← Quay lại trang sách

Chương XX

Cái đám người của lão Ịnh, Phi Hùng, Năm Ngũ và Quản Dõng vừa qua khỏi cầu, đang hò hét lao theo những tay súng của Ba Kềnh Càng thì đạn bay vào họ như cám rãi.

Đạn réo qua người họ, cắm vào các thân cây cạnh bên người họ, rít qua những cành lá. Lá tơi tả rơi rãi quanh người họ. Nghe tiếng “xung phong” thét vang bên kia khu vườn và thấy những tay súng của Ba Kềnh Càng thối ngược lại, không ai bảo ai, họ liền quay mặt lại, chen nhau, xô nhau, đạp vào nhau, dồn trở lại. Có người khỏe tay, khỏe chân, họ nhảy ùm xuống dòng kinh, mang theo cả đao kiếm và đuốc. Đuốc tắt lèo xèo trên mặt nước, họ lóp ngóp bơi vào. Ba Kềnh Càng vung ngọn kiếm, hét vang:

- Đứng lại!

Cây đại liên liền nổ lên trên một tràng dài, yểm hộ cho toán xung kích tháo ngược về. Tất cả những tay súng của Ba Kềnh Càng lần lượt lui ra phía sau, dồn cái đám người đao kiếm ra phía trước.

Phía bên kia vườn bỗng im lặng. Đám người đao kiếm bắt đầu tìm nhau. Họ không có tổ chức gì hết, không có đơn vị, không có tiểu đội, không có tổ, cũng không người chỉ huy chính thức. Người nào hăng hái là người chỉ huy của họ. Họ thích ai, tin ai, họ chạy theo người ấy. Trong lúc không có chuyện gì, họ có một đội ngũ hẳn hoi: đại đội, trung đội, tiểu đội, nhưng đến lúc chiến đấu thì họ lại rã ra, rã ra nhưng lại là một khối, và tất cả đều dưới quyền chỉ huy của một người cầm loa, bất cứ là người nào. Ông già, bà già, đàn bà con gái, trai tráng và trẻ con, tất cả đều có. Có người bị bắt buộc, có người tình nguyện và mỗi người chiến đấu với mỗi ý nghĩ riêng của mình. Kẻ đi đánh quỷ dương, người đi đánh cộng sản, kẻ đi đánh những người đã giết người thân của mình, kẻ thì đánh vì đạo, vì Thầy. Đám người hỗn độn ấy bị dồn ra phía trước. Họ tìm nhau, ra lệnh cho nhau, giành nhau một chỗ nấp, chửi nhau và thổi tù và.

- Có súng mà sao lại nằm ở phía sau hả? Đánh giặc cái con cặc gì vậy?

- Con ơi!

- Má ơi!

- Thằng nào muốn tử vì đạo thì lên trước đi.

- Thằng nào muốn về đất Phật thì cứ xung phong.

- Đ... mẹ cái bọn quỷ dương nó đốt nhà tao rồi.

- Mày có giỏi thì lên trước đi, tao còn một bầy con của tao.

- Đ... mẹ thằng nào nói đó? Thằng nào làm mất tinh thần bà con đó?

- Chém mẹ nó đi.

Bao nhiêu người, bao nhiêu tiếng chửi, bao nhiêu gương mặt khác nhau đều chờn vờn trong ánh đuốc. Họ quần nát cả một khu vườn. Lão Ịnh cầm đuốc len lỏi qua đám người đó, soi mặt từng người, nhìn mặt từng người để tìm Hiếu.

- Bà con có ai thấy thằng Hiếu nhà tôi không?

- Hiếu nào? Thằng Hiếu dạy võ hả?

- Thằng đó nó ở nhà ôm đít vợ rồi!

- Câm cái mồm! - Lão Ịnh quay ngọn đuốc lại phía người nói, hét lên - Tao chém thằng cha mày bây giờ.

- Ông Phó ơi! Ông giết người ta thì ông lên trước đi, đi tìm thằng Hiếu làm gì?

- Tao tìm mặc tao!

- Đâu trở về đó đi, bọn quỷ dương nó tới kia kìa.

Một tràng đại liên rít lên, kéo một đường nhì nhằng bay qua bên kia khu vườn. Họ xôn xao lên, giấu người vào chỗ nấp, rồi lại im.

Im lặng.

Cho đến lúc ấy, họ mới nghe được tiếng sóng của dòng sông, tiếng gió reo qua khu vườn, tiếng đuốc nổ lách tách, và những con thiêu thân lao vào lửa cháy lèo xèo. Trên nền trời, mây mỗi lúc mỗi dồn về, bóng tối mỗi lúc mỗi dày đặc. Tử thần như đang dừng lại trước mặt họ.

- Hỡi bà con bổn đạo tín đồ... ồ... ồ!

Tiếng loa của Quản Dõng từ phía sau vang tới. Tiếp theo có tiếng xì xào ở phía sau truyền đến, từ người này sang người khác:

- Nghe súng của ông Ba nổ thì xông lên.

- Nghe súng nổ phải xông lên.

- Thằng nào, con nào không xung phong thì bị đâm vô lưng.

- Tử vì đạo!

- Chết vì Thầy.

- Nó đốt nhà của mầy đó, xông lên mà lấy đầu nó.

Lão Ịnh nằm nấp dưới cây xoài to, chờ lệnh mà lòng vẫn nghĩ đến Hiếu.

Tiếng loa từ phía sau vẫn vang tới:

- Bọn quỷ dương Việt Minh cộng sản đang vật vờ trước mặt, chúng đã đem lửa đốt cháy cả xóm làng, đốt cháy trang thờ, đốt cháy cả trần điều, giết hại cả anh Dương Văn Chiến đệ tử. Hỡi bổn đạo của làng Mỹ Long Hưng, hãy đứng lên, hãy làm sáng danh cho đạo! Hỡi bổn đạo! Hỡi ai là người dám tử vì đạo, chết vì Thầy... - Cái tiếng loa ấy vang lên khắp khu vườn chung quanh họ, gió như dừng lại. Cây cối như đứng im. Tiếng loa vừa ấm vừa tha thiết như tiếng than và lời van đối với mọi người. Lời than van ấy đã khơi động lòng yêu đạo của họ. Họ nằm im, có người nín cả thở để lắng nghe.

Cái tin Thầy bị nạn - do Quản Dõng bịa ra - khiến cho lão Ịnh rưng rưng nước mắt. Hình ảnh của ngày đi gặp mặt Thầy chập chờn lên trong trí lão. Thầy đứng trên đài cao. Thầy mặc chiếc áo dài đen, người dong dỏng.. Dáng Thầy tha thướt và dịu dàng. Tóc Thầy xõa đến vai, mái tóc đen huyền. Thầy cúi nhìn “chúng sanh bá tánh”. Gương mặt của Thầy đẹp với vẻ từ bi. Đôi mắt của Thầy trong sáng mà xa xăm. “Bá tánh chúng sanh” bao chặt bốn bên lễ đài, đều quỳ mọp xuống.

- Hỡi thiện nam tín nữ! (Lúc ấy, Huỳnh Phú Sổ nói trước mi-cơ-rô nhưng lão Ịnh và hầu hết dân làng thì có biết cái mi-cơ-rô là cái gì. Trong làng, trong quận, ai muốn nói lớn tiếng thì phải cầm cái loa bằng thiếc) Tiếng của Thầy rền như tiếng sấm, vang ra đến tận bốn phương và nghe như từ cõi xa xôi nào đưa tối. Người trần thì làm gì nói được như vậy! Nghe như là tiếng thiên thần. Lúc ấy, lão mọp đầu nghe và tự nghĩ như vậy. Từ ấy đến nay, lão không gặp được Thầy nữa.

Nghe cái tiếng loa của Quản Dõng, giọng nói ấm áp và huyền bí của Thầy lại vẳng đến tai lão. Một nỗi xúc động kỳ lạ xâm chiếm tâm hồn lão. Tất cả những gì chung quanh lão như mờ đi và chập chờn như hư như thật. Tự dưng, lão muốn ngủ. Lão dựa đầu vào gốc cây, mơ màng và rưng rưng nước mắt. Lão thấy mình không phải là Tư Ịnh nữa, mình là một tín đồ, là đệ tử của Phật thầy!

Một loạn đại liên nổ lên, đêm tĩnh mịch như vỡ tan ra. Đạn rít ào ào. Lão giật mình, vùng dậy. Tất cả người chung quanh đều dấy lên, ào ào như một cơn dông.

- Tử vì đạo!

Người ta quơ đuốc, vung đao, vung kiếm, gào thét như sấm, chen lẫn với tiếng tù và, và tràn lên như một lượn sóng.

Lão Ịnh vung đao, chém bừa vào một cành cây, như một con mãnh hổ, lão xông lên hàng đầu.

Tiếng súng bên kia khu vườn lại nổ lên, đạn rít qua đầu họ. Có một số người thối ngược trở lại. Lão Ịnh thì như không nghe tiếng súng. Lão vừa thét “Tử vì đạo!” vừa xông lên. Có một người nắm lấy áo lão kéo lại lão cũng không biết. Lão tưởng áo mình bị vướng một cành cây, lão vừa đưa ngọn đao ra chặt, thì bên kia vườn cũng lại nổi lên tiếng loa:

- Hỡi bà con bổn đạo!

Lão Ịnh và mọi người đều sựng lại và ngớ ra. Tiếng loa bên kia khu vườn vẫn vang tới:

- Anh em bộ đội về đây không phải là để trả thù. Anh em bộ đội về đây để cùng với bà con bổn đạo đoàn kết đánh Tây cứu nước. Người Việt không đánh người Việt. Xin bà con hãy dẹp đao kiếm, trở về.

Những người đang lắng nghe, bỗng có một tiếng chửi:

- Đoàn kết cái con cặc đây nè! Tao chém đầu cha mày bây giờ.

Tiếng loa bên kia khu vườn vẫn vang tới:

- Tôi là Hiếu đây! Hiếu dạy võ của bà con đây! Tôi xin bà con hãy trở lại, hãy cùng với anh em bộ đội đánh Tây cứu nước...

Khối người đao kiếm liền xôn xao hẳn lên, họ kêu lên những tiếng kinh ngạc, lạ lùng và sợ sệt. Còn lão Ịnh thì ngơ ngác và không tin vào lỗ tai của mình.

- A! Thằng Hiếu!

- Thằng Hiếu!

- Thôi! Bỏ mẹ rồi.

- Lão Ịnh đâu?

- Thằng Hiếu, con của ông đó!

- Thằng phản đạo! Tiến lên đi!

- Chém lấy đầu nó.

- Mổ mật nó!

- Thằng nào mình đồng gan sắt thì lên đi. Nó chém một nhát ba cái đầu!

Cái khối đao kiếm dừng lại ở mí vườn, họ cứ nhao nhao lên và như rã rời ra từng nhóm từng người.

Còn lão Ịnh - lão đứng cạnh một cây xoài, tay cầm đao, mình trần, áo bịt qua đầu, - tiếng nói của Hiếu như kéo lão trở về với sự thực. Lão không còn là đệ tử của Thầy nữa. Lão là lão Ịnh. Lão là một người cha. Người cha có một đứa con, cuộc đời của lão chỉ còn có hai cha con. Và hiện giờ con của lão đang đứng ở phía bên kia vườn. Hai cha con, hai trận tuyến khác nhau. Lão bủn rủn cả tay chân. Lão muốn xông lên, chém lấy nó. Lão muốn đưa tay kéo nó trở về. Cả hai thứ tình cảm ấy giằng xé trong người lão. Và chung quanh người ta đang nguyền rủa lão.

Trong lúc ấy, tiếng loa của Quản Dõng cứ gào lên như muốn át lấy tiếng loa của Hiếu.

- Tiến lên!

- Tử vì đạo!

Người ta cũng gào theo, nhưng những tiếng hô đã rời rạc, chỗ này, chỗ nọ và người ta chỉ hô mà không tiến.

Hô xong, họ lại kêu nhau, tìm nhau, chửi nhau, người đòi về, người la hét bảo phải đứng lại.

Tiếng súng ở phía sau lại bắt đầu nổ. Mọi người liền nằm rạp xuống. Tiếng súng nổ như điên, như loạn.

Khu vườn phía bên kia vẫn im lặng, không bắn trả lại một phát nào và tiếng loa cũng đã im.

Những tay súng của Ba Kềnh Càng bắt đầu xông lên, và cái khối người đao kiếm được dồn lại phía sau.

Ba Kềnh Càng tổ chức thêm một đợt tấn công.

Cây đại liên đặt cạnh bên cây xoài khạc qua bên kia khu vườn một tràng dài. Khu vườn bên kia vẫn im. Những tay súng bắt đầu bò lên. Số người đao kiếm thấy những tay súng tiến trước, họ bắt đầu yên, bắt đầu củng cố lại tinh thần, họ lò mò theo sau.

Một tràng đại liên lại khạc qua bên kia khu vườn một tràng dài nữa, tiếng súng nổ dài nghe như đứt hơi. Tiếng súng dứt, Ba Kềnh Càng vung kiếm hét vang:

- Tiến lên!

Những tay súng liền chồm tới. Khối người đao kiếm liền dấy lên.

Lão Ịnh sợ mọi người, xấu hổ với mọi người và sợ nhìn cái chết của con, lão nép vào bóng tối, lưng còng xuống như muốn thu người lại, lão vừa nhìn dáo dác, vừa bước từng bước trở về.

Những tay súng của Ba Kềnh Càng và khối người đao kiếm vừa xông đến khu vườn, thì khu vườn chỉ toàn là cây và những cái hầm không.

Tiểu đội của Phát và Hiếu đã đuổi theo đơn vị. Đơn vị của Bảy Thâm, tốp đi xuồng, tốp đi trên bờ kinh, đang đi vòng theo con kinh chảy qua đồng. Đơn vị của Bảy Thâm đang rút về xóm du kích thuộc xóm nhà thờ công giáo. Ở đó, ngày mai, họ sẽ chặn đường về của Ba Kềnh Càng. Cho đến lúc ấy, tiếng súng của đồn Tây làng Mỹ Long Hưng mới bắt đầu bắn ra. Bảy Thâm đi cạnh bên đơn vị, anh mở cúc áo cho mát lồng ngực, nhìn đồn Tây và nghe tiếng súng. Đúng là tiếng súng của cái thằng quan hai Tây. Không ai chạm tới nó, tiếng súng của nó nghe thật bình tĩnh. Nó cố ý bắn theo một điệu nhạc, nếu tiếng súng ấy chỉ nổ, mà không chết người, thì nghe thật sướng tai. Tiếng đầu nó cho bắn một viên đạn đum đum “bóc bùm”, tiếp theo là một tràng trung liên, mỗi chùm ba tiếng: “Bùm, bùm, bùm. Bùm, bùm, bùm” rồi lại “bóc bùm”, rồi tiếp theo là một tràng “hốt kít” tiếng nổ nghe ấm như gõ thùng, và kéo một tràng dài, rồi nó đệm lên một tiếng “mót chê” “phụp... ầm...”. Rồi nó bắt đầu bắn lại “bóc bùm”. Bảy Thâm nhìn những đường lửa nhằng nhịt trong đêm tối, anh nghiến răng chửi thầm: “Không có cái bọn Hòa Hảo thì cha mày cũng chết! Rồi mày sẽ biết tay tao, xem mày có bắn điên lên không cho biết”. Bảy Thâm dừng lại, nhìn đoàn quân của mình vẫn còn nguyên, lại cướp thêm được một số súng, anh thấy hãnh diện và khoan khoái với cái tài chỉ huy của mình.

Cùng lúc ấy, trong khu vườn, khối người đao kiếm bắt đầu nổi đuốc, họ quơ đuốc lùng khắp cả khu vườn. Xem như là đi tìm địch, nhưng thật ra thì họ đang tìm đồ vật của “Việt Minh” xem có cái gì còn rơi lại sau khi đã rút lui. Họ tự thấy mình đã chiến thắng. Họ đi tìm nhau, kêu nhau, gọi nhau và một vài người bắt đầu cất tiếng hát:

Lệnh vua hành quân trống kêu dồn

Quan với quân lên đường...

Lão Ịnh thẫn thờ đi qua những ngôi nhà bị cháy, tiếng hát ấy vẳng đến, mang đến cho lão một nỗi buồn hiu quạnh.

*

Mặt trận đã tàn, ai về nhà nấy, việc ai nấy lo. Nhà ai mất người thì đốt đuốc chia nhau đi tìm. Nhà ai bị cháy thì xúm lại dập lửa, lượm lặt, gom góp những gì còn có thể dùng được: cái chén, cái nồi, hủ mắm, cái lu... Bảo an lại đi gác.

Nhà Quản Dõng lại thắp đèn “măng sông”, kẻ lên người xuống, yến tiệc bày ra. Ban trị sự, ban chỉ huy của Ba Kềnh Càng lại bắt đầu “hội nghị” chung quanh những bàn thức ăn, lại uống rượu, lại bàn thêm những âm mưu mới. Lính của Ba Kềnh Càng chia ra ở các nhà dân, họ bắt đầu nói chuyện với người trong gia đình, và liếc nhìn những cô nữ tín đồ.

Họ bắt đầu nghe lại tiếng sóng muôn thuở của dòng sông, và nhìn trời, đoán có mưa không và dự tính những chuyện làm ăn trong mùa mưa. Cuộc sống bình thường đã bắt đầu trở lại với những gia đình còn nguyên vẹn.

Suốt một ngày nay, mây đen cứ vần vũ mà không mưa được. Trời thấp xuống, đen sì như một cái lồng chảo úp xuống làng. Một vài tiếng sấm rền rĩ ở xa xa. Gió liu riu thổi qua hàng dương, hơi gió ẩm lạnh, cuốn theo tro bụi và tàn than của những ngôi nhà bị cháy rào rào qua các khu vườn.

Những gia đình có người bị thương, bị chết, lác đác ở đầu xóm cuối xóm, họ bắt đầu khóc lóc, kể lể, nguyền rủa, chạy đi tìm đuốc, chạy đi tìm ván đóng hòm. Đèn đuốc lại nổi lên, tiếng búa đóng hòm lại vang đi.

Lão Ịnh đi ngang qua một ngôi nhà bị cháy, khói hãy còn ngui ngút, người đàn bà đang lom khom bới tro nhặt những cái chén, thấy lão, người đàn bà ấy liền kêu lên:

- Này ông trị sự. Ông là trị sự sao ông để cho con ông đi đón quỷ dương về đốt nhà của tôi, hả? Ông giỏi giết người sao ông không giỏi ra chận người ta lại, ông để người ta đốt cái nhà của tôi. Ông có thấy đàn con của tôi không? Đêm nay rồi nó ngủ đâu, ăn đâu, hở ông Phó? Tôi cho ông biết, ngày mai tôi sẽ dẫn cả đàn con tôi đến ở nhà ông đấy. Còn ông, thì ông về đất Phật mà ở.

Người đàn bà ấy xói xỉa lão với giọng vừa đau đớn, căm giận, chua xót lẫn mỉa mai, và đầm đìa trong nước mắt. Và không chỉ riêng người đàn bà ấy, người nào đang bị thiệt, hễ gặp ông là họ kêu tên ông, chửi mắng và mỉa mai đủ lời.

Lão mất hết cái tính nóng nảy của mình. Lão đau khổ đến đờ đẫn cả người. Ai chửi mặc ai, ai kêu đến, lão cũng mặc họ. Lão cứ đi, đầu cúi gầm, lưng còng xuống, áo bịt qua đầu, tóc xõa dài xuống cái lưng trần. Lão muốn tránh mọi người, nhưng lão cứ đi ở giữa đường, đi qua những ngôi nhà bị cháy.

Đến một đoạn đường vắng gần đình, lão gặp ông Năm Bầu đi ngược lại. Trong bóng tối, hai người vẫn nhận ra nhau.

- Anh Năm đó hả?

Ông Năm Bầu dừng lại trước mặt lão:

- Anh Năm ơi! - Lão kêu lên như tuôn ra những tiếng than. Tay lão run và giọng lão cũng run run - Thằng Hiếu! Thằng Hiếu của tôi nó đã đi rồi!

Lão muốn khóc, muốn ôm chầm lấy người bạn già, muốn được nghe lời an ủi. Nhưng ông Năm Bầu lại “hừm” lên một tiếng:

- Tôi đã nói với anh mà - Giọng của ông đay nghiến. Đau đớn và căm giận bị đè nén từ nãy giờ và hằng bao nhiêu lâu nữa, như có dịp, ông liền trút vào lão Ịnh. -Anh đã bằng lòng chưa anh Tư? Tôi nói với anh mà anh không nghe tôi! Anh đã thấy cái gì chưa? Tại sao anh lại đi giết Sáu Sỏi, đi giết một người cộng sản, hả?

Ông hỏi gằn, nghiến răng, mắt mỏ tròn và nảy lửa, hai tay run lên và giọng ông cũng run lên:

- Hỏi vậy, làng Mỹ Long Hưng nầy đã nhờ ai mà đã làm nên bao nhiêu chuyện. Hồi thời bí mật, ai là người đánh Tây bị tù đày, ai là người “cầm binh” đánh Tây giành được ngày độc lập? Hiển vinh biết bao nhiêu! Anh còn chưa muốn hay sao? Rồi thằng Tây trở lại, biết bao nhiêu là kẻ mất người còn, hỏi vậy ai là người kháng chiến đánh Tây cứu nước? Hỏi vậy tại sao lại bắt giết người kháng chiến, hả? Anh Tư, tại sao lại đi đầu Tây? Từ ngày những người trong ban trị sự các anh lên cầm quyền, hỏi vậy, các anh đã làm nên được một cái gì? Bao nhiêu là người chết, bao nhiêu là nhà cháy? Tôi cũng tưởng khi các anh đánh đuổi được Việt Minh, cộng sản ra khỏi làng, thì cái làng này là thiên đường, là đất Phật, nhưng lại hóa ra là địa ngục.

Càng nói, càng xúc động, giọng ông càng sôi nổi, càng căm giận:

- Rồi hôm nay nữa, chỉ có nửa ngày với nửa đêm thôi, khi anh đã giết chết chú Sáu Sỏi, giết chết ông chủ nhiệm, giết chết một người cộng sản, thì cái làng Mỹ Long Hưng này xảy ra chuyện gì? Anh đi mà nhìn lại cái làng này, bao nhiêu nhà cháy, bao nhiêu người bị thương, bao nhiêu người chết? Còn anh? Anh nói: giết hết bọn cộng sản quỷ dương thì được lên đất Phật, sao anh không đi lên đất Phật đi? Sao lại còn đứng ở đây? Để làm gì, hả? Hỏi anh, trong ngày nay, anh đã được cái gì? Anh mất một người bạn, anh mất một đứa con. Còn tôi? Thằng Hiếu chưa phải là chồng của con Lành, nhưng tôi vẫn coi nó như con. Tôi mất một thằng rể, con tôi mất thằng chồng, nhà tôi mất một đứa con. Thằng Phát đã mồ côi mẹ, bây giờ tại anh mà nó bị mất cha. Quản Dõng nó muốn tranh quyền đạt lợi, nó gây thù gây oán, anh theo nó để làm gì? Anh vào sống ra chết để làm gì? Anh nói cho tôi nghe coi! Có phải anh là một con thiêu thân hay không?

Ông Năm Bầu nói mà không nhìn lão Ịnh.

Càng nói, ông càng nhớ đến những chuyện đã xảy ra. Đau đớn và căm giận trào nghẹn lên cổ ông. Hai tay ông nắm chặt, run run và hai hàm răng nghiến chặt như cố ghìm người lại. Ông cau mày nhìn sâu vào đêm tối. Hàng cây bên kia bờ sông đã tan trong bóng tối. Dòng sông lấp loáng những ngọn sóng bạc đầu và ào ào. Gió vẫn dồn mây đen kéo về. Một vài tiếng sấm rền lên. Một tia chớp rạch nứt đêm tối. Cảnh vật chớp hiện lên, rồi tắt ngấm.

Lão Ịnh đứng trơ ra như đá. Những lời đay nghiến của ông Năm Bầu, lão nghe đau như bị rứt ra từng miếng thịt. Đầu óc lão như không còn chỗ để mà nghĩ suy nữa, đầu óc của lão như đã cứng đặc lại. Và lão đã kiệt sức rồi. - Cái đói cũng đang cồn cào lão - Lão không còn sức mà giận nữa. Lão chỉ muốn thấy lại mặt con thôi, lão chỉ muốn nghe những lời an ủi thôi. Lão khe khẽ lắc đầu, nói như hơi gió:

- Thôi, anh Năm, đừng nói nữa!

- Hừ, đừng nói à? - ông Năm Bầu vẫn tiếp với những ý nghĩ của mình - Ngày mai, ngày kia, rồi sẽ ra làm sao đây? Tôi còn được cái gì. Tôi còn một cái nhà như một cái tum. Tôi còn một đứa con gái, tôi sẽ còn bị mất cái gì nữa đây?

Câu nói ấy như mang một tai nạn không rõ ràng đe dọa lại ông, ông bỗng nổi giận, ông nhìn thẳng vào lão Ịnh và giọng ông cất cao lên:

- Anh muốn làm gì tôi thì làm! Còn tôi, tôi cho anh biết trước, tôi sẽ đi rước những người cộng sản trở về.

Như sét đánh qua tai, lão Ịnh nghe lạnh và rùng mình.

Trời có sét đánh thật. Một tiếng nổ nghe như tức tối, một tia chớp kéo lằng nhằng, tiếng sấm rền ra những nơi xa. Trời bắt đầu mưa. Và mưa gió là chuyện của trời. Mưa gió ở đây từ trước đến nay, nó không chiều theo lòng người. Mỗi năm, bắt đầu tháng tư, tháng năm, tháng sáu thì mưa lại đến. Mưa cứ ròng rã ngày này qua ngày khác. Mưa cho nước từ trên nguồn đổ xuống, mưa cho nước đổi màu, nước mang theo phù sa ngầu đục, mang theo từng ề củi riều cuồn cuộn trôi qua làng. Mưa đầy ngập cả dòng sông. Mưa cho dòng sông dâng lên, tràn ngập cả đường sá, tràn ngập cả ruộng đồng. Và nước sẽ mang cá về cho các ao đầm. Nước tắm mát cho cánh đồng. Nhưng năm nay, dòng sông nào có biết là cánh đồng đang bỏ hoang. Nó mang nước về cho ai, nó nào có biết. Đó là chuyện của con người. Con người chưa làm chủ được nó!

Sau những ngày nắng gắt và chói chang, mặt nước trên sông, mặt nước các hồ ao và các con mương đã bốc hơi, chuyển thành những đám mây, khi những đám mây trắng đã chuyển thành đen như khói đèn, và khi đã ứ đầy cả bầu trời, có những tia chớp thì mưa đổ xuống.

Mưa mỗi lúc mỗi nặng hạt. Mưa dập tắt những ngôi nhà còn đang cháy. Mưa thấm lạnh những nền nhà nóng bỏng. Mưa tắm mát cho những khu vườn và cỏ cây. Mưa lạnh những con người không nhà.

Mưa mù mịt và dầm dề...

15-4-1963

HẾT