Chương III
Lão Ịnh muốn tránh cặp mắt dòm ngó của tín đồ, nên lão không dám đi thẳng theo con đường xuyên qua xóm. Lão đi lẫn trong vườn chuối rậm. Lão cũng không ưỡn bộ ngực về trước với vẻ ngang tàng như thường ngày nữa. Lão đi lom khom, lùi lũi như con cuốc. Và lão dừng lại bên con mương nước sền sệt bùn, ngó qua cụm xoài.
Cụm xoài của nhà Quản Dõng chiếm một mảnh đất rộng hơn năm mẫu tây. Tàng xoài um tùm, lá chen nhau che kín cả ánh mặt trời, khu vườn lúc nào cũng tối om om và vắng lạnh. Lá khô từ mùa này qua mùa khác rụng xuống, ấp ủ thành một lớp phân dày, xông lên một mùi ẩm mốc.
Lứa xoài muộn hãy còn đang độ trổ hoa. Một cơn gió thổi qua, hoa xoài rơi trắng cả khu vườn như một trận mưa hoa.
Trong bóng tối nhờ nhờ ở gần mí vườn, có một người thoáng qua, thoáng lại, âm thầm như cái bóng ma. Người ấy là Bảy Thẹo. Người hắn vai rộng bè bè, nên người trở nên thấp xùng xình trong bộ quần áo kiểu nhà binh Nhật màu cứt ngựa, hông đeo cây gươm dài lếch thếch và tay cầm ngọn súng lăm lăm. Mặt hắn hình vuông, cằm to, nước da màu đồng điếu và cặp mắt lươn ti hí lúc nào cũng lầm lì. Hắn độ ba mươi tuổi. Hắn là người nhà của Quản Dõng. Hắn về ở với Quản Dõng hồi đầu năm bốn mươi. Theo Quản Dõng thuật lại thì hắn là người không cha không mẹ. Hắn đi theo xe từ nhỏ và lớn lên, hắn là một tên du côn, đứng bến cho hãng xe Long Thành ở Cần Thơ. Cuối năm 1939, hãng Phú Hòa cho ra một loạt năm chiếc xe mới hiệu “Citroen” để tranh khách Cần Thơ Sài Gòn với hãng Long Thành. Sáng sáng, năm chiếc xe của hãng Phú Hòa sắp một hàng dài tại bến, bóp kèn, rồ máy, xịch tới xịch lui để rước khách. Hãng Phú Hòa định giết chết hãng Long Thành nên hạ xuống phân nửa tiền cho hành khách. Và đứng bến là Hai Đẩu, nguyên là dân “anh chị bự” ở Cầu Muối đất Sài Gòn. Hai Đẩu khét tiếng là một tay võ nghệ cao cường. Chỉ nhìn con rồng xanh xâm ở lồng ngực của anh ta, thì cũng đủ biết anh ta là tay như thế nào rồi. Ngày nào Hai Đẩu cũng đến đứng trước đầu xe, tay vẹt một bên áo với tư thế sẵn sàng: đâm chém. Và sau lưng Hai Đẩu là một bầy em út. Thế là hãng Long Thành hoàn toàn bị mất khách.
Chủ hãng Long Thành bèn đưa Bảy Thẹo ra kình địch với Hai Đẩu. Bảy Thẹo lúc ấy độ mười chín hai mươi tuổi, nhỏ hơn Hai Đẩu mười tuổi và đứng thấp hơn Hai Đẩu một cái đầu. Chủ hãng Long Thành bảo với Bảy Thẹo:
- Nếu mày hạ được Hai Đẩu, hạ được hãng Long Thành thì tao sẽ chia cho mầy nửa cái gia tài.
Thế là một buổi trưa trong quán nước, Hai Đẩu đang ngồi chồm hổm uống cà phê thì, sau lưng bỗng có một tiếng kêu:
- Hai Đẩu! Đỡ!
Hai Đẩu vừa đưa tay xoay mình qua đỡ thì đã bị ngọn kiếm - rèn bằng nhíp xe - của Bảy Thẹo phạt rơi cánh tay trái rồi. Thừa thế thắng, Bảy Thẹo tấn Hai Đẩu vào tường, gí gí cái mũi kiếm vào bụng Hai Đẩu mà bảo:
- Anh Hai! (Hắn vẫn gọi Hai Đẩu bằng anh Hai theo lối xưng hô trong làng dao búa). Anh còn muốn thấy mặt vợ con, thì anh phải la lên cho làng phố biết.
Hai Đẩu vì mất một cánh tay, vì bị thất thế, đành phải nghe theo. Hai Đẩu chịu la lên, tức là đã chịu hàng. Đó là cái dấu hiệu của hãng xe đã chịu nhường khách cho kẻ thắng.
Sau đó hai hôm, Bảy Thẹo bị trả thù. Bọn em út của Hai Đẩu đón chém anh ta tại cầu Cái Đôi. Bảy Thẹo một mình đỡ gạt được một lúc, rồi phóng xuống sông lặn mất. Trở về, xem xét lại thân mình, anh thấy mình chỉ bị bảy vết thẹo xoàng trên tay, lưng và vai. Anh ta thành danh Bảy Thẹo là từ đó.
Hãng Phú Hòa vẫn chưa chịu thua. Tên chủ hãng kiện hãng Long Thành đến tòa vì tội cho người chém lén Hai Đẩu. Chủ hãng Thành Long đút tiền cho quan trên và đổ tội cho Bảy Thẹo. Thế là Bảy Thẹo phải đi tù.
Trong những ngày ấy, Quản Dõng đến Cần Thơ để lo cho đứa em út khỏi bị đuổi ra khỏi trường vì tội đánh ông giám thị. Nghe chuyện đó, Quản Dõng cho Bảy Thẹo người nhỏ mà gan, đáng là dân anh chị. Hắn nghĩ: cần phải đón Bảy Thẹo về làng để trị đám tá điền cứng cổ. Và nếu được Bảy Thẹo cầm cương xe cho hắn đi thì đố có một tên dân tá điền nào dám làm hỗn với hắn. Nhân có sự qua lại với quan chủ tỉnh, hắn bèn đến xin tha cho Bảy Thẹo và đích thân đưa Bảy Thẹo vào nhà thương để an trị.
Ra khỏi nhà thương, Bảy Thẹo liền quỳ dưới chân hắn để tạ ơn.
Từ đó, Bảy Thẹo về ở với hắn, tới mùa đi góp lúa, và ngày ngày thì giữ cương ngựa cho Quản Dõng đi việc quan. Hắn đã trở thành một tên tay sai trung thành cho Quản Dõng. Hắn được Quản Dõng hoàn toàn tin cậy. Hôm nay, Quản Dõng phân công cho hắn đứng gác thường trực hầm giam Sáu Sỏi.
Lão Ịnh đứng nhìn Bảy Thẹo, nghĩ đến cuộc đời của hắn, lão thấy ngài ngại.
Tình thương bạn bốc dậy trong người lão, lão “hừm” lên một tiếng và tự hỏi: “Nó cũng tín đồ thì sao lại sợ nó?”
Rồi, lão xòe bàn tay phải đưa lên ngực, ngẩng đôi mắt sầu não nhìn áng mây vẩn đục đang che kín mặt trời, miệng lẩm bẩm van vái với các vị chư tiên chư phật, mong cho Sáu Sỏi biết cải tà quy chánh.
Vái xong, lão thấy người trở nên cứng cỏi và tự dưng lão tin rằng: mình sẽ thuyết phục được bạn.
Lão nắm chòm râu kéo chằn qua một bên, nhảy phóc qua mương, đi thẳng lại Bảy Thẹo.
Bảy Thẹo rụp chân, đưa tay trái lên ngực, cúi đầu chào theo kiểu người có đạo.
- Cho tôi nói chuyện với thằng tù binh một chút. - Lão bảo với tư thế của ông phó ban trị sự ra lệnh cho một tín đồ.
Bảy Thẹo cúi đầu nhận lệnh, dựng súng bên một gốc xoài, rồi đi thẳng lại hầm.
Hắn đến gần một gốc xoài rễ bò ngoằn ngoèo trên mặt đất như một đàn rắn nằm khoanh. Hắn dùng chân hất mấy nhánh xoài khô chất đống trên cửa hầm, rồi cúi mình đưa tay cào lá phân sang một bên. Hắn hắt hơi mấy lần vì mùi ẩm ướt xông lên mũi. Dưới lớp phân là một miếng gỗ đậy cửa hầm. Hắn dỡ nắp, cửa hầm tròn như miệng lu, đen ngòm và hun hút như đường xuống âm phủ. Hắn thò đầu xuống cửa hầm, giọng hắn rền rền dưới lòng đất:
- Lên! Lên!
Hắn móc bật lửa, bật lên mấy lần đều bị hơi ẩm thổi tắt. Hắn rút gươm thọc xuống hầm, quậy quậy và kêu tiếp, vẫn không nghe tiếng tăm gì, hắn vứt gươm sang bên, ngại ngùng thò xuống một chân, rồi tụt dần vào hầm.
Lão Ịnh vẫn đứng như chân bị trồng xuống đất, tay vuốt cong chòm râu. Lồng ngực lão phập phồng, mắt lão lơ đãng nhìn những hoa xoài đang rơi rụng. Và lão khẽ rùng mình khi thấy Sáu Sỏi.
Sáu Sỏi từ hầm ngoi lên. Sau hai ngày chịu đói, khát và ngột ngạt, người bác gầy hẳn. Bộ quần áo đen của bác đã nhuộm màu bùn và nhớp nháp. Bùn nhầy nhụa bê bết trên mái tóc, chòm râu và gương mặt hốc hác của bác. Chỉ có đôi mắt chân thành của bác là còn trong sáng. Tay bác bị trói ra sau bằng một sợi lòi tói dài.
Thế là hơn bốn tháng, bác mới trở lại làng, từ cái đêm Hiền bị hy sinh.
Bác là người ít khi ở làng. Năm ba mươi tuổi, năm 1932, từ khi gặp Đảng và biết cách mạng, cuộc đời của bác cứ rày đây mai đó, khi thì phải trốn tránh, khi thì bị tù đày. Một hai năm, bác mới có dịp trở về làng một lần. Cũng như bao nhiêu người đã từng đi xa, mỗi lần trở lại làng là bác thấy bao nhiêu điều biến đổi, có những cái bị mất đi, có những cái vừa sinh sôi nảy nở và lớn lên, có điều khiến cho bác đau xót, có điều khiến cho bác vui mừng, lần nào cũng thế. Nhưng chưa bao giờ bác thấy làng mình có những biến đổi ghê gớm và lạ kỳ đến nỗi bác phải lạ lùng và khó hiểu như những năm gần đây. Sau đêm khởi nghĩa năm 1940, năm năm bị ngồi tù nơi Côn Đảo, khi trở về, nước nhà đã độc lập rồi, bác nghĩ làng mình chắc vui lắm, vui hơn và sôi nổi hơn những làng mà bác đã ghé qua. Làng của bác, một cái làng của những con người bất khuất, một cái làng mà anh em đồng chí trong tù thường hay nhắc đến - làng Mỹ Long Hưng, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên - mỗi lần nghe nhắc đến tên làng là mỗi lần bác thấy tự hào. Nhưng khi về đến làng thì cảnh làng và người làng đều khác hẳn với ý nghĩ của bác. Bác đã cảm thấy lạ từ khi tàu rúc còi quăng dây cập bến. Những người mà bác tưởng sẽ ra tận bến đón chào bác, đón chào anh em tù Côn Đảo trở về thì bác chẳng thấy ai ngoài đứa con, người trong gia đình, một vài đồng chí cũ và những người ở chợ. Xóm Đình, nơi mà trước đây thường hay nổi đuốc ngùn ngụt trong những đêm đi biểu tình thì bây giờ mỗi một sân nhà đều mọc lên một bàn thông thiên với khói hương buồn ngui ngút. Người như lão Ịnh, bác tưởng là đã vào Đảng rồi. Nhưng không, lão Ịnh đầu đã để tóc, râu dài chấm đến ngực. Và bà con tá điền của xóm Đình, những người đã cùng bác tham gia các cuộc biểu tình chống sưu, chống thuế, những người đã cầm dao, cầm đuốc nổi dậy trong đêm khởi nghĩa 40, những người đã giúp bác treo lá cờ đỏ búa liềm trên cột dây thép, bây giờ, cũng như lão Ịnh, đầu để tóc và ăn mặc quần áo màu già. Còn những thằng như Quản Dõng, bác tưởng là hắn đã bị đền tội rồi. Nhưng không, hắn vẫn còn. Hắn cũng thay đổi, đầu không đội nón cối, tay không xách cù ngoéo, người không mặc đồ tây, cũng như bà con tá điền, hắn mặc quần áo màu già và đầu để tóc. Mới nhìn thoáng qua, bác cũng tưởng hắn là dân tá điền. Bà con tá điền như quên hắn là Quản Dõng, quên hắn là người đã gây ra nợ máu, không thù ghét hắn, mà lại kính phục hắn và tôn hắn là người cầm đầu. Hắn đi đến đâu, người ta niệm Phật và cúi chào đến đấy. Và cũng như hắn, bà con tín đồ - những người dân tá điền ấy - họ nhìn bác, nhìn anh em đồng chí trong chính quyền với cặp mắt thù địch, ganh tỵ và nghi ngờ. Vì sao thế? Vì sao bà con tín đồ ở làng lại họp kín, tập đêm, rậm rịch muốn nổi dậy như một số tín đồ đã nổi loạn đòi cướp chính quyền ở Cần Thơ? Họ là những con người phản bội như một số người đã nói? Vì sao chính quyền ở làng lại quá nhiều những người ở chợ, những người mới lớn vừa nông nổi, vừa kiêu ngạo và lố lăng? Cuộc sống bị rối như tơ vò. Tơ vò người ta còn tìm ra mối, còn cuộc sống của làng, của con người thì bác chưa hiểu. Trong làng, đâu đâu cũng có cờ đỏ sao vàng, nhưng tâm hồn của con người thì như bị nhuộm màu nâu, màu xám.
Về làng, bác vẫn ở xóm Đình, vẫn lân la vẫn cùng sống với bà con. Trước đây, bác đến với họ thân thuộc như người nhà, nhưng bây giờ, đến họ, bác thấy như đến với một thế giới nào khác, bác vừa bỡ ngỡ vừa lạ lùng, cả những lời nói của họ cũng khác đi, họ không nói những lời nói của người bình thường, tiếng nói của họ là tiếng nói của kinh sấm, nào: cuộc thế, trần gian, trầm luân, bể khổ, chúng sanh, bá tánh...
Về làng chưa đầy một tháng, bác chưa kịp hiểu thật lòng của họ thì giặc đến. Khi giặc đến thì họ nổi dậy, bắt được một số người trong chính quyền. Bác cùng với một số anh em bị bắt giam trong hầm tối. Đêm nào cũng có một số đồng chí bị đưa đi thủ tiêu. Nằm trong hầm giam - một cái hầm dưới mặt đất, bùn đất nhòe nhoẹt - bác thấy đau đớn hơn lúc bị giam ngoài Côn Đảo. Nhà tù của giặc không giết được cuộc đời cách mạng của bác. Năm năm ngồi tù, khi trở về thì lại chết vì bàn tay của người làng và người thân! Nằm đợi cái chết của mình, bác chỉ mong gặp lại họ, người ấy là ai. Bác muốn nói với họ và muốn hỏi họ vì sao? Bác bị giam ba ngày. Rồi, bỗng một đêm, có một bóng người mò xuống, vừa quờ quạng vừa gọi tên bác, nắm lấy tay bác kéo lên.
Ra khỏi cửa hầm, trời tối đen như mực, không thấy đâu là xóm làng, chỉ nghe tiếng sóng từ xa dội lại, tuy thế, bác vẫn nhận ra người đang giữ lấy tay bác chính là lão Ịnh. Mình sẽ bị giết vì bàn tay của lão Ịnh chăng? Bác hãy còn đang nhìn lại lão Ịnh thì lão Ịnh đã nắm chặt lấy hai tay bác, tay run run và kêu tên bác với giọng nghẹn ngào trong nước mắt:
- Anh Sáu! Anh không còn nhận ra tôi nữa sao, anh Sáu? Anh phải đi ngay thôi. Hai ba đêm nay, anh em người ta đi lục hết các hầm để giết anh mà không thấy. Tôi cũng tìm anh với thằng cháu. Thằng cháu nó đi rồi. Tôi tưởng là anh đã chết rồi. Không ngờ, nhờ Phật thầy phù hộ, tôi còn gặp lại anh. Thôi, đi đi anh Sáu!
Nghe lão nói, bác vừa bàng hoàng vừa cảm động.
- Anh Sáu, anh đi không nổi sao? Anh đói lắm phải không? Tôi có mang cơm cho anh đây. Tôi sẽ đưa anh ra cây vông đồng.
Hai người đứng lại dưới gốc vông. Cũng dưới gốc cây vông ấy, những lần giao nhiệm vụ cho lão Ịnh, hai người cũng thường gặp nhau trong những đêm khuya như thế. Tàng vông lào xào như gợi nhắc lại những tiếng thì thầm trong những đêm xưa.
Sau khi trấn tĩnh lại, bác hỏi:
- Anh Tư! Sao anh không thả những anh em khác?
Nghe hỏi, lão Ịnh từ từ quay mặt nhìn mặt nước đầm sen đang gợn loang loáng trong bóng đêm, rồi lắc đầu, nhỏ giọng:
- Những người đó không phải như anh, mà tôi cũng không có quyền. Còn anh, anh là người... - lão không tìm ra tiếng nói - cho nên trời Phật đã xui khiến cho tôi đi tìm anh. Thôi, anh đi đi anh Sáu, đừng nấn ná ở đây mà sa vào tay của anh em.
Lão quay nhìn lại Sáu Sỏi, vừa cởi vừa mở bộ quần áo buộc qua hông vừa nói:
- Tôi có mang ra cho anh một bộ quần áo màu già với một cái giấy đi đường của tín đồ.
Lão dúi vào tay Sáu Sỏi:
- Anh mặc vào mà đi. - Lão ngẩng nhìn lên nền trời đen xám - Tôi cầu mong những vì sao của định mệnh soi dẫn con đường cho anh.
- Anh Sáu! - Lão kêu bác, mở tròn mắt nhìn bác như nhìn một lần cuối cùng, rồi quày quả đi...