← Quay lại trang sách

Chương Hai Saigon trong cơn thử thách

Sống chết cũng phải đi. Có Chúa che chở.

Ông trùm họ Đạo làng Giang Xá ở cách Hà Nội chục cây số, có họ gần với gia đình Bình, đã đưa cả bố mẹ, họ hàng, con cái di cư vào Nam lập cuộc sống mới. Là nông dân ngoan đạo sống quanh quẩn ở xóm làng, chưa từng thấy cảnh đấu tố địa chủ, những người này vẫn quyết tâm ra đi chỉ vì sợ Cộng sản.

Các vùng Gò Vấp, HốNai ở gần Saigon là nơi đặt chân đầu tiên của các đoàn di cư công giáo từ miền Bắc vào. Thật khó tưởng tượng cho người dân di cư lần đầu được đặt chân lên vùng đất trù phú, khí hậu hiền hòa, cuộc sống của đồng bào địa phương khá sung túc vì thiên nhiên ưu đãi.

Cũng nhờ công ơn các chúa Nguyễn đã mở mang bờ cõi đến tận đất mũi Cà Mâu vào đầu thế kỷ thứ 18 (1708), mà dân Việt mới có thêm đất dung thân, ngày nay con cháu mới có nơi lánh nạn Cộng sản. Công cuộc nam tiến của tiền nhân đã đem lại sự phồn vinh và làm giầu thêm nền văn hóa của người Việt ở phương Nam.

Đất nước ta đã phải mang một vết thương lịch sử từ ngày 20 tháng 7 năm 1954, ngày mà con sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị được ghi vào bản hiệp định Genève là giới tuyến thực địa tạm thời chia cắt hai miền Nam, Bắc. Trước đó hơn ba trăm năm đã có cuộc phân tranh Trịnh-Nguyễn (1600-1786), gây bao tang tóc cho nhân dân hai miền. Sông Gianh ở Quảng Bình đã là giới tuyến phân chia Đàng Trong, Đàng Ngoài. Biên cương Nước Đại Việt khi ấy mới chỉ tới tỉnh Bình Định.

Cuộc nội chiến Trịnh-Nguyễn ở thế kỷ thứ 17 mang tính tranh chấp giữa hai phe phong kiến, không có chủ nghĩa ngoại lai can thiệp. (1) Còn cuộc tranh chấp ở Việt Nam giữa thế kỷ thứ 20 lại mang ý thức hệ rõ rệt: Miền Bắc theo chủ nghĩa Marx, chủ trương thôn tính miền Nam tự do với sự hỗ trợ đắc lực của Liên Xô, Trung Cộng.

Lúc này cảng Hải Phòng có 300 ngày để dân chúng miền Bắc, kể cả binh lính và gia đình họ tập trung vào Nam trên những tầu chở quân của Pháp và Hoa Kỳ. Đặc biệt người theo đạo Công giáo ở các tỉnh miền Bắc đã ra đi rất đông. Họ vượt biển trên những chiếc thuyền đánh cá nhỏ bé, những chiếc bè nứa mỏng manh tựa chiếc lá tre, bỏ lại phía sau tài sản, mảnh đất thiêng liêng, mồ mả ông cha để tự cứu lấy mình. Họ đã coi thường mọi hiểm nguy, nén nỗi đau thương với ý chí quyết tâm tìm về sinh lộ ở miền Nam tự do.

Thật là hoành tráng và dũng cảm cho một cuộc di cư vĩ đại từ Bắc vào Nam. Theo dõi tin tức trên báo, trên đài, Bình thấy không có thứ văn chương nào, ống kính nào có thể ghi hết thảm cảnh đã diễn ra trong cuộc hành trình lịch sử của người dân miền Bắc chạy trốn Cộng sản.

Sau khi được Quốc trưởng Bảo Đại ở Pháp cử lãnh chức Thủ tướng thay cho ông Bửu Lộc, ông Ngô Đình Diệm đã từ Pháp về nước ngày 25 tháng 6, 1954 sau gần bốn năm sống bôn ba tại Hoa Kỳ. Ngày song thất 7 tháng 7, 1954, ông Diệm chính thức làm Thủ tướng thì chỉ mười ba ngày sau ông đã phải đương đầu với thử thách mới: lo tiếp nhận và định cư khối lượng khổng lồ đồng bào miền Bắc di cư mỗi lúc một đông, dần dần lên tới con số 2 triệu người, một con số kỷ lục chưa từng thấy sau cuộc Đệ nhị Thế chiến 1939-1945.

Phủ Tổng ủy di cư đã được thành lập để thực hiện chương trình quy mô cứu trợ và định cư đồng bào miền Bắc. Các tỉnh miền Tây, miền Đông, và Tây nguyên đã đón nhận người di cư trong tinh thần tương thân, tương trợ, trái với những luận điệu tuyên truyền gây chia rẽ của Cộng sản trước lúc họ ra đi. Đó là cuộc bỏ phiếu Iớn lao nhất bằng chân của đồng bào miền Bắc chống chế độ Cộng sản độc tài.

Thành phố Saigon lúc này sinh hoạt nhộn nhịp, buôn bán tấp nập như một thành phố thời bình. Bộ hạ Bình Xuyên của Bẩy Viễn đóng vai trò cảnh sát khu Saigon-Chợ Lớn, thu về các khoản lợi tức lớn từ các sòng bài, tiệm hút và nhà chứa gái. Ngày cũng như đêm, sòng bài Đại Thế Giới, nhà chứa Bình Khang trong Chợ Lớn tấp nập người ra vào đánh bạc và mua vui, tạo bộ mặt ăn chơi đàng điếm lõa lồ cho một thành phố được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông.

Từ khi bỏ Việt Minh về hợp tác với Pháp, Bẩy Viễn càng lên chân với sự ưu ái của Quốc trưởng Bảo Đại. Hàng tháng y đưa tiền lên Đà Lạt để ngài tiêu dùng bên cạnh người đẹp Phi Yến, vũ nữ Mộng Điệp trong lúc xa Nam Phương Hoàng Hậu ở Huế. Chẳng bao lâu Bẩy Viễn được ngài thăng cấp thiếu tướng, thanh thế càng lên cao.

Nhưng dưới con mắt của Thủ tướng Diệm, sự hiện diện của Bình Xuyên ở Saigon là chướng tai gai mắt, sớm muộn phải có biện pháp giải quyết cùng một lúc với các giáo phái khác như Cao Đài ở Tây Ninh, Hòa Hảo ở Long Xuyên. Tốt hơn là ông cho họ sát nhập vào quân đội quốc gia để thống nhất thành một lực lượng chính quy, tránh tình trạng sứ quân cát cứ.

Khi Bình được đưa vào trường Sĩ quan trừ bị trên đồi Tăng Nhơn Phú, Thủ Đức, các sinh viên đến trước đã bắt đầu luyện tập theo từng binh chủng. Ở đây nắng chói chang, các sinh viên phải đồ mồ hôi trên bãi tập. Vài ngày sau, Bình và các sinh viên vừa đến được quân xa chở lên trường Sĩ quan hiện dịch Đà Lạt học.

Ở độ cao 1500 mét, Đà Lạt là thành phố đầy thông xanh, sớm chiều lẩn khuất trong sương mù trắng xóa như tranh thủy mặc. So với Sapa thuộc tỉnh Lào Cai cũng ở độ cao 1500 mét, có hoa đào, hoa mận nở vào mùa xuân, Đà Lạt có lợi thế ôn đới trồng được hoa quanh năm, còn gọi là Xứ hoa Anh đào đỏ rực khắp phố phường vào mỗi dịp Giáng sinh.

Ngày cuối tuần không phải trực gác, Bình thuê xe thổ mộ lên thác Cam Ly, nghe móng ngựa gõ đều đặn trên mặt đường chập chờn bóng mát mà lại cứ nghĩ Đà Lạt là thành phố thơ của riêng mình. Ở độ cao chênh vênh, ngọn thác thắng phau cứ ào ào đổ xuống thung lũng rồi biến vào rừng sâu. Gần đó có rừng Ái Ân với đồi thông hai mộ, nơi có lăng ông bà Nguyễn Hữu Hào, thân sinh bà Nam Phương Hoàng Hậu, vợ Vua Bảo Đại. Đà Lạt còn một thắng cảnh là trường trung học Yersin mang tên một bác sĩ người Pháp đã khám phá khu cao nguyên tuyệt đẹp này năm 1893.

Thời tiết ở Đà Lạt mát lạnh, ban đêm Bình phải đắp tấm chăn dạ nhà binh mầu cứt ngựa. Chiếc áo len của Hiền được mặc vào lúc này làm chàng ấm hẳn lên. Hình ảnh nàng đôi lúc đột hiện trong tâm trí chàng, gợi nhớ đến Hà Nội và một khu phố nhỏ đang phải trải qua những ngày đầu đầy sóng gió với Cộng sản từ ngoài vùng kháng chiến về tiếp quản.

Có tối đi hành quân dã chiến về ngả sau trường, chàng ghé vào căng tin của người lính Thượng Radé nghỉ chân.

Người lính Thượng da ngăm đen, mắt trắng bệch, miệng lắp bắp nói:

- Thiếu úy dùng rượu? Có Cognac.

Hắn tưởng chàng cũng thích uống rượu như quân nhân Pháp. Chàng lắc đầu bảo:

- Không. Cho tôi cà phê đen.

Lần đầu được thưởng thức cà phê nguyên chất từ Ban Mê Thuột đưa về Đà Lạt, chàng cảm thấy hương vị nồng nàn chạy ran trong cơ thể. Nó chẳng thua moka tí nào. Ngọn lửa hồng bên cạnh chàng xông lên mùi nhựa thông hăng hắc tựa mùi long não trên đường phố Hà Nội vào mùa hè. Đây là những hương vị đặc biệt của Tây nguyên đang cố sức quyến rũ một tâm hồn xa Hà Nội như chàng.

Nhờ ly cà phê nóng, chàng cảm thấy ấm bụng khi về phòng ngủ. Anh bạn thi sĩ nằm giường trên cất giọng Huế nhỏ nhẹ hỏi chàng:

- Mới về hỉ? Có thấy lạnh không?

Chàng ngó lên đáp:

- Không. Mình vừa uống cà phê xong. Bạn nhớ Huế hay sao mà chưa ngủ?

Anh bạn nói tiếp:

- Mình đang viết thơ cho gia đình.

- Thế mà tôi cứ tưởng anh làm thơ.

- Chừ còn thì giờ đâu mà nghĩ đến thơ. Lâu lâu mình mới làm cho vui.

- Tôi ước mong có ngày ra Huế ngắm sông Hương núi Ngự đó anh.

- Cũng dễ thôi. Ngoài nớ đẹp lắm.

Nghĩ đến thơ từ của gia đình bị gián đoạn, mà chàng cũng chẳng muốn viết bưu thiếp nhắn tin trong lúc này, chàng khẽ ngâm mấy câu thơ vừa nghĩ ra:

Mịt mù bể Bắc, trời Nam,

Nước non đôi ngả, âm thầm đợi nhau,

Sông Tương xưa đã muộn sầu,

Mà nay Bến Hải còn sầu hơn ai.

Những ngày đi hành quân thám sát địa hình, phải leo lên các đinh núi cao như Pôle Nord hay bước xuống triền đồi, thung lũng, vào tận các thôn lẻ tẻ của người Thượng ở trong rừng, Bình nhận thấy vùng Tây Nguyên có giá trị về chiến lược, kinh tế và nhân văn chưa được khai phá quy củ. Tài nguyên thiên nhiên rất phong phú, các sắc dân thiểu số thuộc ngôn ngữ Môn-Khơme còn sống dưới dạng du mục và bán khai. Khu vực này còn có tên là Hoàng triều cương thổ, coi như lãnh thổ riêng của Quốc trưởng Bảo Đại, nơi ngài thường tổ chức các cuộc đi săn thú rừng để tiêu khiển, có Ngự lâm quân và người Thượng đi theo để bảo vệ và hầu cận ngài.

Về mặt chiến lược. Tây nguyên đất rộng, người thưa, tiềm năng kinh tế mạnh, nên ông Diệm chú trọng phát triển về ba mặt dân sinh, kinh tế và quốc phòng. Ông đã đưa dân tị nạn lên các tỉnh cao nguyên định cư, khuyến khích họ trồng các cây có năng xuất cao như cao su, trà, cà phê. Ông cũng cho xúc tiến chương trình giáo dục, hướng dẫn đồng bào Thượng định cư, định canh để cải thiện cuộc sống du mục cố hữu của họ.

Quân đội Quốc gia hãy còn non trẻ, lại phải gánh vác nhiệm vụ an ninh trên khắp lãnh thổ miền Nam trong khi Việt Minh còn gài lại các đơn vị vũ trang nằm vùng thuộc Quân khu 5 cũ (Quảng Ngãi, Bình Định) và miền đông Nam Bộ (Gò Công, Bến Tre). Các tiểu đoàn Việt Nam mới từ Bắc vào đang được chấn chỉnh cùng các tiểu đoàn Bảo An ở Trung và Nam Việt. Trước 1954, Việt Minh có 6 đại đoàn ở Bắc Việt, chưa kể các đơn vị biệt lập ở trong Nam. Pháp đã phải dồn quá nửa lực lượng trong số 236.000 quân ở Đông Dương và các tiểu đoàn Việt Nam ra chiến trường miền Bắc mà không xoay chuyển được tình thế. Từ 1950, nhờ Liên Xô, Trung Cộng viện trợ vũ khí dồi dào, Việt Minh mới đủ sức mở mặt trận biên giới Cao-Bắc-Lạng. Tháng Ba 1954, bốn sư đoàn Việt Minh gồm các đại đoàn 308, 312,316,351 và trung đoàn 57 thuộc đại đoàn 304 đã giao chiến với lực lượng Pháp gồm 21 tiểu đoàn ở thung lũng Điện Biên Phủ. Bên cạnh bộ tham mưu của tướng Võ Nguyên Giáp có sự chi đạo của Cố vấn Trung Cộng,[2] Vi QuốC Thanh.

Ngày 7 tháng Năm 1954, sau 55 ngày đêm chiến đấu, trận Điện Biên Phủ đã kết thúc với sự đầu hàng của quân Pháp. Thiếu tướng De Castries và 10.000 quân của ông đã bị Việt Minh bắt làm tù binh.[3] Sau đó Pháp và Việt Minh ký hiệp định Genève chia đôi đất nước tại vĩ tuyến thứ 17.

Quân đội Quốc gia năm 1954 có 200.000 người do Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, một sĩ quan xuất thân từ quân đội Pháp chỉ huy. Ông Hinh nguyên là trung tá chánh võ phòng của Quốc trưởng Bảo Đại, có tư tưởng thân Pháp mà Thủ tướng Diệm lại không ưa Pháp.

So với người Anh, người Pháp kém thức tỉnh trong vấn đề trả độc lập cho các thuộc địa. Phong trào các nước nhược tiểu đòi độc lập đã bùng nổ ngay sau khi Thế chiến 2 kết thúc năm 1945. Tổ chức Liên Hiệp Quốc đã được thành lập, tạo cơ hội cho các nước hỗ trợ lẫn nhau và góp tiếng nói cho sự tôn trọng tự do và nhân quyền của toàn thể nhân loại. Người Anh đã trả độc lập cho Ấn Độ năm 1947, Hoà Lan (bây giờ gọi là Hà Lan) trả độc lập cho Nam Dương năm 1949. Vài nước Phi Châu cũng đã giành được độc lập trong các năm 1950. Riêng Pháp vẫn cố bám vào Đông Dương và chỉ rời Bắc Việt Nam cuối 1954, để Việt Minh Cộng sản quay lại thông trị nhân dân.

Thất trận ở miền Bắc, quân đội Pháp rút vào miền Nam với hy vọng gây lại ảnh hưởng trên chính trường thuộc địa cũ. Miền Nam còn tồn tại các lực lượng giáo phái võ trang Cao Đài, Hòa Hảo và tổ chức Bình Xuyên đã được Pháp cho thành lập từ năm 1941 theo chính sách chia để trị. Cao Đài có 20.000 quân tại Tây Ninh do Tướng Trịnh Minh Thế chỉ huy; Hòa Hảo có 15.000 quân ở Long Xuyên do Tướng Trần Văn Soái tức Năm Lửa chỉ huy và Bình Xuyên có 25.000 quân tại Saigon- Chợ Lớn thuộc quyền Tướng Lê Văn Viễn tức Bẩy Viễn.

Cuối năm 1940, Nhật đưa quân vào bán đảo Đông Dương trong lúc Pháp đang yếu thế. Quân Nhật đã trang bị vũ khí cho lực lượng Cao Đài. Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 14 tháng 8 - 1945, Pháp trở lại tái chiếm Saigon ngày 23 tháng Chín 1945, theo chân quân Anh có nhiệm vụ giải giới quân Nhật từ Đà Nẵng trở vào; từ Đà Nẵng trở ra do quân của Tưởng Giới Thạch phụ trách. Các lực lượng Cao Đài, Bình Xuyên đã từng hợp tác với Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Vụ Việt Minh giết hại ông Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ đạo Hòa Hảo ở Long Xuyên năm 1947 đã thức tỉnh các giáo phái; từ đó Cao Đài, Bình Xuyên và các phần tử quốc gia đã bất hợp tác với Việt Minh vì họ lộ chân tướng cộng sản.

Ngoài vấn đề lo định cư đồng bào di cư, ông Diệm phải lo đối phó với âm mưu của Pháp và các giáo phái định lật đổ ông. Tuy thất trận ở miền Bắc, người Pháp vẫn muốn bám vào các quyền lợi béo bổ ở miền Nam. Đại tướng Paul Ély, Cao ủy Pháp ở Saigon, không ưa ông Diệm, muốn Quốc trưởng Bảo Đại về nắm lại quyền binh hoặc cử một người thân Pháp thay thế ông Diệm, người đang được sự ủng hộ của Tổng thống Mỹ Eisenhower để ổn định miền Nam.

Tháng 9, 1954, Pháp bật đèn xanh cho tướng Hinh làm cuộc đảo chính ông Diệm, song âm mưu này đã bị cơ quan tình báo Mỹ CIA phát hiện từ trong trứng nước và Đại sứ Mỹ Donald Heath đã cho các giáo phái và Pháp biết là Mỹ sẽ cúp viện trợ cho Việt Nam nếu họ định đảo chính lật ông Diệm.

Âm mưu của tướng Hinh đã bị bại lộ; quân đội dưới quyền ông án binh bất động và các giáo phái cũng lơ là, thế là tướng Hinh đã phải bay qua Paris, trở lại phục vụ cho quân đội Pháp. Qua tháng 10- 1954, ông Diệm cử Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ giữ chức quyền Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia thay thế Tướng Hinh.

Riêng với các giáo phái, mặc dầu ông Diệm đã dành cho họ chức vụ trong nội các, như Quốc vụ khanh Trần Văn Soái (Năm Lửa); họ vẫn âm mưu chống lại ông vì lo ngại mất các quyền lợi và ảnh hưởng một khi ông Diệm sát nhập quân đội của họ vào Quân đội Quốc gia. Nhất là khi ông Diệm ra lệnh đóng cửa các sòng bài, tiệm hút, nhà điếm trong Chợ Lớn thì Bẩy Viễn tỏ thái độ chống ông Diệm ra mặt. Y đã liên kết với Cao Đài, Hòa Hảo thành lập Mặt trận Thống nhất Toàn lực Quốc gia rồi cùng phái đoàn giáo phái tới gặp ông Diệm tại dinh Độc Lập để yêu cầu ông từ chức, sau đó họ sẽ thành lập một chính phủ mới có các thành phần của họ tham gia. Tuy nhiên ông Diệm đã cương quyết bác bỏ yêu sách đoạt quyền ngang ngược này. Ông đã từng ấp ủ kiến tạo một quốc gia độc lập, dân chủ, đoàn kết toàn dân, lo cho dân hạnh phúc nên ông không thể để tình trạng sứ quân lộng hành. Nếu như nhượng bộ các giáo phái, Bẩy Viễn nắm được chức thủ tướng thì miền Nam sẽ rơi vào tình trạng tranh giành quyền lực liên miên, tan hoang nhanh chóng, tạo cơ hội thuận lợi cho Cộng sản nhuộm đỏ nốt phần đất tự do.

Tháng Mười Một 1954, Thủ tướng Diệm đã bổ nhiệm Thiếu tướng Lê Văn Tỵ làm Tổng Tham mưu trưởng thay Tướng Nguyễn Văn Vỹ được cử giữ chức Tổng thanh tra quân đội.

Nắm trong tay quân đội, ông Diệm không còn lo người Pháp gây chuyện, ông cũng muốn Pháp sớm rút khỏi miền Nam vì họ không còn vai trò gì ở đây. Bên cạnh ông Diệm có cố vấn Mỹ, Đại tá Edward Lansdale, người đã tích cực giúp ông trong bước đầu củng cố chính quyền. Phái bộ Cố vấn Mỹ đã bắt đầu huấn luyện và tổ chức các tiểu đoàn khinh quân thành 7 Sư đoàn dã chiến, đồng thời cải tiến Không quân và Hải quân.

Các khoản viện trợ kinh tế, quân sự đã được Mỹ trao thẳng cho chính phủ ông Diệm, không qua tay Pháp theo yêu cầu của họ. Điều này khiến Cao ủy Pháp ở Saigon thất vọng, nhưng họ không thể làm gì được vì chính quân viễn chinh Pháp vẫn phải ngửa tay nhận viện trợ Mỹ để nương náu. Pháp càng bị cô lập thêm trước ảnh hưởng lớn mạnh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Tình hình Saigon cuối năm 1954 tạm lắng dịu sau vài biến cố mà phần thắng đã thuộc về ông Diệm. Tuy vậy vẫn chưa hết những cơn sóng ngầm có thể quậy lên bất cứ lúc nào để thử thách bàn tay lèo lái con thuyền quốc gia của Thủ tướng Diệm. Bên cạnh ông có bào đệ Ngô Đình Nhu, một nhà trí thức thâm trầm, sắc sảo làm Cố vấn đắc lực cho ông. Ngoài ra ông Nhu là thủ lãnh Đảng Cần Lao Nhân Vị, gọi tắt là Đảng Cần Lao, nguyên là một tổ chức chính trị do ông Diệm sáng lập từ trước năm 1954.

Trường Đà Lạt lúc này đã được Pháp chuyển giao cho Trung tá Nguyễn Văn Chuân chỉ huy. Còn vài sĩ quan Pháp làm Đại đội trưởng, chờ bàn giao chức vụ cho các sĩ quan Việt. Giáo trình vẫn theo lối dạy quy ước của Pháp, không đề cập đến chiến tranh nhân dân của Mao Trạch Đông mà Việt Minh đã áp dụng triệt để trong chín năm kháng chiến, coi như phương pháp chính để lấy yếu thắng mạnh.

Thấm thoát đã sáu tháng qua. Đà Lạt đang bước vào mùa Giáng sinh. Hoa anh đào bắt đầu nở rộ trên đường phố trong cái lạnh căm căm làm cho má các cô gái tự nhiên ửng hồng không cần phấn son tô điểm. Bình bắt đầu cuộc hành quân lên đỉnh núi Lâm Viên đầy lau lách để kết thúc khóa học quân sự.

Buổi tối cuối cùng ở vũ đình trường, chàng đã trở thành một sĩ quan khi đeo cặp lon thiếu úy một vạch vàng thay cho cặp lon an pha bắt chéo trên vai. Hôm sau chàng được đưa về Thủ Đức làm lễ mãn khóa dưới quyền chủ tọa của Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Sau buổi lễ, ông Diệm trong bộ âu phục trắng đã đi đến các bàn ăn bắt tay từng sĩ quan thuộc khóa Vì Dân. Lần đầu tiên chàng được nắm tay ông; người đang cầm vận mệnh của đất nước trong cơn sóng gió. Cái bắt tay giản dị, đầm ấm, nét mặt cởi mở của ông đã gây cho chàng một ấn tượng trước khi chàng lên đường phụng sự lý tưởng chung: Chính nghĩa Quốc gia Dân tộc. Đó là động cơ đã kết hợp các thanh niên từ mọi miền đất nước đứng chung đội ngũ để bảo vệ độc lập và tự do của Tổ quốc.

Chú thích:

[1] Năm 1774, Trịnh Sâm cho quân vào chiếm Thuận Hóa và Quảng Nam, các Chúa Nguyễn phải chạy vào Gia Định rồi bị quân Tây Sơn của Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đánh đuổi. Sau đó Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt Trịnh (1786), phò Lê.

[2] Tổng Tập Hồi Ký của tướng Võ Nguyên Giáp, xuất bản năm 2006, tr. 600, 603, 919.

[3] Trong số này có Đại úy Phạm Văn Phú, sau là Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn 2, Vùng 2 Chiến thuật.