừa rộng vừa hô, khiến ông ta có vẻ lạnh lùng tàn nhẫn, hèn chi người của chi chính tránh như tránh tà. Nhưng ngồi nói chuyện một lúc, Kindaichi không khỏi sinh lòng bội phục ông ta.
Cửa đại sảnh dinh thự chi thứ mở toang, thấy rõ mồn một hàng mái ngói của dinh thự chi chính ở bên kia thung lũng, ngọn gió sớm mát mẻ lướt vào, vờn qua người họ. Kindaichi cả đêm không chợp mắt, vừa trăn trở thao thức vừa đối chiếu với ám hiệu trên bình phong haiku, tua lại toàn bộ vụ án trong đầu, xem xét kĩ càng một lượt. Khi vỡ lẽ bí mật ẩn sau mấy dòng chữ mình từng tưởng là vô thưởng vô phạt, anh choáng váng và kinh hoàng khó tả.
Trời sáng, hai má anh hóp lại, nhưung cặp mắt thì sáng rực như phát sốt.
“Có thấy khó chịu ở đâu không? Chú mày sốt đấy à?” Nghe tiếng bữa sáng đã chuẩn bị xong, Kindaichi ra phòng ăn. Thấy bộ dạng anh, Isokawa kinh hãi hỏi thăm. Isokawa ở dinh thự chi chính nên Kindaichi cũng ở lại đây luôn.
Song anh không trả lời ông ta mà vội vã ăn ngấu nghiến cho xong bữa sáng dở tệ. Né tránh ánh mắt ngập ngừng muốn hỏi lại thôi của Isokawa, anh hối hả ra ngoài, đi đến chỗ chi thứ. “Em có vài chuyện cần hỏi ông Gihee…”
Phu nhân Shiho ra đón, nhận ra Kindaichi trông là lạ, tức thì thu lại vẻ tươi cười thường nhật, nghiêm trang vào trong thông báo.
Cuối cùng anh đã ngồi trước mặt ông Gihee.
“Cụ Kaemon là một nhân vật kiệt xuất, xứng với danh xưng Ngài Taiko.” Giọng Gihee trầm thấp mà âm vang, khi nói thường nhấn mạnh âm cuối, tuy không hùng hồn cho lắm, nhưng phần nào lại hé lộ cá tính cứng cỏi. Có lẽ đây là nguyên nhân dân đảo so sánh ông ta với Tokugawa Ieyasu.
“Cách đây hai ba chục năm, lúc chúng tôi còn trẻ, Ngục Môn là một hòn đảo mông muội lạc hậu, bị dè bỉu là hậu duệ của cướp biển và tội phạm lưu đày cũng chẳng oan, nó được như hôm nay hoàn toàn nhờ công cụ Kaemon. Cụ chẳng biết nhiều hiểu rộng, cũng chẳng phải nhà giáo dục xã hội, càng không định chỉnh đốn tư tưởng dân đảo, chỉ làm cho cả đảo giàu lên, khiến cuộc sống của người dân được cải thiện. Nghèo khổ có thể coi là nguồn gốc của muôn tội ác, con người ta mà nghèo khó là sẽ vứt hết sĩ diện, chuyện đồi phong bại tục gì cũng dám làm. Khi đảo trù phú lên, thói hư tật xấu của dân chúng cũng bớt dần. Trên những hòn đảo thế này, hễ chủ tàu giàu lên, dân chài dưới quyền tự nhiên cũng khấm khá hơn. Vả lại một nhà chủ tàu làm ăn được, các nhà khác cũng sẽ khá lên theo, tình hình kinh doanh ắt thay đổi hẳn. Cụ Kaemon là người nhìn xa trông rộng, một khi đã quyết định thì trở ngại nào cũng đạp bằng. Nhân Thế chiến thứ nhất, cụ mở rộng dần quy mô, cuối cùng trở thành chủ tàu lớn nhất trong vùng. Chúng tôi chỉ nhặt nhạnh những gì cụ ăn thừa bỏ lại mà cũng duy trì được đến hôm nay. Thế nào? Cậu đã hình dung được rõ hơn về ông cụ chưa?” Gihee nhìn thẳng vào Kindaichi bằng cặp mắt bình thản.
“Ra vậy, tôi hiểu vì sao cụ ấy được dọi là Ngài Taiko rồi. Nhưng người hô mưa gọi gió như thế mà cuối đời bất hạnh, lúc lâm chung vẫn còn canh cánh không yên, thật là tội nghiệp…”
Ông Gihee vẫn thản nhiên nhìn Kindaichi, rồi đáp bằng giọng khàn khàn trầm đục, “Về điểm này dường như dân đảo cũng xì xào phê bình tôi, hẳn cậu đã nghe rồi nhỉ. Tôi không dám nói là họ chỉ bịa đặt. Quả thật trong mấy năm cuối đời, cụ Kaemon rất căng thẳng với tôi, quan hệ hai nhà ngày càng rạn nứt, nhưng ấy là việc chẳng đặng đừng. Tôi khâm phục cụ về sự nghiệp, việc gì cũng xem cụ là tấm gương để học hỏi. Nhưng sở thích của cụ, tôi không theo kịp, vì vậy cụ vẫn lấy làm không vừa ý.”
“Nghe nói cụ Kaemon thường vung tiền mua vui?”
“Đúng thế, cụ rất rộng rãi, kiếm giỏi mà xài càng giỏi hơn. Vào thời điểm phát đạt, có thể nói là xài tiền như nước. Bấy giờ nếu không mời được tất cả những nhân vật quan trọng đến đảo, cụ sẽ hậm hực không vui. Nhưng tôi không theo kịp thú tiêu khiển đó, con người tôi nếu không thích sẽ không ép mình tham dự các buổi tiệc tùng hoặc hùa theo cụ Kaemon. Dù sao tôi cũng là gia chủ chi thứ, cáo lỗi vắng mặt càng lúc càng nhiều không khỏi khiến cụ ấy bực bội. Người ngoài trông vào lại cho là tôi đang nung nấu âm mưu, nhưng kệ thôi, họ có miệng, nói gì thì nói mình ngăn sao được.”
“Nghe nói những năm cuối đời cụ Kaemon đâm ra say mê ca kịch đúng ko?”
“Đúng thế, nhưng cụ chỉ có mình Katsu, đủ thấy không phải dạng ham chuyện trai gái. Nhưng từ xưa cụ Kaemon đã thích học đòi văn vẻ, một dạo còn đến chỗ trụ trì chùa Senko học làm thơ haiku. Từ khi có thêm Oshichi tham gia, thì bắt đầu thích kanku. Có lần tôi không thoái thác nổi, buộc phải dự hội thơ của họ, cảm thấy ngứa ngáy như ngồi trên tổ kiến, chẳng có gì hay. Tôi nghĩ phong nhã thực sự phải như Basho ‘Tịch liêu sao, tiếng lao xao, nước chảy’ mới đúng. Nhưng phong cách của cụ Kaemon và Oshichi chẳng liên quan gì đến tịch liêu, trái lại còn ồn ào nhốn nháo, nên tôi đi một lần rồi kiếm cớ thoái thác. Lần đó họ đang làm cái gì mà mô phỏng cảnh thơ.”
“Hả? Mô phỏng cảnh thơ là sao?” Ánh mắt Kindaichi đầy kinh hãi, anh linh cảm mình đã chạm đến mấu chốt vẫn ẩn trong bóng tối lâu nay.
“Tái dựng cảnh tượng trong các bài thơ haiku ấy… Tôi chỉ tham gia một lần nên không rõ lắm. Nhưng lần ấy họ tổ chức trò ‘món ăn trong thơ’, đề bài là mười hai đoạn trong Trung thần tàng[1], từ đoạn mở đầu đến đoạn cuối, phát trước cho mỗi người hai ba đoạn làm đề bài, mỗi người phải tự mô phỏng theo cảnh thơ trong đề, tôi được phát cho đoạn ‘thảo phạt’, đang vắt óc nghĩ mãi không biết làm sao thì Oshichi chạy đến gà bài, nhắc là chỉ cần khéo léo khai thác chữ ‘tuyết’ là được. Ông ta bảo tôi lấy món ‘tuyết trong ống nứa[2]’. Về sau tôi mới biết Oshichi đi gà cách làm cho tất cả mọi người, đây vốn chỉ là trò chơi giữa ông ta và cụ Kaemon mà thôi. Càng nghĩ càng thấy ngớ ngẩn, nên lần sau tôi không đi nữa.”
Mô phỏng… mô phỏng… hóa ra cụ Kaemon lại có sở thích quái gở như vậy.
“Ra thế, đó đâu gọi là phong nhã, chỉ là chút mẹo vặt thịnh hành cuối thời Edo mà thôi. À phải, sư thầy chùa Senko, trưởng làng Araki và bác sĩ Murase cũng thường được mời tham gia hội thơ ư?”
“Dĩ nhiên rồi, ba người đó là khách quen. Tuy sư thầy kém cụ Kaemon mấy tuổi nhưng luôn tự coi mình như bề trên, cụ Kaemon cũng hết sức tôn kính ông ta. Chưa hết, bất kể cụ Kaemon muốn làm gì, sư thầy đều hăng hái phụ họa, cứ như dỗ trẻ con vậy. So ra thì trưởng làng Araki và bác sĩ Murase không mấy để tâm đến thơ thẩn. Họ chỉ hùa theo vì sợ chuốc họa vào thân mà thôi, tôi ghét cay ghét đắng lối sống ấy.” Giọng ông Gihee thoáng vẻ khinh miệt.
“Cụ Kaemon tin tưởng ba người họ lắm à? Còn gửi gắm việc hậu sự cho họ nữa.”
“Chắc vậy. Sau khi làm căng với tôi, trên đảo cũng chỉ còn ba người đó đủ tư cách để chuyện trò bàn luận với cụ Kaemon thôi. Nhưng những lo âu trong lòng cụ lúc lâm chung không liên quan gì tới tôi cả. Nếu chi chính thuận buồm xuôi gió mọi bề thì đời nào cụ ta để tôi vào mắt. Tất cả đều là tại Yosamatsu thôi. Nghĩ cho kĩ thì từ khi Yosamatsu lấy Osayo, nhà bên bắt đầu đi xuống.”
“Phải rồi, tôi muốn hỏi thêm về Osayo…”
“Osayo hả, cô ta là đồ điên. Chắc cậu không biết, ở Chugoku phía Tây Honsu có giống người gọi là ‘người cỏ’, hơi khác khuyển thần của Shikoku, xà thần của Kyushu, không thể kết hôn với người bình thường. Khi Âm dương sư Abe no Seimei[3] thời cổ đi qua Chugoku, những người hầu đi theo đều chết sạch, Seimei bèn hóa phép ban sinh mệnh cho cỏ dại ven đường, biến chúng thành người để mình sai khiến. Sắp về đến kinh, Seimei muốn biến chúng trở lại thành cỏ thì chúng van nài: Khó khăn lắm mới được biến thành người, xin cho chúng tôi tiếp tục tồn tại dưới hình người. Seimei mủi lòng, bèn quyết định chiều ý chúng. Những kẻ này do cây cỏ hóa thành nên không biết kiếm sống, Seimei bèn dạy chúng phép cầu nguyện, dặn chúng truyền thụ lại cho các thế hệ sau, từ đó ‘người cỏ’ đời đời làm nghề cầu nguyện. Vì tổ tiên là cây cỏ, không thể thông hôn với con người nên người bình thường đều căm ghét chúng. Nghe nói, Osayo cũng thuộc giống ấy, nhưng sự thật thế nào thì tôi không rõ, trưởng làng Araki khi xưa chẳng biết điều tra được tin này từ đâu, đem ton hót lại với cụ Kaemon, bởi vậy cụ ta càng thêm ghét Osayo.”
“Sao trưởng làng tọc mạch thế?”
Gihee gượng cười, “Yêu quá hóa hận đấy mà, ha ha! Araki Makihei giờ làm trưởng làng nên ra vành ra vẻ, làm bộ đạo mạo trang nghiêm thế thôi, trước đây cũng không ra gì. Ông ta và Yosamatsu từng tranh giành Osayo quyết liệt đấy.”
Kindaichi sáng mắt lên, “Ông ta ư?”
“Chính xác, biết người biết mặt biết lòng làm sao. Nhưng không chỉ mình trưởng làng oán hận Osayo đâu, dạo đó bệnh nhân của bác sĩ Murase cũng bị Osayo cướp hết, nên họ về hùa với nhau, loan tin bôi nhọ cô ta là người cỏ, khiến cô ta dần sa sút. Bản thân Osayo cũng chẳng tử tế gì, tôi không hiểu nhiều về cô ta, nhưng vẫn ghét cay ghét đắng. Tôi nghĩ chính vì lấy phải cô ta nên Yosamatsu mới phải sống cuộc đời tội nợ như thế.”
Kindaichi lặng thinh ngẫm nghĩ giây lát, rồi như sực nghĩ ra chuyện gì, “A phải, nghe nói Osayo từng diễn vở Truyền thuyết chùa Dojo trên đảo, vậy quả chuông dùng lúc ấy về sau đâu rồi?”
“Quả chuông ư…”Gihee nhíu mày vẻ khó hiểu, "Đó chẳng qua là đạo cụ đóng kịch, dùng giấy bồi dán lên khung tre mà thôi.”
“Đúng đúng, chính là quả chuông đạo cụ đấy, về sau để đâu rồi?”
"Cậu nhắc tôi mới nhớ, chắc đã được cất vào kho ở chi chính rồi… Ừm, về sau bỏ vào đâu nhỉ… Bên trong chốt lẫy, bật cạch một tiếng, chuông sẽ tách làm đôi…”
Quả chuông bên trong có chốt lẫy, bật cạch một tiếng sẽ tách làm đôi à! Nhất định là thế rồi, Kindaichi cảm giác có cơn giần giật sâu trong cổ họng mình.
“Ôi cám ơn ông nhiều lắm, các thông tin của ông đã gợi mở cho tôi nhiều điều.” Kindaichi điềm đạm cám ơn.
Gihee cũng điềm đạm đáp lễ, "Đâu có gì, công việc của các cậu mới vất vả, toàn phải dựa vào trí óc cả.”
“Đâu có,” Kindaichi cười mệt mỏi, “nhờ cảnh sát đến, lai lịch của tôi mới được làm rõ đấy.”
“Nhờ cảnh sát đến ư?” Gihee cau mày, “Sao cậu lại nói vậy? Tôi biết rõ cậu từ lâu rồi.”
“Gì cơ?” Sửng sốt như bị đóng nêm vào đầu, Kindichi kinh ngạc hỏi lại, “Ông, ông, ông biết tôi từ, từ lâu ư? Ai, ai, ai nói vậy?”
“Trưởng làng. À không, không phải chính miệng trưởng làng, mà là qua trợ lý của ông ta. Cũng tại họ Kindaichi khá hiếm gặp, trưởng làng vừa nghe đã nhớ ngay đến một vụ án mạng cách đây rất lâu, gọi là gì nhỉ… mà ở Okayama ấy. Trợ lý của Araki bắt gặp ông ta đang lén lút rút đống báo cũ đóng bó ra tra cứu, ông ta dặn không được tiết lộ với ai, nhưng người đó vẫn ngầm báo cho tôi biết. Lạ thật, đến giờ cậu vẫn chưa biết điều này ư?”
Hóa ra trưởng làng Araki đã biết mình là ai từ lâu. Còn bác sĩ Murase và trụ trì Ryozen thì sao? Chắc trụ trì cũng biết rồi. Ôi, tình hình quái quỷ gì thế này?
[1] Loạt bài haiku lấy ý tưởng từ sự kiện mùa đông năm 1703 ở làng Ako dưới thời Edo. Oishi Kuranosuke thống lĩnh bốn mươi bảy ronin (võ sĩ mất chủ) giết chết Kira, kẻ thù đã ép chết chủ mình, cắt đầu Kira tế chủ cũ.
[2] Sasa no yuki. Một món ăn chế biến từ tàu hủ.
[3] (921-1005), âm dương sư nổi tiếng nhất, đồng thời là chuyên gia về bói toán và bùa phép.