← Quay lại trang sách

Chương Ba Vượt cơn sóng gió

Bình có mặt ở Huế đầu năm 1955. Trời còn rét đậm, thỉnh thoảng có mưa phùn. Đang quen cái nắng chói chang của đất Saigon, ra đây gặp tiết đông hàn, chàng có cảm tưởng mình đang trở lại những ngày mưa bụi ở Hà Nội. Chỉ thiếu không khí quây quần trong gia đình và những nụ đào tươi mơn mởn buổi đầu xuân. Huế như trầm mình trong cổ tích và giữ vẻ đế đô nghiêm nghị.

Từ Huế, chàng ngồi xe jeep cùng một sĩ quan mới ra trường về Sịa trình diện Tiểu đoàn 31 BVN. Tiểu đoàn đóng trên dải đất cằn cỗi phía bắc phá Tam Giang, nơi biển Đông khoét sâu vào đất liền thành một vũng biển dài, xung quanh bờ nổi lên các xóm chài và cồn cát trắng xóa.

Thương em anh cũng muốn vô,

Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang.

Trong thời kỳ nội chiến Trịnh-Nguyễn ở thế kỷ thứ 17, việc đi lại giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong khó khăn vì chiến tranh và đường xá kém mở mang. Dân từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong (Thuận-Hóa) phải qua vùng đất hoang vu, cây cỏ rậm rạp (truông), trộm cướp hoành hành ở Quảng Trị, hoặc phải vượt qua gió to, sóng cả trong phá Tam Giang phía đông bắc Huế. Sau nhờ có các Chúa Nguyễn trị an và mở mang, nên có ca dao:

Phá Tam Giang ngày rày đã cạn (?),

Truông nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm.

Đất Phú Xuân ngày nay đẹp như tranh vẽ với sông Hương, núi Ngự, cảnh trí thơ mộng là nhờ ở lòng yêu nước tuyệt vời của Công chúa Huyền Trân đã đem về cho Tổ quốc ta từ 7 thế kỷ trước.

Hai châu Ô, Lý ngày xưa ấy,

Nhớ mãi Huyền Trân một bóng hồng.(NAL)

Theo lời hứa của Thượng hoàng Trần Nhân Tông, năm 1306 Vua Trần Anh Tông đã gả em gái là Công chúa Huyền Trân cho Vua Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý, sau đổi thành Thuận Hoá (Quảng Trị, Thừa Thiên). Biên giới Đại Việt lúc ấy đã mở rộng tới đèo Hải Vân. Năm sau Chế Mân mất, Vua Anh Tông cử sứ giả Trần Khắc Chung và tùy tùng vào Chiêm cứu Huyền Trân khỏi lên giàn hỏa với Chế Mân. Đã có các dị nghị quanh con thuyền vượt biển chở Khắc Chung và Huyền Trân kéo dài mấy tháng mới về tới Thăng Long. Có thể vì Huyền Trân có công lao lớn nên nhà vua đã bỏ qua chuyện này.

Người dân Trị Thiên còn nhớ đất Thuận Hoá trở nên trù phú, văn minh phát triển là nhờ công lao khai phá, di dân lập nghiệp của Chúa Nguyễn Hoàng. Năm 1558, ông được Vua Lê, Chúa Trịnh cử vào trấn thủ đất Thuận-Quảng (từ Quảng Bình đến Bình Định)[1]. Ông là con thứ hai của Nguyễn Kim, thuộc một gia đình vọng tộc ở Thanh Hoá. Sau này kinh đô nhà Nguyễn được đặt tại Phú Xuân (Huế), nơi trung tâm chính trị của cả nước.

Đất Phú Xuân còn là nơi xuất phát cuộc hành quân kỳ diệu và tốc thắng của Vua Quang Trung ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), ra đánh tan 20 vạn quân Thanh ở Thăng Long, khiến Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy, Vua Lê Chiêu Thống; kẻ rước voi về giày mồ, thái hậu và bộ hạ đã phải theo Nghị qua Tàu một cách nhục nhã.

Núi Bân[2] thuộc xã An Cựu ngày nay là nơi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lập đàn tế trời đất trước khi lên ngôi hoàng đế và xuất quân Bắc phạt. Chỉ bốn ngày, đại quân Quang Trung đã tới Nghệ An. Quân mệt thì hai người cáng một để giữ sức bền cho quân. Tới Nghệ An, Vua Quang Trung cho đại quân nghỉ mười ngày để tuyển thêm một vạn quân tinh nhuệ bổ sung cho quân Thuận Hóa, Quảng Nam. Quân số tới trên 10 vạn người và 100 voi trận. Ngày 12 tháng Chạp, Vua Quang Trung tới núi Tam Điệp. Ngày 30, vua mở tiệc khao quân, hẹn ngày mồng 7 tết Kỷ Dậu (1789) vào thành Thăng Long.

Sau đó 5 đạo quân thủy, bộ của Quang Trung tiến thẳng ra Thăng Long. Nửa đêm mồng Ba tháng Giêng, quân Quang Trung đến vây làng Hà Hồi, gọi loa ầm ĩ khiến quân Thanh hốt hoảng kéo nhau ra hàng. Mờ sáng ngày mồng Năm Tết, Quang Trung tới làng Ngọc Hồi. Binh sĩ đã dùng 60 tấm ván, làm thành 20 tấm mộc, mỗi tấm ghép 3 miếng ván, đắp rơm ướt ra ngoài. Cứ 10 lính khỏe đeo dao ngắn, vác tấm mộc tiến hàng ngang vào đồn, theo sau có 20 binh sĩ cầm vũ khí. Vua Quang Trung cỡi voi thúc phía sau. Quân Thanh bắn ra bị mộc cản, hoảng loạn đầu hàng. [3]

Cùng ngày Đô Đốc Long đem quân vây đánh trại Khương Thượng ở gò Đống Đa, viên Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Tôn Sĩ Nghị đang hân hoan mở tiệc tại thành Thăng Long, được quân Thanh ở Ngọc Hồi chạy về cấp báo các đồn đã bị quân Tây Sơn hạ, y bỏ cả ấn tín, không kịp mặc áo giáp, vội vàng lên ngựa chạy qua cầu phao bắc trên sông Hồng. Quân Thanh chen lấn rớt xuống sông. Cầu đứt, quân sĩ rơi đầy sông làm dòng nước bị nghẽn.[4]

Chiều mồng Năm Tết Kỷ Dậu (1789). Vua Quang Trung đã vào thành Thăng Long, giữa tiếng reo hò của dân chúng, trên chiến bào nhà vua còn khét mùi thuốc súng. Sau đó Vua Quang Trung sai người phi ngựa đem cành đào Nhật Tân vào thành Phú Xuân dâng Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân để báo tin mừng đại thắng.

Nhà Nguyễn với 9 chúa, 13 vua trải dài gần 4 thế kỷ, từ Chúa Nguyễn Hoàng (1558) đến Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30 tháng Tám 1945 sau khi Việt Minh cướp chính quyền. Đây là thời kỳ nước ta đã mở rộng xuống phía nam rồi bị Pháp xâm chiếm và đô hộ từ 1859 đến 1945. Hoàng thành Huế nay bỏ trống. Quốc trưởng Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu, [5] hai hoàng tử và ba công chúa đã qua Pháp ở. Đức Từ Cung, Đoan Huy Hoàng Thái Hậu, thân mẫu của Bảo Đại đã ra Cung An Định ở, sau đó bà mua nhà ở An Cựu.[6] Trong khi đó một ngôi nhà cổ xung quanh có vườn tược sum sê kế cận nhà thờ Phủ Cam, nơi thân mẫu ông Diệm và ông Ngô Đình Cẩn, em áp út ông Diệm cư ngụ, các quan chức văn võ ở Huế vẫn thường ra vào để nhận chỉ thị của ông Cẩn, Cố vấn của Thủ tướng Diệm ở miền Trung.

Dải đất miền Trung lọt giữa dãy Trường Sơn và biển Đông, vừa dài vừa hẹp, thiên tai lũ lụt thường xẩy ra gây nhiều thiệt hại cho dân chúng.

Năm 1955, chính quyền đã dẹp các hoạt động chống đối của nhóm Đại Việt ở chiến khu Ba Lòng, Quảng Trị và Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Quảng Nam nhằm tranh đấu quyền hành cho phe nhóm họ. Nhiều cán bộ Cộng sản nằm vùng đã lần lượt bị các cơ quan an ninh ta phát hiện.

Nhân dân ủng hộ ông Ngô Đình Diệm vì ông là một nhà chí sĩ yêu nước, quê Quảng Bình, sinh ngày 3 tháng Giêng 1901, thuộc gia đình danh gia vọng tộc. Thân phụ là cụ Ngô Đình Khả, Thượng thư triều Vua Thành Thái (1889-1907). Đã có câu ca dao ca ngợi chữ trung của hai vị thượng thư:

Đầy vua không Khả,

Đào mả không Bài.

Thượng thư Ngô Đình Khả đã không ký vào tờ biểu ép Vựa Thành Thái thoái vị do Pháp bầy ra vì nhà vua có tinh thần ái quốc mà Pháp nói vua bị rối loạn thần kinh, không lo nổi quốc sự! Còn Thượng thư Nguyễn Hữu Bài không chịu cho Pháp đào mả Vua Tự Đức làm mất quốc thể. Cả hai vị thượng thư có sĩ khí và tinh thần bất khuất.

Bào huynh là ông Ngô Đình Khôi, Tổng đốc Quảng Nam, đã bị Việt Minh sát hại cùng ông Phạm Quỳnh, Thượng thư Bộ Lại của Vua Bảo Đại sau ngày 19 tháng Tám 1945 tại Huế.

Bản thân ông Diệm đã từng là Tri Phủ Hải Lăng, Quảng Trị (1925), Tuần Vũ (Phan Thiết) và Thượng thư Bộ Lại của Vua Bảo Đại (1933), song chỉ bốn tháng sau ông từ chức vì đề nghị của ông thiết lập cơ quan lập pháp đã không được viên Khâm sứ Pháp tại Huế chấp thuận. Sau ngày 19 tháng Tám 1945, ông bị Việt Minh bắt tại Tuy Hoà [7] rồi đưa ra Tuyên Quang giam giữ. Tháng Hai năm 1946, Hồ Chí Minh ra lệnh thả ông; dịp này họ Hồ dụ ông tham gia chính phủ song ông không chịu. Các yếu tố nhân văn, lịch sử và sự nghiệp của dòng họ Ngô Đình cũng như của cá nhân ông Diệm đã tạo uy tín cho ông.

Về Sịa, Bình gặp ông tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Cầm, người Huế, lớn tuổi. Các đại đội trưởng còn trẻ, mang lon thiếu úy, phần đông được động viên từ miền Bắc. Có người mang theo vợ con ở chung với mình trong điều kiện thiếu tiện nghi. Tiểu đoàn không có doanh trại, các đại đội đóng tạm trong mấy túp lều tranh ngoài bãi trống, còn Bộ chỉ huy đóng trong một ngôi đền nhỏ của xã.

Khu vực tiểu đoàn kiểm soát tương đối an ninh, tuy màng lưới Cộng sản còn ém lại trong vùng. Ban 2 đã bắt được nữ cán bộ binh vận Cộng sản giả là vợ binh sĩ để dò la tin tức. Địch không thật tâm mong muốn hòa bình dù đã ký hiệp định Genève.

Bình được cử phụ trách Ban 5, lo công tác giáo dục tinh thần binh sĩ. Tiểu đoàn có cái máy quay tay in báo cho binh sĩ đọc. Ngoài môn bóng đá, binh sĩ không có gì để giải trí. Đa số các tiểu đoàn từ miền Bắc rút vào, còn đang trong giai đoạn chấn chỉnh và tái huấn luyện.

Ban ngày làm việc ở tiểu đoàn, buổi tối chàng về ngủ trong nhà của ông già nông dân. Tiền trọ đã không lấy, ông còn dành cho chàng cái phản ở gian trái để nằm chung với anh bạn sĩ quan. Tuy vậy hàng tháng chàng và anh bạn vẫn biếu ông già một món tiền tiêu. Nhà có hai cô con gái; cô lớn lấy chồng ngoài Quảng Trị, còn cô út bán hàng xén ở chợ Sịa gần nhà.

Thấy chàng và anh bạn sống xa gia đình, lại phải cơm hàng cháo chợ vì tiểu đoàn chưa có câu lạc bộ, ông già ái ngại bảo:

- Hai anh muốn ăn cơm nhà tôi bảo o nấu cho. Đi mô cho cực.

Bình nói thay cho anh bạn:

- Cảm ơn bác. Chúng cháu ăn uống thế nào cũng được, o còn bận bán hàng, chúng cháu không dám phiền ạ.

Ông già cười hóm hỉnh:

- Các anh hiền rứa. Mấy ông quan Tây lúc trước hách dịch, đi mô dân cũng sợ.

Bỗng một sáng chủ nhật, cô gái út nghỉ bán hàng, ở nhà loay hoay nấu cơm mời chàng. Anh bạn đã đổi đi đơn vị khác. Bữa cơm chỉ có chàng và nàng. Chàng pha giọng Huế hỏi:

- Bác đi mô?

Nàng vui vẻ đáp:

- Ba em đi ăn giỗ bên ngoại.

Nhìn vào mâm cơm, chàng khẽ hỏi:

- O làm món gì đây?

Nàng nhí nhảnh đáp:

- Dạ món Huế.

Giọng cô gái nhẹ nhàng và thánh thót, chàng có cảm tưởng như nghe một âm điệu trầm bổng trong bản nhạc êm dịu. Nàng vừa tiếp món ăn cho chàng, vừa kể:

- Món ni là con nuốc ăn với mắm tôm chua. Món nớ là canh sơ mít hái trong vườn nhà em.

Con nuốc trắng ăn vừa giòn vừa mát; mắm tôm chua ăn vừa cay vừa ngọt, còn canh mít vừa bùi vừa thơm, ngần ấy thứ ăn xen kẽ thành một hợp tuyển hương vị đặc biệt bình dân Huế.

Chàng vội khen:

- Ngon hỉ. Tôi chưa được ăn các món ni bao giờ. Cô gái tươi cười để lộ chiếc răng khểnh trông thật xinh.

- Ni là món dễ ăn, chưa phải là đặc sản Huế. Mai mốt em sẽ đãi anh món khác.

Cô gái chợt nhìn ra sân có đôi chim sẻ tìm mồi. Nhà nàng có bụi tre dày, chim về làm tổ kêu rối rít. Không hiểu nàng có xao động vì hình ảnh đôi chim sẻ quấn quýt bên nhau mà mắt nàng nhìn chàng thật sắc, cái nhìn như thấu lòng chàng một ý tình kín đáo.

Bất giác chàng liên tưởng đến hai câu thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

Ai biết tình ai có đậm đà?

Lúc chàng đã quen thuộc với con người và cảnh vật ở Sịa thì chàng lại được thuyên chuyển về Bộ chỉ huy Khu chiến Thừa Thiên. Thiếu tá Cầm cũng được chuyển về Saigon coi Lữ đoàn phòng vệ phủ Thủ tướng. Sau chàng có ghi lại tình cảm của cô gái Sịa trong bài thơ lưu niệm:

Đời lính phiêu bồng tận mãi đâu,

Rưng rưng đôi mắt biếc u sầu,

Tôi xa xứ Huế, lòng lưu luyến

Theo bước quân hành, một bóng yêu.

Chàng cảm thấy những ngày ở Bộ chỉ huy Khu chiến Thừa Thiên đỡ vất vả hơn ở dưới tiểu đoàn nhưng ở đơn vị vẫn vui hơn vì có lính tráng, bạn bè đông và có dịp di chuyển các nơi xa. Bộ chỉ huy đóng bên hữu ngạn sông Hương, do Trung tá Nguyễn Thế Như làm chỉ huy trưởng. Bộ chỉ huy đã khám phá một hầm chôn vũ khí của Việt Cộng ở Truồi; Khu chiến cho xe GMC chở về Huế chất đầy kho.

Ngày 28 tháng Tư 1955 là phiên trực của chàng tại Bộ chỉ huy. Máy truyền tin cho biết quân Bình Xuyên đã mở cuộc tấn công ở thủ đô Saigon. Bẩy Viễn đã ra lệnh cho thuộc hạ pháo kích vào dinh Độc Lập, nơi Thủ tướng Diệm làm việc. Trung tá Như sốt ruột bảo chàng:

- Anh nghe máy truyền tin xem Saigon động tĩnh ra sao?

Huế vẫn yên tĩnh. Trước đó vài tiểu đoàn đã di chuyển vào Nam để tăng cường về mặt an ninh.

Biết không thể mượn thế các giáo phái ép ông Diệm từ chức, Bẩy Viễn đã liều lĩnh tấn công Quân đội Quốc gia. Y ỷ quân đội Pháp giúp đỡ song Pháp chỉ giúp về mặt tình báo. Các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo không động tĩnh gì cả.

Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc gia gồm đại diện các chính đảng và nhân sĩ họp[8] tại dinh Độc lập ngày 29 tháng Tư 1955 theo lời mời của Thủ tướng Diệm, đã đòi truất phế Bảo Đại nhân vụ Bảo Đại đánh điện gọi ông Diệm qua Pháp, trao quyền lại cho Thiếu tướng Nguyễn Văn Vỹ. Trong cuộc đối đầu với Tướng Vỹ tại dinh Độc Lập tối 30 tháng Tư, có mặt Thủ tướng Diệm, Thiếu tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia và ông Hồ Hán Sơn, đại diện Việt Nam Phục Quốc Hội, ông Nhị Lang, đại diện Mặt trận Quốc gia Kháng chiến Việt Nam đã rút súng lục định bắn tướng Vỹ và nhờ ông Hồ Hán Sơn lột lon Tướng Vỹ, vì ông Vỹ đã theo lệnh Bảo Đại đem 2 tiểu đoàn Ngự lâm quân từ Đà Lạt về Saigon để tước quyền Tướng Tỵ và Thủ tướng Diệm. Nhờ sự can ngăn của ông Diệm, Tướng Vỹ cam kết không làm phản nên ông Nhị Lang đã trả lại lon cho Tướng Vỹ.

Tuy không qua Pháp theo bức điện của Bảo Đại, ông Diệm cũng đã cử em út là ông Ngô Đình Luyện qua Pháp trình bầy với Quốc trưởng những khó khăn mà ông Diệm phải đương đầu và biếu số tiền 700.000 đồng thuộc quỹ đen của Thủ tướng để ngài chi tiêu”[9]

Đại tá Dương Văn Minh được cử làm tư lệnh chiến dịch Hoàng Diệu đã dẹp tan cuộc phiến loạn của Bẩy Viễn ở Saigon, đẩy đám tàn quân Bình Xuyên chạy về Rừng Sát; còn Bẩy Viễn tìm đường trốn qua Pháp. Con trai Bẩy Viễn là Le Paul giấu kho tiền của Bẩy Viễn ở Rừng Sát, toàn tiền 500 đồng đựng trong các sac marin giấu trên cây. Số tiền này được Thiếu tá Trần Hữu Độ, Trung đoàn trưởng 12 thuộc Sư đoàn 7 Bộ binh tham gia chiến dịch phát hiện, sau đó Đại tá Dương Văn Minh tịch thu không rõ bao nhiêu triệu. Le Paul bị bắn chết trong lúc y chạy trốn”.[10]

Sau vụ dẹp Bình Xuyên, Phái bộ Cố vấn Viện trợ Quân sự Mỹ do Tướng John W. O’Daniel cầm đầu tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của ông Diệm trước những lời chỉ trích của Pháp trong vấn đề ông xử trí mạnh tay với các giáo phái.

Được tin Bình Xuyên bị tan rã, Giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc vội trốn qua Cam Bốt, lực lượng Cao Đài cũng bị quân đội quốc gia dẹp tan. Trong khi đó các tín đồ đạo Cao Đài khoảng hai triệu người, Hòa Hảo khoảng một triệu người vẫn tin tưởng vào chính sách tôn trọng tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm.

Thiếu tướng Trịnh Minh Thế thuộc giáo phái Cao Đài đã đem quân về quy thuận ông Diệm trước khi có vụ Bình Xuyên nổ súng. Ngày 3 tháng Năm 1955, trong lúc ông chỉ huy một cánh quân dẹp toán Bình Xuyên trên cầu Tân Thuận, Nhà Bè thì bị bắn hạ. Ông Diệm đã cho cử hành đám tang Tướng Thế một cách trọng thể.

Thủ lãnh quân đội Hòa Hảo gồm các tướng Trần Văn Soái tức Năm Lửa, Lê Quang Vinh tức Ba Cụt phải chạy qua Cam Bốt lánh nạn.

Nhận thấy Quốc trưởng Bảo Đại sống ở Pháp không còn tha thiết với xứ sở và theo quyết nghị của Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng ngày 29 tháng Tư 1955, ngày 23 tháng Mười 1955, ông Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý để dân chúng biểu quyết vai trò của Bảo Đại và bầu vị Tổng thống đầu tiên của nền Đệ nhất Cộng Hòa. Kết quả 98 % phiếu cử tri truất phế Bảo Đại [11] và bầu ông Diệm làm Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Quân đội đã tích cực tham gia cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm Bảo Đại và ủng hộ ông Diệm trong cương vị Tổng tư lệnh quân đội. Danh hiệu Quân đội Quốc gia sau đó được đổi thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

Trong cuộc bầu Tổng thống Diệm đã có lá phiếu của Bình. Chàng đã được đổi về Nha Chiến Tranh Tâm Lý ở Saigon trước ngày có cuộc trưng cầu dân ý. Lúc ấy dân chúng và quân đội mong muốn đất nước chuyển sang một thời kỳ mới ổn định về chính trị và kinh tế. Các cơ chế thuộc về dân chủ như Hiến pháp, Quốc hội và nền Tư pháp độc lập đã được Tổng thống Diệm thực hiện để củng cố thể chế Cộng hòa.

Trong năm 1955, quân đội mở chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại tá Dương Văn Đức làm tư lệnh để dẹp lực lượng võ trang Hòa Hảo tại Long Xuyên. Kết quả Đại tá Lâm Thành Nguyên dẫn một cánh quân Hòa Hảo ra hàng. Năm 1956, sau khi từ Cam Bốt trở về, Tướng Năm Lửa cùng bộ hạ đã ra đầu thú ông Diệm, riêng Tướng Ba Cụt bị binh sĩ của Thiếu tướng Dương Văn Minh bắt tại Thốt Nốt, Cần Thơ ngày 24 tháng Tư, 1956, trong chiến dịch Nguyễn Huệ. Sau đó Ba Cụt đã bị tòa án quân sự Cần Thơ kết án tử hình, mặc dầu ông đã được các luật sư Lê Ngọc Chấn, nguyên Bộ trưởng Phụ tá Quốc phòng cho Thủ tướng Diệm và luật sư Vương Quang Nhường bào chữa nhưng vẫn không thể cứu vớt được sinh mệnh của ông.

Trước đó, Đại sứ Mỹ, Tướng Lawton Collins không tin rằng ông Diệm có thể đoàn kết các lực lượng quốc gia, nhất là lôi cuốn các giáo phái hợp tác với chính phủ để đương đầu với hiểm họa Cộng sản. Nhưng sau khi ông Diệm thành công trong vấn đề giáo phái, thái độ của Đại sứ Collins đã thay đổi hẳn, cả Tổng thống Eisenhower cũng tin rằng chỉ có ông Diệm là có thể cứu vãn miền Nam Việt Nam nên cần được Mỹ ủng hộ về mọi mặt.

Ngày 28 tháng Tư 1956, Cao ủy Pháp ở Saigon được lệnh rút hết 200.000 quân ra khỏi miền Nam, chấm dứt vai trò bảo hộ và khai thác thuộc địa của Pháp tại Việt Nam trong ngót 90 năm.

Người Pháp ra đi khiến ông Diệm bớt ưu tư. Tuy xuất thân từ giới quan lại, ông vẫn có lập trường bài Phong, đả Thực và chống Cộng triệt để. Khi còn làm tri phủ Hải Lăng (1925), các phần tử Cộng sản đã bị ông nghiêm trị. Tháng Hai năm 1946, khi ông Diệm được thả từ Tuyên Quang, Hồ Chí Minh đã mời ông tham gia chính phủ để thu phục giới Công giáo song ông từ chối.

Với Pháp, ông cũng đã bất hợp tác khi ông từ chức Thượng thư Bộ Lại (1933). Năm 1950, Bảo Đại lập chính phủ thân Pháp, ông Diệm rời Saigon qua La Mã, rồi sang Mỹ cư trú tại tu viện Maryknoll, thành phố Lakewood, tiểu bang New Jersey. Đến tháng Sáu 1954, ông về nước nhận chức Thủ tướng theo yêu cầu của Bảo Đại.

Trước sau ông Diệm là một chí sĩ yêu nước, có chủ trương đoàn kết các đảng phái, tôn giáo để xây dựng quốc gia Việt Nam tự do và phú cường.

Chú thích:

[1] Triều Hổ (1400-1407) đã chiếm đến Quảng Nam, Quảng Ngãi

[2] Núi Bân còn đàn Viên Khâu do nhà Tây Sơn lập.

[3] Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ngô Văn Gia Phái, tr 440.

[4] Sử Thanh lại ghi Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh chặt cầu phao!

[5] Bà Nam Phương mất tại Pháp ngày 14/9/1963 ở tuổi 49.

[6] Đức Từ Cung mất ngày 10/11/1980 tại Huế.

[7] Ông Diệm định ra Huế khuyên Vua Bảo Đại bất hợp tác với Việt Minh. Ngày 30/8/1945, Bảo Đại tuyên bố thoái vị

[8] Theo Phong trào Kháng chiến Trịnh Minh Thế của ông Nhị Lang, ông Nguyễn Văn Minh thuật lại trên báo Saigon Nhỏ ngày 18/4/2008.

[9]Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm của cựu Đai tá Nguyễn Hữu Duệ, tr.31.

[10] Theo truyện Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm của cựu Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, tr. 223, 224, 225.

[11] Bảo Đại mất ngày 31/7/1997 tại Paris, hưởng thọ 84 tuổi.