Chương II
Hiếu xuống ngựa, anh chưa kịp dẫn ngựa đi quần chân thì Hằng đến. Đấy là cô gái mặc quần xanh áo trắng, lưng thắt vải hồng, đầu chít chiếc nhiễu xanh da trời. Hằng hai mươi hai tuổi, mặt tròn, đôi gò má hơi cao, đôi lông mày uốn cong hình lưỡi liềm, mắt sáng lấp lánh và đôi môi son lúc nào cũng ướt mọng. Trong con mắt của trai làng và Hiếu thì Hằng là một cô gái lẳng lơ. Người ta thấy Hằng như muốn ve vãn tất cả bọn con trai. Trong những buổi họp, hoặc trên sân võ, hễ có mặt bọn con trai là Hằng cố làm duyên làm dáng. Khi đi thì lúc lắc cái đôi vai, đũng đĩnh cái đôi mông và mắt thì đảo nhìn tất cả mọi người. Mà nhất là đối với Hiếu, hễ gặp Hiếu là cô cứ lượn quanh qua Hiếu, tìm đủ cách để gây chuyện: “...Này, anh Hiếu! Đêm nào em cũng nghe anh, dậy thật sớm, phơi sương và tập dượt. Da em đã săn cón lại rồi đây này!...”. Càng nói, mắt cô càng sáng, nhất là đôi mi, mỗi lúc mỗi phơi phới lên. Vừa nói, cô vừa vén tay áo, cô vén khỏi cái làn da ram rám nắng, để he hé cái làn da trắng mịn như sữa ở gần nách, nói với một giọng nũng nịu lả lơi: “Anh cầm thử cái tay của em xem, nó cứng ngắt lại rồi đây này...!”. Cô vừa bảo vừa nâng tay đưa cho Hiếu. Nhưng Hiếu chẳng bao giờ sờ mó đến tay cô, mà chỉ lườm mắt, hoặc bậm môi, hăm dọa. “Mới đây mà nó đã quên thằng Phát rồi, đồ quỷ cái!”. Hiếu rủa thầm. Để chống chế lại sự ngượng ngùng, cô bĩu môi, hất mặt nhìn lại Hiếu, bướng bỉnh và thách thức. Rồi, bất chợt, cô ngửa mặt ra cười, cười một cách vô cớ, giọng cười ngân ngất nghe như điên dại.
Có thế mà người yêu của Hiếu lại đâm ghen. Hiếu cứ bị giày vò. Cho nên, mỗi lần gặp Hằng là Hiếu tìm đủ mọi cách để xa lánh.
Hôm nay thấy Hằng, anh lại càng bực bội và khó chịu hơn. Anh giương roi đánh “tróc” một cái, rồi phóng roi theo con ngựa đang chạy ra sân, như phóng lao. Anh không quay lại nhìn Hằng cũng không chào hỏi, anh vừa bước vào nhà vừa nâng vạt áo màu già bằng vải thô lên lau mồ hôi đang đầm đìa trên mặt.
- Anh đi đâu về đó? - Hằng đứng nép bên cửa, hỏi.
- Tôi đi gác! - Anh vừa trả lời nhát gừng vừa ngồi xuống phản.
Hằng chớp mắt nhìn Hiếu, len lẻn ngồi vào góc phản, nhưng cũng chỉ ngồi một bên mông phải, còn mông trái thì để ra ngoài.
Hằng có vẻ rụt rè. Hôm nay, Hằng đến, không phải là để ve vãn “bọn con trai” nữa. Hằng không đảo mắt nhìn Hiếu, cũng không vén tay áo đưa tay cho Hiếu sờ nắn. Hằng ngồi im, cắm mắt nhìn xuống nền nhà lồi lõm rác rưởi và đầy tàn thuốc.
Hằng muốn hỏi về tin tức của Sáu Sỏi.
*Trước đây, Hằng yêu con trai của Sáu Sỏi là Phát. Ấy là một người con trai khỏe mạnh, đẹp trai và có một cuộc đời lận đận. Nhà của hai người sát vách nhau, cùng chung một bóng mát của cây xoài. Từ bé, hai người đã cùng tắm một bến sông, cùng tranh nhau một trái xoài rụng, cùng chung một con đường ra cánh đồng đi làm mùa.
Phát không vào đạo, nhưng hai người vẫn yêu nhau. Trong những ngày sôi nổi chuẩn bị cướp chính quyền, đêm đêm Phát thường đi tập dượt với anh em thanh niên Tiền phong, còn Hằng thì tập dượt với bà con tín đồ. Hai người ở hai đoàn thể, hai bãi tập khác nhau, nhưng hai người lúc nào cũng thấy mình cùng chung một ý chí: yêu nước. Nhiều lúc, Hằng cũng muốn Phát cùng vào đạo, nhưng mỗi lần nghĩ đến Phát phải để tóc dài như mình, Hằng lại ngại, nếu có bảo thì cũng bảo qua loa cho có chuyện vậy thôi. Hằng yêu mến tất cả anh em cùng đạo, nhưng khi nhìn thấy họ cũng có cái đầu tóc như mình, Hằng thấy họ như thế nào ấy: chẳng phải đàn ông, chẳng phải đàn bà, trông họ vừa ảm đạm, vừa bẩn như thế nào ấy, chẳng đẹp trai một tí nào. Những cô bạn mỗi lần hỏi Hằng sao không bảo Phát vào đạo thì Hằng múm mím cười: “Chừng nào đạo cho các anh ấy cắt tóc thì mình mới chịu cho anh ấy vào!”. Nói thế, nhưng Hằng cũng thấy sợ cho Phát, đôi lúc thấy như hai người có cái gì thật khác nhau. Hằng vẫn yêu mà lòng không yên ổn.
Sau Cách mạng tháng Tám, Sáu Sỏi từ nơi xa trở về, hai gia đình định cho hai người lấy nhau. Nhưng hai người vẫn còn muốn bay nhảy, muốn lo việc nước, nên cả hai đều trù trừ chỉ cứ muốn yêu nhau như thế thôi. Thế rồi, không bao lâu có một biến cố xảy đến thật bất ngờ. Một số bà con tín đồ Hòa Hảo ở Cần Thơ dưới sự cầm đầu của Năm Lửa đã kéo ra thị xã đòi cướp chính quyền và đã xảy ra một cuộc xung đột. Tin ấy tràn đến làng như một cơn dông. Tất cả đều xôn xao. Người trong đạo xầm xì với nhau: “Việt Minh là quỷ dương, Việt Minh là kẻ thù của đạo!” Người làng đều nhìn nhau bằng cặp mắt nghi ngờ. Lệnh trên lại truyền xuống cho tất cả tín đồ: “Nam tín đồ được quyền cắt tóc ngắn để chuẩn bị ra chiến trận. Gươm đao phải sắc bén, đâu đó phải sẵn sàng!”. Đêm đêm, một số tín đồ bắt đầu có những cuộc họp kín. Những người ngoài đạo cũng bắt đầu lên chợ ngũ tập trung. Những cô nữ tín đồ có người yêu ngoài đạo, họ lần lượt, kẻ trước người sau, họ khuyên nhau, bảo nhau hãy cắt đứt tình cảm với người yêu của mình. Có cô sau khi gặp lại người yêu lần cuối cùng, khi trở về, chạy vào buồng, ôm mặt khóc. Có cô tỏ ra dưng dưng, có cô tỏ ra hãnh diện, coi như đó là một chiến công của mình đối với đạo, mong được Phật thầy hiểu cho. Những cặp mắt của các cô bạn ấy bỗng trở nên ác độc đối với Hằng. Họ luôn luôn dòm ngó Hằng, khiến cho Hằng sợ. Hằng không dám gặp lại Phát, hễ thấy Phát và nhìn thấy bà con tín đồ là Hằng lẩn đi và cố gắng tránh những cuộc hẹn hò. Có một đêm, Hằng đang đi từ sân võ về, nghe tiếng gọi của Phát, Hằng dừng lại, ngập ngừng, bỗng thấy tên Bảy Thẹo mang gươm dài thoáng qua, tim Hằng liền đập rộn lên, rồi Hằng vụt chạy về. Như một đứa bé sợ ma, Hằng trùm chăn kín cả người. Nửa đêm thức giấc và nghe tiếng sóng, Hằng tự hỏi: “Sao mình lại sợ, sao mình lại bỏ chạy. Chắc là anh ấy giận mình lắm. Hay là mình bảo anh ấy vào đạo, đạo bây giờ đã cho đàn ông cắt tóc ngắn lại rồi, nhưng chắc gì anh ấy chịu, anh ấy đã nhìn những người có đạo với cặp mắt đã khác rồi!”. Đêm ấy, Hằng trằn trọc cho đến sáng.
Chuyện đêm ấy có thế mà tên Bảy Thẹo đã tung tin ra hai người hãy còn dan díu với nhau, còn hẹn hò, còn gặp nhau dưới gốc cây vông đồng. Tin đồn với những chi tiết bịa đặt nghe y như là thật vậy. Và người ta xầm xì buộc tội cho Hằng là một cô phản đạo. Hằng chẳng biết phân trần với ai. Đêm đêm, Hằng chỉ biết thắp hương, quỳ dưới trần điều mà minh oan với Phật thầy. Cha và anh của Hằng trước đây đã bằng lòng cho Hằng lấy Phát, bây giờ cũng đã bảo: “Thôi, mày đừng có gặp nó nữa!”. Hằng không gặp Phát, nhưng Hằng vẫn yêu Phát. Nhiều lúc, Hằng cũng muốn quên Phát đi, nhưng chẳng hiểu sao hình ảnh của Phát cứ hiện lên trước mắt Hằng. Không quên được Phát, không tự mình xua đuổi nổi hình ảnh của Phát, đêm đêm Hằng van vái Phật thầy, cầu mong Phật thầy xua đuổi hộ cho mình. Nhưng, đứng trước tình yêu của Hằng, Phật thầy như bất lực. Hằng không quên Phát, mà càng ngày càng yêu Phát nhiều hơn. Hằng không hiểu được tại vì sao? Hằng tự an ủi: “Có lẽ Phật thầy không muốn cho mình quên anh ấy đây thôi!”. Hằng muốn nói với Phát tất cả ý nghĩ đó. Nhưng làm gì được gặp Phát mà nói. Trước đây, những đêm gặp nhau dưới gốc cây vông, Phát thường hay bắt Hằng đứng tựa lưng vào cây vông, buông dài cả mái tóc về phía trước. Hằng biết Phát yêu thích cái hình ảnh ấy của mình.
Thế nên, chiều chiều, Hằng thường hay đứng tựa vào cây xoài trước cửa nhà hai người, đợi Phát từ xóm Đình về chợ. Thấy Phát đi qua, Hằng liền đưa tay xõa tóc, kéo cả cái mái tóc đen dài vắt ra trước ngực và đưa tay vuốt ve, mắt vừa lim dim vừa chớp nhìn theo Phát. Chiều nào nàng cũng làm như vậy cho đến khi Phát đi khuất rồi nàng mối bới lại tóc và tự hỏi: “Chẳng biết anh ấy có hiểu cho lòng mình không?”. Hằng băn khoăn, xốn xang, và chẳng biết sẽ ra sao? Hai người chưa gặp lại nhau lần nào nữa thì Tây trở lại làng. Khi tàu chiến của giặc Pháp từ Nam Vang đổ xuống, neo lại ở đầu Cù lao bắn vào làng, và đại đội lính lê dương cặp tàu sắt lại bến, chiếm lấy thị xã thì Quản Dõng, Bảy Thẹo, lão Ịnh, Chiến, và một tín đồ trong làng liền nổi đuốc, túc tù và kéo nhau đi bắt giết những người ngoại đạo, họ bảo là phải trả thù cho những tín đồ đã bị hy sinh ở Cần Thơ.
Một số người chết. Thây trôi trên dòng sông. Ban ngày, tiếng quạ đen kêu át tất cả tiếng chim.
Từ đó, Phát và Sáu Sỏi và một số người ngoại đạo đã bỏ làng đi nhưng nàng chẳng biết họ đi đâu.
Khi giữa Pháp và một số tín đồ Hòa Hảo đã bắt giết và đánh bật các cơ sở cách mạng ra khỏi làng thì một số tín đồ nhao nhao đòi ban trị sự đạo phải bàn mưu đánh Pháp. Một số tín đồ như lão Ịnh và cha anh của nàng cùng một số nữa đã tự động chặn đánh những chiếc xe ngựa của giặc Pháp đi từ chợ huyện về. Giặc Pháp, lính Việt gian coi những người Hòa Hảo là những kẻ sớm đầu tối đánh. Bọn chúng liền quay súng đánh lại nhân dân Hòa Hảo, càn quét xóm Đình, đốt nhà và giết người. Cơ sở chống Pháp của một số tín đồ bị đánh tan tác. Trong lúc ấy, phía bên kia sông Cửu Long của những làng nằm dọc theo những con kinh xuyên vào Tháp Mười bắt đầu có tiếng súng của các lực lượng kháng chiến. Cũng trong những ngày ấy, Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ ra thông cáo kêu gọi tất cả bà con tín đồ và nhân dân hãy đoàn kết, đánh Tây cứu nước.
Không khí trong làng dần dần được thay đổi. Sáu Sỏi từ U Minh trở về, giữ chức chủ nhiệm Việt Minh huyện và chính quyền địa phương được thành lập. Phát cũng cùng về với một tiểu đội du kích. Xóm Đình bỗng trở thành khu căn cứ của xã.
Hằng không thể hiểu được rõ ràng vì sao cách đây có mấy tháng, hai bên bỗng dưng lại đánh nhau, rồi bây giờ lại đoàn kết với nhau? Hằng không hiểu, không đủ sức để hiểu và Hằng cũng không cần phải hiểu để làm gì. Hằng chỉ thấy tất cả tín đồ ai ai cũng hởi dạ, ai ai cũng vui mừng. Hằng chỉ biết rằng mình và Phát sẽ gặp lại nhau. Có lúc Hằng tự thấy mình ngây thơ quá, nhưng rồi nàng cũng tự an ủi: ngây thơ thì có tội gì? Một đêm nghe tin Phát về, Hằng liền nhờ cô bạn đồng cảnh ngộ là Hiền bảo Phát ra gốc cây vông cho nàng được gặp.
Đêm ấy là một đêm cuối năm năm 1945, gió bấc đã tràn về, nàng đứng đợi mà không thấy rét. Khi Phát đến, nàng thấy mình như đứng trước một người tướng. Phát oai vệ quá và khác xưa quá! Phát mặc chiếc áo mưa dài mở cả khuy. Phát đi ngược lại chiều gió, hai vạt áo bay như hai cánh chim, và bên hông xề xệ cây súng ngắn. Hằng vừa thấy yêu, vừa thấy kính. Hằng không dám chạy thẳng đến Phát củng không dám lẩn trốn như ngày xưa nữa. Người Hằng bỗng mềm nhũn và muốn lả đi. Gặp lại nhau, mới có hơn hai tháng mà nàng tưởng như xa nhau từ lâu lắm. Hằng định bụng khi gặp Phát, Hằng sẽ nói tất cả. Nhưng khi Phát đứng trước mặt thì cổ nàng bị tắt nghẹn. Nàng chỉ biết nhìn Phát, rồi khe khẽ lắc đầu:
- Anh! Không phải lỗi tại em! - Rồi nàng quay mặt vào cây vông và khóc. Nàng nghe bên tai mình có một giọng nói ấm áp quen thuộc và rụt rè. (Tiếng gió làm rung tiếng nói của anh ấy hay là tiếng anh ấy run thật? Sau này nhớ lại, nàng hay hỏi như vậy).
- Em! Đừng khóc! Anh hiểu! Chúng ta sẽ không xa nhau nữa đâu. Lần này, nếu có gì thì anh sẽ đưa em đi. Anh muốn em làm cứu thương cho bộ đội. Em có đi theo anh không?
Hằng nghe Phát hỏi, nàng muốn quay lại, áp mặt mình vào lồng ngực Phát và đáp lại, nhưng nàng không nói được, mà chỉ trả lời bằng tiếng khóc thôi.
Từ đó, đêm đêm hai người thường hay đi gác chung, cùng viết khẩu hiệu trên mặt đường; có khi, Hằng cùng theo Phát bắn bót, làm nhiệm vụ cứu thương. Có Phát, Hằng chẳng biết sợ là gì. Có Phát, mọi việc đối với Hằng đều trở nên yên ổn và tốt đẹp. Yêu Phát, nàng đã tự thêu dệt cho mình không biết bao nhiêu là ước mộng. Đêm nằm thao thức, Hằng thường mơ thấy: trong một cuộc chiến đấu, Phát bị trúng thương - nhưng bị trúng thương nhẹ thôi - Phát sẽ ngã trên cánh tay mình. Nàng sẽ nâng lấy Phát, băng bó cho Phát, vuốt ve lấy mái tóc của Phát, và nàng sẽ cúi hôn Phát như trong vở kịch “Nàng tiên với chiến sĩ” mà nàng đã được xem. Hoặc nàng sẽ ngã trên cánh tay của Phát, và trong những cơn mê, màng sẽ được Phát vuốt ve. Những hình ảnh ấy thường gây cho nàng một xúc cảm rờn rợn cả người. Hằng hãnh diện với mối tình của mình, Hằng không còn biết thẹn như lúc mối chớm yêu nhau nữa, Hằng muốn cùng đi với Phát trước mặt mọi người. Hằng không bao giờ nghĩ: hai người sẽ xa nhau, hai người sẽ sống có nhau, chết cũng có nhau.
Thế rồi, bỗng một hôm, tên Quản Dõng nhân danh là trưởng ban trị sự đạo, đã cho tên Bảy Thẹo gọi nàng đến nhà.
Quản Dõng hỏi:
- Bác nghe cháu với cháu Phát, hai người đã “thầm lén” với nhau có phải không? - Quản Dõng hỏi nửa đùa nửa thật như vậy.
“Không! Hai cháu yêu nhau thật sự chứ không phải thầm lén!”. Hằng muốn đáp lại nhưng Hằng không nói mà im lặng, e thẹn mà sung sướng.
- Hai cháu định chừng nào thì làm đám cưới?
- Dạ, đến độc lập!
- Cháu có khuyên bảo cháu Phát “quy y theo đạo” không?
Qua câu hỏi, Hằng biết có điều gì sắp xảy ra, Hằng hơi sợ và ấp úng.
Quản Dõng hỏi dồn:
- Cháu không khuyên bảo gì với cháu Phát à?
- Dạ... có!
- Sao ban trị sự không thấy cháu Phát xin vào đạo!
Hằng không dám nhìn hắn. Nàng cúi gầm xuống.
- Như vậy thì không nên đâu cháu ạ! Cháu không thấy cái đạo Thiên chúa hay sao? Người ngoại đạo nào mà muốn lấy con gái của họ, người ấy phải xin vào đạo thì Đức cha của họ mới chịu làm phép cưới. Nếu không thì chẳng được lấy nhau đâu. Còn cô con gái, một là bỏ chồng, hai là bỏ đạo, hai điều phải chọn lấy một điều. Nhưng thuở đời, bác chưa hề thấy ai mê trai mà bỏ đạo bao giờ - (Hằng ngượng đến chín người vì cái tiếng “mê trai” của hắn). Đó là cái chuyện của đạo Thiên chúa. Còn đạo của mình, nó “mầu nhiệm” hơn nhiều, thì lại càng không nên đâu cháu ạ! Một người thì ở cõi Niết bàn, còn một người thì bị sa xuống âm phủ, thì lấy nhau làm sao được? Bác nói như vậy, cháu nghe có phải không?
Hằng biết là Quản Dõng muốn nói thẳng với mình: nếu không kéo được Phát vào đạo thì một là bỏ đạo, hai là bỏ Phát. Không! Hằng không thể nào bỏ đạo được! Nghĩ đến những hình phạt về linh hồn, Hằng thấy ớn lạnh đến xương sống. Hằng rùng mình! Bỏ Phát? Không! Hằng cũng không thể bỏ Phát được! Nếu mất Phát, Hằng sẽ sống với ai? Mình không yêu ai nữa đâu! Cả hai, Hằng không muốn bỏ điều nào cả. Một trong hai lẽ sống ấy mà mất đi, thì cuộc sống của Hằng sẽ trở nên tàn tật. Những ý nghĩ ấy như đốt cháy người Hằng. Nàng ngồi im, nghẹn cổ, tự dưng nước mắt muốn trào ra.
- Cháu là người của đạo, ban trị sự có bổn phận phải lo cho cháu, cháu về mà nghĩ lại xem!...
Đêm hôm ấy, Hằng không ngủ được. Yêu Phát, Hằng như không thấy Phát là người ngoại đạo. Phát không có làm gì tội lỗi, Phát không có gì xấu xa, Phát không có gì đáng sợ, Phát chỉ đáng yêu mà thôi. Qua lời nói của Quản Dõng, Hằng như sực nhớ lại: hai người như có một cái gì thật khác nhau. Nhưng Hằng không sao tìm được cái khác nhau ấy cho rõ ràng. Hay là mình u mê quá? Hằng tự hỏi, tự dằn vặt mình. Hằng không sợ những lời đe dọa của Quản Dõng. Hằng sợ những lời đe dọa trong kinh sấm và những lời đồn đại nhiều hơn. Trong những năm tiêu điều vì cảnh nghèo, cảnh chết chóc của nạn dịch và cảnh khủng khiếp của chiến tranh giữa Nhật với Đồng minh, người trong đạo đã thì thầm với nhau: cuộc đời đã sắp đến ngày tận thế rồi. Một ngày gần đây, - nhưng chưa biết là ngày nào - ngày ấy sẽ tối trời tối đất trong ba ngày liền. Trong cái đêm tối dài dặc ấy, bọn quỷ dương sẽ đi rểu khắp các ngả đường. Bọn quỷ sẽ gõ cửa từng nhà, gọi tên từng người đàn ông và bắt hồn họ đi. Dưới sông thì sấu nổi, trên rừng thì hùm beo, ai không phải là người trong đạo thì hùm tha sấu bắt. Còn những người đã thật lòng quy y theo đạo thì được Phật thầy che chở. Sau đó, sẽ có ba tiếng sấm nổ long trời. Núi Cấm - Hằng vẫn chưa biết núi ấy ở đâu - sẽ nổ ra nhiều cửa. Núi Cấm sẽ biến thành cung đình và Phật thầy sẽ xuất thế trị vì. Những người có đạo, được quy tụ dưới chân Thầy, được dự hội Long hoa. Mấy tháng nay, vì vui say với kháng chiến, vì yêu Phát, Hằng như quên những điều đó. Nếu có nhớ thì niềm vui của kháng chiến và tình yêu đối với Phát cũng át đi. Giờ đây, lời nói của Quản Dõng như mang bóng đen đến cho Hằng. Trước mắt Hằng, cứ hiện lên một đêm tối. Đêm đen như mực và dày đặc. Nhà cửa im lìm. Nhà cửa như xếp vào nhau vì sợ sệt. Trên khắp các ngả đường, nghễu nghện những con quỷ với hình thù dị kỳ, con có sừng, con có nanh, chúng vừa đi vừa kêu vừa hú và gõ cửa từng nhà. - Người trong đạo đã dặn truyền cho nhau: trong nhà phải có sẵn vải rách. Nếu nghe chúng gọi đến, thì đàn bà cầm những cái giẻ rách, mở cửa he hé, đưa ra và nói “chồng tôi đã đi trước rồi, cho tôi gửi theo quần áo”. Bọn quỷ ấy tưởng thật, chúng sẽ cầm lấy giẻ rách và đi. - Dưới sông, sóng nổi ầm ầm, một đàn sấu khổng lồ, to bằng những chiếc ghe chài, mình gồ ghề, nước da đen sạm đầy rong rêu từ đáy nước trồi lên. Hùm beo từng đàn, nhe nanh, vờn quanh qua nhà và gầm gừ. Những người không theo đạo, người bị bắt, kẻ bị hùm sấu xâu xé. Đây đó, kẻ kêu người khóc. Trong tiếng sóng nổi, tiếng hùm beo, tiếng quỷ dương gõ cửa, tiếng kêu của người bị bắt. Hằng thấy một đàn quỷ ăn mặc rách rưới đến ghê sợ, sòng sọc vào nhà Phát. Bọn quỷ lôi Phát, tung bổng Phát lên. Người Phát chới với giữa khoảng không. Một đàn hùm beo, nhe nanh, múa vuốt, gầm hét chờ Phát. Phát rơi xuống, hùm beo vồ tới, xâu xé Phát ra làm đôi, xâu xé Phát ra từng mảnh nhỏ.
Nghĩ đến những hình ảnh ấy, nỗi khiếp sợ xâm chiếm lấy tâm hồn Hằng. Tim Hằng như có bàn tay của ai bóp chặt. Hằng sợ đến mất thở. Hằng vùng dậy. Bà mẹ không hiểu gì, cất tiếng hỏi, nhưng Hằng không nghe thấy. Hằng mở tung cửa, ù chạy.
Bên ngoài, đêm trăng yên tĩnh. Hằng chạy lẫn trong vườn xoài lốm đốm ánh trăng. Tóc Hằng bị vướng vào một cành cây thấp, giật Hằng lại. Hằng không biết gì hết. Hằng cứ cắm đầu chạy. Một lọn tóc bị đứt, Hằng cũng không đau. Hằng chạy băng qua đường, gõ cửa nhà Hiếu.
- Anh Hiếu, anh chạy lại đằng trạm gác, gọi anh Phát giùm tôi cái.
- Có chuyện gì vậy?
- Chạy giùm tôi cái, mau đi!
- Chuyện gì mới được chứ?
- Tôi đợi ảnh ở sau đình, mau lên đi!
Hiếu không biết gì, thấy cái vẻ hốt hoảng của Hằng, anh chạy ngay.
Hằng đợi Phát ở sau đình. Trong tiếng sóng vỗ về khuya, tiếng gió rào rào qua hàng dương - cho đến bây giờ nàng cũng không hiểu tại sao, khi thấy Phát thì nàng liền quỳ xuống, ôm lấy đôi chân của Phát, nói với một giọng vừa van xin vừa quyết liệt:
- Anh! Anh hãy xin vào đạo đi! Anh hãy xin vào đạo đi! Em sợ lắm! Em sợ lắm!
- Em làm sao vậy, đứng dậy đi em.
Hằng càng ôm chặt hai chân Phát:
- Không! Anh nói đi! Anh có xin vào đạo không? Hay là anh muốn em bỏ đạo? Anh có muốn em bỏ đạo không? Anh nói đi.
- Không! Anh không bao giờ muốn em bỏ đạo đâu! Đứng dậy đi em! Bình tĩnh lại đi em!... Đầu em nóng quá!
(Ôi! Nếu lúc ấy, anh ấy mà bảo mình bỏ đạo thì mình sẽ cắt đứt với anh ấy ngay, mình sẽ chạy trở về nhà thôi. Đằng này, anh ấy lại không bảo mình bỏ đạo. Những lần nhớ lại, nàng thường nói thầm như vậy). Lúc ấy, Phát cúi xuống, gỡ tay Hằng ra, và ngồi cạnh Hằng. Tự dưng, nàng thấy mệt mỏi đến rã rời. Phát vuốt qua mái tóc nàng. Trán nàng đầm đìa mồ hôi. Phát bảo:
- Anh không vào đạo, nhưng anh vẫn làm đúng lời răn của đạo. Đạo dạy mỗi người dân phải biết yêu nước, phải thù Tây. Anh là chính trị viên xã đội, lần nào giặc đi bố anh cũng đánh, anh không phải là người yêu nước hay sao? Anh không vào đạo, nhưng anh có làm điều gì sai đâu! Em có thấy như thế không?
Nghe Phát hỏi, Hằng không biết phải trả lời như thế nào. Anh ấy không vào đạo, nhưng anh ấy chẳng làm điều gì sai cả. Anh ấy yêu nước, anh ấy đánh giặc rất can đảm, chính mắt mình đã thấy, vả lại, anh ấy cũng không như những người ngoại đạo khác. Những bọn con trai ngoại đạo ở làng, họ thường hay chê giễu và tỏ ra khinh rẻ bà con tín đồ. Còn anh ấy, anh ấy chẳng bao giờ như thế, anh ấy bảo là anh ấy làm đúng theo lời dạy của đạo. Đúng như vậy!
- Nhưng mà em muốn anh vào đạo! - Được gần Phát, Hằng không thấy khiếp sợ như lúc nằm một mình nữa, cơn sốt của những ý nghĩ đen tối cũng dịu dần. Trước mắt nàng không phải đêm tối khủng khiếp. Trước mắt nàng: vườn xoài nằm im dưới ánh trăng. Ánh trăng xanh mờ. Đêm yên tĩnh và dịu dàng. Nép vào vai Phát, nàng nói với một giọng bình tĩnh hơn.
- Anh hiểu vì sao em lại vào đạo - (Anh ấy chẳng chịu trả lời ngay câu hỏi của mình mà lại nói như thế đấy).
- Anh hiểu như thế nào, nói đi!
- Anh hiểu, nhưng bây giờ anh chưa nói được...
- Sao vậy, anh?
- Vì bây giờ, anh chưa biết cách nói cho thật rõ ý nghĩ của anh. Nếu anh nói không được rõ, thì em rất có thể giận anh. Mà anh thì anh chẳng muốn cho em giận anh đâu!
Anh ấy hiểu mình. Nhưng anh ấy chưa muốn nói là vì sợ mình giận. Anh ấy thì bao giờ cũng như thế đấy: bình tĩnh, sáng suốt và giọng nói bao giờ cũng ấm áp dịu dàng - Hằng không nói sao được nữa. Nàng cũng thấy bình tĩnh và sáng suốt trở lại. - Anh ấy không có điều gì sai. Bọn ma quỷ cũng không bắt anh ấy đâu, không làm gì nổi anh ấy đâu! - Được ngồi gần Phát, nàng thấy mọi việc đều trở nên yên ổn. Hằng thấy ấm áp trong hơi thở và cái mùi quen thuộc của Phát. Hằng như thấy mình vừa qua một cơn vật vã điên dại, Hằng thấy mệt lả cả người.
- Anh ơi! Em mệt quá!
Nàng ngả lưng vào vai Phát, đưa tay vuốt ve mái tóc của Phát, nói như mơ.
Nghe tiếng sóng từ dòng sông dội lên và tiếng gió rào rào qua hàng dương, nàng lim dim mắt, muốn ngủ...
Sau đó một tháng, Phát được cấp trên điều về làm chính trị viên cho một đơn vị Vệ quốc đoàn. Đêm ấy, Hằng đưa Phát ra đi. Hằng đã tự tay đan cho Phát một chiếc nóp, khâu vá ba lô, quần áo. Hằng hãy còn nhớ rõ, đêm ấy là đêm tối trời. Hai người cùng đi một chiếc xuồng cui nhỏ, vượt sông. Phát ngồi lái, nàng ngồi mũi. Dòng sông, tàu địch thường hay tắt máy thả trôi. Hai người không nói với nhau một lời, hai người cứ cắm cổ mà bơi, chốc chốc, nàng lại quay ra sau lái. Hằng cứ sợ Phát bị sóng chồm lên cuốn mất. Nàng biết là mình sợ vô lý, nhưng nàng vẫn cứ sợ.
Qua đến bên kia sông, hai người cho xuồng cặp lại dưới bụi gừa khuất trong vàm kinh nhỏ. Thế là đã đến lúc phải xa nhau rồi. Từ lâu, yêu Phát, nhưng Hằng muốn giữ trinh tiết cho đến ngày cưới.
Nhìn cái bờ sông xa lạ - cây cối bị bom đạn, nằm gục đầu bên bờ, thoang thoảng mùi thuốc súng, nhìn những con đom đóm nhấp nháy lập lòe trên tàn gừa, nhìn những đợt sóng bủa ầm ì, tự dưng Hằng thấy lo sợ. Linh tính như báo trước cho nàng: hai người rồi sẽ không gặp lại nhau nữa. Anh ấy sẽ hy sinh, hoặc mình sẽ chết, hoặc có điều gì sẽ xảy ra, nàng không đoán trước được. Ôi! Nếu yêu nhau mà không yêu đến nơi đến chốn, thì sau này nàng sẽ hối hận vô cùng... Ngay trong đêm đó, Hằng hiến tất cả đời mình cho Phát... Nhớ lại lúc âu yếm, nghe tiếng sóng vỗ mạnh vào xuồng, xuồng tròng trành lắc lư, nàng bỗng chợt một ý nghĩ: cuộc đời của hai người rồi cũng lênh đênh như thế. Ý nghĩ ấy ám ảnh nàng, nàng thấy đau xót. Nàng bỗng òa lên khóc (Tội nghiệp anh ấy, anh ấy chẳng hiểu vì sao mình khóc, khi thì xin lỗi, khi thì tưởng mình không muốn cho đi, mình muốn nói, nhưng ngượng quá!)
Về làng, Hằng sống với một tâm trạng vừa băn khoăn vừa hãnh diện với mối tình của mình. Hằng thường mơ thấy Phát kéo quân về. Một đoàn quân gươm súng lấp lánh, đi giữa hai hàng dân xóm đứng dọc theo đường. Phát là người đi đầu. Phát oai vệ với bộ quân phục ka ki vàng, súng ngắn xề xệ bên hông, đầu đội nón cối hơi nghiêng. Hằng sẽ đứng đâu đó, ngắm nhìn theo Phát. Nàng sẽ được sung sướng nghe người làng vừa chỉ Phát vừa thì thầm “Chồng của con Hằng đấy!...”. Nhưng Phát chẳng kéo quân về. Rồi, độ ba tháng sau, một tai biến lại xảy ra, khiến cho hai người như mãi mãi xa nhau. Ấy là đêm tháng hai năm 1947, đêm nổi loạn của tín đồ Hòa Hảo. Hằng chẳng biết gì cả. Vì từ ngày Phát ra đi, nàng không mấy khi lui tới với bạn bè. Hằng cũng không đi gác đêm nữa - vì sợ người ta dị nghị, vả lại, anh em cũng chẳng kêu réo nàng như trước. Suốt ngày, Hằng chỉ thui thủi ở nhà. Cái chính là vì gia đình của nàng đang độ túng bấn quá. Cha của nàng - ông Năm Ngũ - anh của nàng - Phi Hùng - không màng gì đến việc đồng áng nữa. Mẹ của nàng ốm yếu, em của nàng thì nhỏ dại.
Trước đây, đến ngày mùa, cả nhà đều ra đồng. Sau ngày mùa, cha nàng, anh nàng, xoay qua nghề cá, còn nàng thì dệt mướn. Năm nay, cả làng đều bỏ ruộng, tất cả đều dồn vào việc đạo, đất bỏ hoang, một thân một mình, nàng không ra đồng được. Tằm không nuôi, dâu không trồng, tơ cũng không có mà dệt. Cày bừa vất bỏ bên hè. Nhện giăng đầy trên khung cửi. Ai cũng đinh ninh là sẽ đổi đời. Đời mới, mọi người sẽ ấm no. Lúa trong bồ mỗi ngày mỗi vơi, rồi dỡ cả bồ, quét sạch. Mấy giạ lúa giống cũng đem ra xay hết. Hết gạo, hỏi cha thì cha bảo:
- Đến nhà cậu Quản mà vay!
Hằng phải đi vay từng giạ lúa. Tín đồ tá điền cũng đi vay từng giạ lúa. Họ như không còn cần biết đến ngày phải trả. Công việc của đạo làm cho họ quên tất cả.
Hằng thấy mình có bổn phận phải lo cho gia đình. Nàng xoay ra làm lặt vặt, đan rổ, nuôi gà, nuôi heo. Vài hôm hái một vài buồng cau, một vài om trầu đem ra chợ bán. Công việc chẳng có gì nặng nhọc mà cứ túi bụi suốt ngày. Thỉnh thoảng, Hằng mới đi qua trụ sở ủy ban, mong gặp lại Sáu Sỏi hỏi thăm tin tức của Phát, rồi tất tả chạy về. Hằng chẳng còn thì giờ bè bạn với ai, Hằng chẳng hiểu gì hết.
Những lúc nhớ Phát, nàng thường len lén mở cánh cửa sau nhà Phát, vào ngồi bó gối trên bộ phản mà trước đây là chỗ ngủ của Phát. Bác Sáu Sỏi lâu lâu mới về một lần, đêm thì ngủ đâu chẳng ai biết. Nhà không ai dọn, nhà không có hơi người. Cột kèo, bàn ghế nổi mốc, đồ đạc bừa bãi - Nhiều lần, nàng muốn dọn dẹp, nhưng sợ người ta cười. Nhìn cảnh hoang vắng của nhà Phát, nàng thấy hoang vắng cả trong tâm hồn mình - Nhiều lúc, nàng muốn ngồi mãi, mong mỏi đừng có tiếng động gì, hãy để cho nàng được yên. Hằng muốn tìm lại hình ảnh của Phát còn để những dấu vết trong cảnh nhà, và nàng muốn sống với những hình ảnh ấy cho đến khi Phát trở về. Thế thôi! Hằng chẳng còn thì giờ bạn bè với ai, nàng chẳng hiểu gì hết. Đêm ấy, cũng như bao nhiêu đêm khác, sau khi đan xong chiếc rổ và lạy Phật, nàng lên giường ngủ với mẹ và em. Nàng chẳng để ý gì đến cặp mắt khác lạ của cha và anh. Nửa đêm, bỗng có tiếng tù và. Tiếng tù và đầu trên xóm dưới, cùng một lúc túc rộ lên nghe như những tiếng hú dài, tiếp theo là tiếng chó tru ông ổng. Nàng giật mình choàng dậy, mở cửa chạy ra sân, thấy chỗ nhà Ủy ban có một đám cháy, tiếng chân huỳnh huỵch, tiếng kêu réo. Hằng còn ngây ngủ, nàng tưởng người ta chữa cháy. Nàng vừa định chạy vào lấy cặp thùng thì có một đoàn người, tay đuốc, tay đao, tay kiếm, chạy tới. Hằng thấy Quản Dõng, lão Ịnh, cha nàng, anh nàng và tất cả tín đồ trong xóm. Tất cả các ngả trong làng, đâu đâu cũng có tiếng gào la. Quản Dõng tay phất đuốc, tay phất cờ, gào lên:
- Hỡi thiện nam tín nữ! Tiến lên!
- Tiến lên!
- Tử vì đạo!
- Tử vì đạo!
Trong ánh đuốc ngùn ngụt, Hằng thấy gương mặt của họ vừa hăm hở vừa hung bạo. Họ la hét, quơ kiếm, quơ đuốc, chen lấn nhau tràn về phía trước.
Tử vì đạo! Hằng như nghe tiếng gọi của thiêng liêng. Nàng hỏi:
- Cái gì vậy? Bà con?
Người ta vừa tràn về phía trước, vừa đáp lại:
- Ai hỏi đó?
- Con Hằng đó hả?
- Thời cơ đã đến rồi, không biết hay sao mà còn hỏi?
- Nó bị thằng Phát bỏ bùa mê thuốc lú, nó có còn biết đạo là gì đâu!
- Có phải là bổn đạo hay không mà còn đứng đó, hả?
Nhiều người cùng đáp trong một lúc, tiếng đáp của họ bị át đi trong tiếng gào la, tiếng gươm kiếm va vào nhau và tiếng chân. Hằng nghe không được đầy đủ, nhưng nàng hiểu. Hằng biết bà con đang trách mình. Thời cơ đã đến rồi! Ngày mà mọi người phải nhẫn nhục cầu mong và van vái thì nay đã đến rồi đấy ư? Thời cơ! Mọi người đang ào ào lao tới, còn mình thì chẳng biết được gì. Khoảnh khắc ấy, Hằng vừa tự trách vừa hối hận. Hằng thấy mình là người đi muộn. Nàng vội vàng chạy vào nhà, rút lấy ngọn kiếm dưới gầm tủ - ngọn kiếm đã sét rồi - lao ra đường, nhập vào bọn họ. Đi trong ánh đuốc, đi trong tiếng gào la, tiếng đao kiếm va vào nhau, những hình ảnh về ngày hội Long hoa lại đến với nàng. Hàng thấy mình như không phải là mình nữa, không phải là cái con Hằng tầm thường nữa. Mình là một nữ tín đồ, mình đang sống trong giờ phút thiêng liêng. Hằng thấy sung sướng và say sưa. Thấy người ta làm gì, Hằng làm theo cái ấy. Người ta la “Tử vì đạo!” nàng cũng hét lên: “Tử vì đạo!” Người ta vung kiếm choảng vào kiếm người khác, nàng cũng đưa kiếm đập vào kiếm người khác, góp vào một tiếng khua. Đi một đoạn, họ phóng đuốc đốt một cái nhà, họ phóng đuốc thì nàng cũng phóng đuốc. Hằng chẳng để ý nhà ấy là của ai. Hai bên đường, nhà bốc cháy rừng rực. Họ như những người đi trong lửa.
- Giết hết bọn quỷ dương!
- Giết hết!
Hóa ra là đêm nay bổn đạo mình đi trừ khử bọn quỷ! Hằng nghĩ, thế là không ai xé xác được Phát nữa đâu! Nhưng quỷ dương là ai, Hằng cũng chẳng hiểu. Hằng hiểu cái tiếng “quỷ dương” theo cái lối mê tín. Đạo quân của Phật mà đi trừ quỷ, thì bọn quỷ ấy làm gì mà chẳng tan hồn! Nàng thấy hăm hở, hào hứng và vui như đi biểu tình.
Đến lúc có súng nổ, Hằng mới rõ. Khi đoàn người vừa đến sân đình thì Chiến ở đầu cầu chạy ngược lại.
- Ông trưởng ơi! Bọn thằng Sáu Sỏi nó trốn hết rồi.
Quản Dõng liền chen đến trước, đưa cao ngọn kiếm như muốn chém xả vào người Chiến, hỏi với một giọng tức giận:
- Tại sao lại để cho nó chạy thoát hả?
- Tại con Hiền cho bọn nó hay. Nó phản đạo rồi!
Quản Dõng dậm chân, kêu trời một tiếng.
Chiến vẫn tiếp:
- Nó làm tình báo cho thằng Sáu Sỏi. Hồi nãy, đang lúc họp, nửa chừng, tôi không thấy nó.
- Còn thằng Bảy Thẹo đâu? - Quản Dõng quát lên.
- Anh Bảy Thẹo đang đuổi theo tụi nó. Ảnh kêu tôi về cho ông biết.
- Phải bắt cho được con quỷ cái đó! - Quản Dõng đưa kiếm chỉ về phía tiếng súng, quơ đuốc gào lên:
- Tiến lên! Bà con!
Người ta chen lấn nhau như một lượn sóng chồm về phía trước. Người ta gào la, tiến về phía súng nổ một cách hăm hở như lân mừng nghe tiếng pháo.
Tiếng súng mỗi lúc mỗi lui dần về phía bến đò. Khi đoàn xuồng của Sáu Sỏi vừa tách bến, thì họ cũng vừa tràn đến. Họ quên đem xuồng đuổi theo - mà có nhớ thì cũng không kịp nữa - họ lao xuống sông, bơi theo. Họ đuổi kịp chiếc xuồng cuối cùng. Trong xuồng ấy có hai anh du kích và Hiền. Họ nhận xuồng, họ dùng kiếm đâm chết hai anh du kích ở giữa dòng. Còn Hiền, họ nắm lấy tóc lôi vào bờ. Một số người còn muốn đuổi theo xuồng của Sáu Sỏi, nhưng vì đuối sức, bị súng bắn rát, nên phải quay về. Tiếng súng không làm cho họ bị thương, mà họ bị thương vì gươm kiếm của họ.
Họ kéo Hiền lên bờ. Họ buộc tóc Hiền vào cây mù u. Họ đốt đuốc vây quanh lấy Hiền, họ xô lấn, họ kêu la, họ tranh giành nhau hành hạ Hiền và mỗi người có mỗi lối hành hạ tàn nhẫn khác nhau. Người lấy đuốc châm vào mặt, vào vú, vào bụng Hiền, người thì lấy kiếm đâm chích Hiền.
Hiền chết, vẫn đứng bên thân cây mù u, đầu ngoẽo sang bên, hình dáng như chẳng còn ra con người nữa.
Thấy cái chết của Hiền, Hằng bỗng chợt nghĩ đến số phận của mình. Nếu Hằng mà biết được tin như Hiền chắc Hằng cũng cho Sáu Sỏi biết thôi và Hằng cũng sẽ chết như thế. Nàng bỗng thấy sợ tất cả mọi người. Nàng dụi đuốc, không dám cho mọi người thấy mặt. Nàng đi tìm cha và anh. Hằng nắm lấy vạt áo của cha như một đứa trẻ sự lạc. Nhưng cha nàng và anh nàng như chẳng chú ý gì đến nàng, thật xa lạ! Hằng thấy bơ vơ quá! Hằng muốn chạy về nhà với mẹ. Nhưng Hằng sợ. Nàng không dám đi một mình qua những đám cháy.
Sau khi giết Hiền, họ quơ đuốc, kéo về, bắt heo, bắt gà và mổ cả bò mở tiệc mừng chiến thắng. Họ mang tất cả ra sân đình. Quản Dõng cho hai chiếc đèn “măng sông”. Họ ăn uống, họ cười nói và chửi bới. Họ nhắc lại những chuyện thù xưa. Họ bàn về hội Long hoa. Họ mời ép nhau uống rượu. Rượu hũ, rượu chai, rượu thuốc, rượu tây, nhà nào có rượu gì, họ mang ra tất. Họ uống bằng bát, bằng tô, họ uống bằng chai. Hằng thấy họ khác xưa quá: toàn những gương mặt hằn học với những cặp mắt đỏ hoe. Đèn “măng sông” xì hơi như rắn khè. Họ hung dữ mà thân mật. Bảy Thẹo tuy là người cùng tín đồ, nhưng Hằng vốn không ưa hắn. Con người trông cứ sờ sợ, thấy gớm ghiếc làm sao. Ấy thế mà hắn cũng nâng chén mời Hằng. Hằng không muốn uống, nhưng Hằng sợ và cũng chính vì sợ nên Hằng cũng muốn uống. Nàng uống một hơi cạn một chén đầy, rồi uống cho đến lúc không còn biết gì nữa...
Qua cái đêm đó và qua nhiều cái đêm khác như thế nữa, dần dần, Hằng đã trở thành một con người khác. - Mình không phải là mình nữa rồi. Nhiều lúc, nàng cũng tự thấy rõ như vậy. Ai là người xấu? Hằng không biết được! Phát là người xấu? Không! Phát không phải là người xấu. Phát là một người tốt. Nếu thế thì cha nàng, anh nàng và tất cả tín đồ đều là người xấu hay sao?
Không! Cha nàng, anh nàng cũng không phải là người xấu! Thế thì ai là người xấu? Nàng không đáp được câu hỏi của mình. Còn quỷ dương? Quỷ dương là người như Phát hay sao? Nàng nghe nhiều người nói về quỷ dương, chẳng người nào nói giống người nào hết. Quỷ dương, những ông già bà cả thì cho đó là quỷ ma, là những âm hồn oan ức. Còn Quản Dõng và những người trẻ, thì bảo quỷ dương tức là Hủy vương, Hủy vương tức là bỏ vua - (Hủy vương hay quỷ dương, người Nam Bộ cũng đều đọc như nhau thôi). Bọn bỏ vua tức là bọn cộng sản, bọn ủy ban. Người trong đạo đánh Tây là để lập nên một triều vua mới, vua ấy tức là Phật thầy. Hằng chẳng hiểu thế nào nữa. Hằng chẳng biết phải theo ai. Hằng chỉ biết rõ có một điều: Phát và nàng sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa. Nàng vẫn yêu Phát, vẫn nhớ Phát, nhưng không dám nghĩ đến chuyện theo Phát nữa. Phát nghĩ đến nàng như thế nào, nàng cũng không hiểu.
Hằng cùng sống với cha, anh và tất cả tín đồ, nhưng nàng không hành động như họ, không có một mối thù như họ, nàng bị mất tất cả. Hằng chỉ còn mẹ với em. Nhưng mẹ và em cũng không sao an ủi được nỗi trống trải của nàng. Trống trải quá, có lúc nàng thấy hoảng sợ. Nàng muốn bấu víu vào một cái gì. Những lúc thấy hoảng sợ, nàng vội vàng đi lạy Phật, bất cứ lúc nào, có khi là buổi trưa, có khi là giữa đêm khuya. Nhất là giữa đêm khuya, tay cầm bó hương, mắt ngẩng nhìn lên những vì sao xa, tưởng đến Phật, nỗi đau khổ trong lòng nàng như tan đi theo hương khói. Nàng thấy nhẹ nhàng được đôi chút.
Còn sống ở làng, Hằng không thể xa lánh mọi người được. Hằng phải tham gia một việc gì đó với bổn phận của một người tín đồ. Hằng cũng không màng đến việc làm ăn nữa. Việc nhà đều dồn cho mẹ và đứa em trai. Gạo hết thì cứ vay nhà Quản Dõng. Hằng đi tập võ, đi canh gác. Thấy mặt người chung quanh, những người đã giết Hiền - cái chết của Hiền cứ hiện lên - Hằng sợ họ nhắc đến Phát. Hằng sợ, nhưng họ vẫn cứ nhắc đến Phát. Mỗi lần nghe họ nhắc đến Phát, là nàng tìm đủ lời lẽ để vừa chối, vừa tỏ ra khinh rẻ và thù hằn Phát.
- Nếu bây giờ mà bắt được thằng Phát thì cô làm sao? - Người ta hay hỏi như thế.
- Tôi sẽ giết nó chớ làm sao nữa. - Nàng đáp lại một cách sốt sắng. Nàng vừa nói vừa vung kiếm, bĩu môi: “Cái thằng đó à?”. Rồi nàng ngửa mặt ra cười, cười khanh khách. Nàng cười, nhưng nếu ai chú ý thì sẽ thấy ở khóe mắt nàng có một giọt lệ long lanh. Nhưng giọt lệ ấy như cũng biết sợ như nàng, nó không dám trào ra, nó chan đầy qua đôi mắt của nàng. Đôi mắt của nàng ướt lấp lánh. Hằng nói những lời đó, không chỉ để che giấu với mọi người, mà còn có ý muốn thanh minh, che giấu với Phật thầy nữa. Hằng sợ nhất là sự trừng phạt về linh hồn. Như thế, Hằng vẫn sợ là chưa đủ. Hằng lại tỏ ra như đang yêu một người nào đó trong bọn tín đồ. Nàng lượn quanh theo bọn con trai, cười đùa với họ... Dần dần, những cử chỉ ấy thành như một thói quen.
Nhớ Phát, những lúc không cưỡng nổi lòng mình, nàng thường chạy ra bờ sông, ngồi lẫn trong một lùm cây, nhìn về vết xanh đậm ở phía bên kia sông. Đó là tàn cây gừa, nơi mà hai người đã chia tay, nơi mà nàng đã... Rồi tưởng như gặp Phát, như một thói quen, nàng đưa tay xõa tóc, kéo mái tóc về phía trước và đưa tay vuốt tóc cho Phát ngắm nhìn. Mắt lim dim, và cứ thế, nàng ngồi đắm trong mơ tưởng. Khi có một tiếng động, chợt giấc mình, biết mình đang ngồi trong lùm cây, nàng bỗng thấy lạnh, nàng bỗng thấy sợ sóng bạc đầu: những ngọn sóng từ xa khơi bủa dậy, tràn lên nhau gầm thét, ào ào chạy vào. Nàng tưởng như những ngọn sóng ấy đang muốn vồ lấy mình để cuốn mình đi. Nàng vội vã chạy về. Nàng vừa chạy vừa lấy mái tóc lau nước mắt.
Hằng không dám nhắc đến Phát. Cả trong ý nghĩ, Hằng cũng không dám nhớ đến Phát nữa...
Nhưng, mấy ngày nay, từ khi Sáu Sỏi bị bắt, hình ảnh của Phát lại hiện lên. Đêm, Hằng không sao ngủ được. Linh tính như báo trước: Hằng sẽ gặp lại Phát. Khi thì Hằng mơ thấy Phát về đón mình đi, khi thì thấy Phát chĩa súng vào ngực mình. Hằng muốn gặp mặt Sáu Sỏi để tìm lại hình ảnh của Phát, để được nói với Sáu Sỏi về nỗi đau khổ của mình, may ra có một người hiểu được mình và nàng sẽ được khóc. Hằng muốn khóc. Hằng muốn khóc với một người hiểu mình. Rồi người ta có đem giết Hằng, Hằng cũng bằng lòng. Nhưng ai là người giúp cho Hằng được gặp mặt Sáu Sỏi? Hằng chẳng dám nhờ ai. Nhờ Hiếu là bạn thân của Phát, nên nàng mới đến tìm. Hằng muối hỏi, nhưng thấy cái vẻ mặt hầm hừ của Hiếu, Hằng sợ.
Còn Hiếu, anh như không thấy Hằng ngồi đó. Đầu anh đang căng lên vì một ý ghê gớm: phải giải thoát cho Sáu Sỏi. Từ sáng đến giờ, anh xải ngựa dọc theo sông, mong tìm một người để nhắn tin về cho Phát. Nhưng chẳng gặp được ai. Anh hối hận vì đã hy vọng một cách quá khờ dại: Ban trị sự sẽ thả Sáu Sỏi, sẽ cùng bàn bạc với Sáu Sỏi. Sáng nay, khi anh biết được tin thì đã muộn rồi. Lời hứa của cha anh chỉ là lời an ủi. Người quyết định chuyện này không phải là cha anh. Người quyết định là Quản Dõng. Nếu Sáu Sỏi có bề gì, anh còn mặt mũi nào mà nhìn lại Phát nữa? Phải giải thoát cho Sáu Sỏi! Chính vì ý nghĩ ấy mà anh thấy sợ bà con tín đồ. Nên khi trở về, anh không dám ghé qua đình dạy võ.
- Anh Phát! Giờ này anh ở nơi đâu? - Đầu Hiếu như bốc cháy. Anh ngồi thần thừ, lưng hơi còng, đưa cặp mắt vừa giận dữ vừa buồn rầu nhìn một đám mây đen vừa tách ra khỏi chân trời đang bay lang thang trong bầu trời vắng ngắt và chói chang.
Bên sân đình, tiếng đao kiếm của tín đồ học võ vẫn khua rổn rảng và chém vù vù.
- Sao hôm nay anh không dạy võ? - Hằng liếc nhìn Hiếu, hỏi, dò xét, môi hơi run run. Hằng hỏi câu đó để mở đầu cho câu chuyện. Nhưng Hiếu nào có hiểu được. Từ lâu, anh chỉ thấy cái vẻ bên ngoài của Hằng. Anh không biết Hằng muốn giở cái trò gì. Nghe Hằng hỏi, anh càng khó chịu.
- Tối hôm nay đang bận việc. Còn chị, sao chị không lo tập, mà sang ngồi đây? - Hiếu vừa đáp vừa lườm mắt nhìn Hằng. Sợ Hằng bắt chuyện, Hiếu liền bước xuống phản, tay kéo lấy cánh cửa. Cánh cửa rít lên như nghiến.
- Thôi, tôi phải đi đây!
Hằng biết Hiếu muốn đuổi mình. Hy vọng có một người hiểu mình bị sụp đổ, ngực Hằng như thóp lại.
Hằng cúi lặng, bước ra cửa. Hằng vừa tủi vừa ngượng. Hằng sợ mọi người biết mình bị Hiếu đuổi đi. Hằng chưa dám đi qua sân đình. Hằng đứng yên trước cửa, thẫn thờ nhìn ra xa. Trước mắt Hằng: đám mây đọng dưới chân trời dài như một dải núi nằm dọc theo phía bên kia bờ sông đã bốc bay lên. Đám mây ấy tan ra từng mảnh to mảnh nhỏ đủ thứ hình dạng, dính liền nhau như một miếng vải bẩn rách te tua, loang lổ, kéo trùm qua làng. Bầu trời liền nhỏ lại, tùm hum và tối sầm. Mặt sông Cửu Long lấp loáng như gương cũng liền sẫm lại mầu thâm thẫm với một dáng vẻ lầm lì. Và từ xa khơi, sóng bạc đầu chồm lên nhau, đuổi nhau, xô nhau, ào ào chạy vào và khi gần đến bờ thì ngọn sóng uốn cong lên như hót bụng, cất cao lên để đập vào bờ đánh ầm một cái, bắn bọt trắng xóa tung lên. Rồi như tức tối vì không phá vỡ được bờ, những ngọn sóng ấy lại rút ra, rồi cất lên, ụp vào mạnh hơn, bọt nước tung trắng cả thân cây gừa, và cứ như thế, gầm thét lên mãi mãi.
Đàn quạ đang rão theo mặt sông, như hoảng hốt, hay túa vào bờ, quang quác réo nhau chui vào tàn gừa, rồi lại réo nhau bay túa ra.
Gió từng cơn, từng cơn mang theo hơi nước lành lạnh và mùi tanh thối của xác người, thổi rạp bãi cỏ trước nhà, lốc rào rào qua hàng dương, và xa dần trên những đám vườn sau đình.
Thấy tốp người đang lúi húi dựng pháp trường dưới gốc cây gừa, nghĩ đến cái chết của Sáu Sỏi, Hằng chợt rùng mình.
Hằng đứng yên, muốn hỏi Hiếu thêm một câu nữa, may ra Hiếu có thể hiểu, nhưng Hằng vừa muốn nói thì Hiếu đóng sầm cửa, bỏ đi.
Ngượng quá! Hằng không còn đủ sức tạo ra những cử chỉ giả tạo để chống chế lại nữa. Sợ không cầm được nước mắt, Hằng ù chạy về nhà.
Nàng gục đầu lên gối, khóc ngon lành.