Phụ Lục (tt) Đọc Nhật ký- Đặng Thùy Trâm
Trong các thời kỳ chiến tranh, có vài cô gái viết nhật ký ghi lại hoàn cảnh bức bách, gian nguy mà mình đã phải trải qua từng phút, từng giờ cùng những cảm nghĩ xót xa về thân phận con người, về gia đình và cộng đồng nhân loại mà họ đã từng gắn bó, chia sẻ, trước khi phải nhận những cái chết nghiệt ngã.
Tôi muốn nói đến hai cuốn nhật ký của Anne Frank và Rutka Laskier, trước khi nói đến cuốn nhật ký của Đặng Thùy Trâm [1].
Liên quan đến 6 triệu người Do Thái đã bị Đức quốc xã giết hại tại lò thiêu Auschwitz ở Ba Lan trong Thế chiến thứ II, nhiều người trên thế giới còn nhớ đến Nhật ký của Anne Frank, cô gái Do thái đã phải trốn trong nhà kho của gia đình ở Hòa Lan cùng với bốn học sinh Do Thái khác trong hai năm, từ 1942 đến 1944, trước khi bị mật vụ Đức bắt cùng gia đình đưa vào các trại tập trung ở Đức và Ba Lan, rồi lần hồi chết ở đó, trừ người cha của Anne được quân đội Liên Xô cứu sống khi tiến vào giải phóng Ba Lan. Tuy phải đương đầu với bao nỗi khổ đau, nhục nhã, Anne vẫn sáng suốt nhận định về kẻ hành hạ mình với tấm lòng tha thiết yêu thương nhân loại:
“Mặc dù thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn tin rằng con người thực sự tốt từ đáy lòng’’.
Tư tưởng của Anne đã đánh thức lương tâm nhân loại, đánh thức chính cái Tâm của những kẻ đang giết cô và gia đình cô! Tôi thấy Anne đã vượt lên trên mọi thù oán, bộc lộ bản chất thánh thiện và khoan dung của mình đối với Hitler; con người độc tài, tự tôn, khát máu, đã thi hành chính sách diệt chủng rất tàn bạo.
Tiếp theo lại có các lãnh tụ độc tài khác nối gót Hitler như: Mao Trạch Đông giết 70 triệu dân Trung Hoa; Stalin giết 20 triệu người Nga; Kim Nhật Thành giết 2 triệu người Bắc Triều Tiên; Polpot giết 2 triệu người Miên; Hồ Chí Minh giết 1 triệu người Việt trong các chiến dịch đấu tố địa chủ, thành phần quốc gia chống Cộng và xâm lược miền Nam; các lãnh tụ Đông Âu (CS) giết 1 triệu người. Ngoài ra còn có thêm các vụ thảm sát khác trên thế giới vì nạn độc tài.
Không phải ngẫu nhiên mà Đài tưởng niệm 100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa Cộng sản đã được dựng tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn ngày 12 tháng 6 năm 2007 để nhắc nhở nhân loại về thảm họa của Chủ nghĩa Cộng sản.
Cuốn Nhật ký của Rutka Laskier, cô gái Do Thái viết từ tháng Giêng đến tháng Tư 1943, cũng đã tự thuật về tuổi thơ trong trắng và những nỗi kinh hoàng cô đã trải qua ở khu lò thiêu Bedzin, Ba Lan, trước khi cô bị chuyển tới Auschwitz rồi chết ở đó một cách thảm thương. Cuốn nhật ký 60 trang này đã được bà chủ nhà Sapinska, nơi Rutka trú ngụ, cất giấu trong 60 năm qua, bây giờ thế giới mới được biết đến.
Trong nhật ký, Rutka viết: “ Niềm tin nhỏ bé của tôi từ bấy lâu nay đã hoàn toàn tan vỡ. Nếu Thượng đế tồn tại, chắc chắn Ngài sẽ không cho phép nhân loại bị quăng sống vào lò thiêu và những em bé bị báng súng đập nát sọ, hoặc bị bỏ vào những bao tải cho hơi độc giết chết.” Thật khủng khiếp! Rutka đã ghi lại tội ác của Đức quốc xã mà người đọc cũng phải rùng mình, ghê tởm!
Cả hai cô gái Do Thái đã để lại cho nhân loại hai tác phẩm kiệt xuất được viết bằng nước mắt, bằng cả sự can đảm đáng kính mà Thượng đế đã dành cho trái tim nhỏ bé của hai cô, đại diện cho hàng triệu con người cùng chung số phận ai oán.
Có người đem ví Nhật ký của Anne Frank với Nhật ký Đặng Thùy Trâm. Không! Một đằng nói lên tội ác diệt chủng của Đức quốc xã; một đằng biện minh cho đường lối xâm lược Miền Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam để thống trị đất nước.
Trong cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm, một nữ bác sĩ trẻ Hà Nội đã tình nguyện vào chiến trường Đức Phổ, Quãng Ngãi để phục vụ thương bệnh binh Việt Cộng trong năm năm, trước khi bị một trung đội của Sư đoàn 21 Bộ binh Mỹ phục kích ngày 22/6/1970, tôi thấy có nhiều vấn đề cần suy tư vì nó liên quan đến cuộc chiến của đôi bên, một cuộc chiến ý thức hệ tuy không còn khói súng mà vẫn tiếp tục trong tư duy của mỗi người Việt Nam ở quốc nội và hải ngoại.
Trong túi vải bạt đeo trên thi thể của cô có hai quyển nhật ký và vài cuốn sách vở do Frederic Whitehurst, một sĩ quan quân báo thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh Mỹ tham chiến tại Đức Phổ lưu giữ suốt 35 năm, đến ngày 30/4/2005 thì được đương sự đem về Hà Nội trả cho gia đình cô Đặng Thùy Trâm bản copy trên CD, bản viết tay hiện vẫn giữ tại Viện lưu trữ Lubbock, Texas.
Phần chính cuốn Nhật ký gồm hai quyển vở viết nắn nót, in thành sách dày 256 trang (không kể một số hình ảnh, các bài tựa và bạt in kèm). Nhật ký được khởi viết từ ngày 8/4/1968, đến ngày 20/6/1970 thì chấm dứt. Hai ngày sau, ngày 22/6/ 70, cô Đặng Thùy Trâm bị bắn chết chỉ cách bệnh xá 50 mét, trên xác cô còn khẩu CKC vừa bắn lại về phía lính Mỹ. [2] Theo hình in trên sách thì cô là một phụ nữ nhỏ nhắn, lúc mất mới trên 27 tuổi. Sách do nhà xuất bản của Hội Nhà Văn ấn hành năm 2007.
Trong hàng ngũ cán binh Cộng sản có nhiều người viết sổ tay, nhật ký, đã bị các đơn vị Quân đội VNCH và Đồng Minh tịch thu; đa số họ là các thanh niên, học sinh có các mối tình dang dở trước khi bị Cộng sản đưa vào B, tức chiến trường miền Nam. Cô Đặng Thùy Trâm cũng có người yêu tên M. là bộ đội miền Bắc xâm nhập Quảng Ngãi tám năm trước (tr.214), nên cô đã tình nguyện vào để gặp lại người yêu, nhưng khi gặp nhau ở Đức Phổ, hai người không hề gắn bó với nhau. Cô thú nhận: “Hạnh phúc trong tình yêu đã không đến với mình” (tr. 106). Thất vọng và cô đơn, cô lao vào công việc điều trị thương binh VC và thường dân ở một bệnh xá giấu trong rừng.
Tĩnh Quảng Ngãi trước đây thuộc Quân đoàn 1 Vùng 1 chiến thuật, do Sư đoàn 2 Bộ binh VNCH phụ trách an ninh lãnh thổ. Năm 1970, có thêm Sư đoàn 21 Bộ binh Hoa kỳ hành quân tiễu trừ Cộng quân.
Trong Nhật ký gọi Việt Cộng là Cánh Nam và quân chính quy Bắc Việt (xâm nhập theo đường mòn Hồ Chí Minh dọc dãy Trường sơn ) là Cánh Bắc. CSBV cũng đã lén chuyển vũ khí vào Quảng Ngãi bằng tàu ngụy trang đánh cá từ Bắc vào gọi là “ đường mòn trên biển Đông.” Các cuộc giao tranh thường xảy ra giữa ta và địch ở các khu vực mất an ninh trong tỉnh [3].
Nội dung Nhật ký xoáy vào các đề tài sau đây:
1.Bệnh xá ở trong rừng, thiếu người, thiếu thuốc men. Cả bệnh xá chỉ có bốn phụ nữ và một nam phụ trách chữa trị các thương bệnh binh ở tuyến đầu đưa về. “8. 4. 68. Mổ mật cas ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn. Thuốc giảm đau chỉ có vài ống Novocaine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la một tiếng ”(tr.33)
Nhân viên chết dần chết mòn mỗi khi có trận càn, hoặc bom rơi đạn nổ ngay trên đầu họ.
Bệnh xá luôn phải di chuyển, có khi chưa dựng xong ở một nơi lại phải dời đi chỗ khác vì bị ta phát hiện. Trong ba tháng, bốn lần bệnh xá bị đánh phá. Ngày 2/6/70, một loạt bom đã rơi đúng một phòng bệnh nhân, giết chết một lúc 5 người “Một tai nạn bất ngờ nhưng cũng rất bình thường trongc trong chiến tranh.’’ (tr.246)
Bác sĩ, nhân viên thường phải chui xuống hầm ngập nước mỗi khi có báo động. Các trận chiến ác liệt đến nỗi chính trị viên bệnh xá cũng phải bỏ thương binh để chạy lấy thân! (tr.253)
2. Cuộc sống rất cô đơn, thiếu tình thương yêu đùm bọc. Đây là phần trọng yếu của cuốn Nhật ký; Đặng Thùy Trâm đã bộc lộ lòng mình trong nhiều trang viết đầy nước mắt:
“30.6.68 Mùa thu đến mà lá vàng ngập cả không gian. Chưa bao giờ mình cảm thấy đau khổ và cô đơn đến mức này. ”(tr.57) ở trang 244, Thùy Trâm viết: “ Lòng con xao xuyến xót xa và cũng có những giọt nước mắt thấm mặn yêu thương chảy tràn trên đôi mắt của con. ” Khi nhận được thư mẹ và gia đình từ Hà Nội gửi vào, cô gái viết cảm nghĩ của mình: “ 10.6.70 Mẹ yêu ơi, con hiểu lòng mẹ héo hon, đau xót khi con của mẹ còn phải lăn mình trong lửa đạn, những lá thư của con, của các em gởi đến mẹ chỉ nói lên một phần vạn sự gian khổ ác liệt vậy mà mẹ đã lo lắng như vậy. ” (tr. 249)
Ở một đoạn khác, Thùy Trâm buồn vì sự lạnh nhạt, thờ ơ của những đồng chí ở quanh mình:
“4.6.70. Tại sao ta không được thoải mái khi mà tình cảm trong trái tim ta vẫn trong sáng và xanh tươi kỳ diệu. Gặp lại anh và các em sau những giờ phút sống chết cách nhau không đầy gang tấc, lẽ ra ta phải được ôm chầm lấy người thân của mình trong vòng tay siết chặt, mừng vui và cảm động đến rơi nước mắt. Vậy mà tất cả đều phải nén lại chỉ nhìn nhau không nói nên lời. ” (tr.247)
Ngoài ra, Thùy Trâm còn bị các đồng đội ganh tị. Tuy đã được kết nạp vào đảng, được cử chỉ huy bệnh xá mà trong buổi họp kiểm thảo ngày 25/5/70, tức trước ngày bị lính Mỹ bắn non một tháng (22/6/70), đảng ủy phê bình Thùy Trâm là: “Giác ngộ cách mạng tốt, tính tiểu tư sản vẫn còn. (tr.246)
3. Thảm cảnh não lòng giữa người mẹ và đứa con đi bộ đội ở địa phương. Đó là cảnh thương tâm khi người mẹ có đứa con trai 15 tuổi tên Thiện bỏ nhà đi theo VC, mặc dầu người mẹ không cho đi. Năm 18 tuổi Thiện vẫn không được về thăm nhà. Người mẹ phát điên, mạt sát tên thủ trưởng của Thiện. Khi thấy con về, bà ta giữ con ở lại không cho đi. Bà nói: “ Không đi đâu nữa hết. Có chết mày chết ở đây tao cũng thỏa mãn.” Không hiểu sau này số phận của Thiện sẽ ra sao trước tấm lòng của người mẹ thương con đến đứt ruột gan. (tr. 185)
Lại thêm một cuốn sổ nhỏ trong túi áo trước ngực của một bộ đội vừa ngã xuống. Trong cuốn sổ có nhiều kiểu ảnh của một cô gái với nụ cười duyên dáng trên môi. Trước ngực anh ta còn có chiếc khăn nhỏ thêu dòng chữ “Đợi chờ anh.” (tr.133)
4. Tâm tư ám ảnh bởi cái chết lởn vởn và ước mơ được sum họp gia đình; được thấy chiến tranh chấm dứt. Người con gái nào mà không lo sợ trước cái chết bất thần ập tới tại nơi chiến trường rực lửa, có khi bưng bát cơm không kịp ăn đã phải chạy xuống hầm, xuống hố đối diện với tử thần. Nhất là Thùy Trâm chỉ có một thân một mình luôn thấy cảnh máu chảy thịt rơi của các thương binh VC mà sức mình cứu chữa không nổi trong hoàn cảnh thiếu thốn, cực khổ vô cùng.
Trong bài thơ giãi bầy tâm sự của chính mình, Thùy Trâm viết vào ngày 7/1/1970 như sau:
“...Ai biết chăng dù ta có chết,
Cho ngày mai, cho đất nước tự do,..”.
“...Ai đau lòng khi bom đạn còn rơi,
Ơi những người thân thiết của tôi ơi,
Giữa chiều nay tôi bay về sum họp,
Tôi hôn những người thân và lệ tràn trong mắt
Giọt lệ chảy dài thấm mặn yêu thương..”.
(tr.210-211)
Trong chiến tranh, chuyện mất còn là lẽ thường tình. Các gia đình ở hai bên chiến tuyến đều có người hy sinh. Song hy sinh thế nào cho có ý nghĩa nhất lại là một lẽ.
Một điều tôi muốn nói ở đây là Thùy Trâm chưa lý giải nguyên nhân phát xuất chiến tranh, hay cũng chỉ hiểu chiến tranh theo đường lối của đảng Cộng sản là xâm chiếm miền Nam tự do dưới chiêu bài giải phóng dân tộc. Do đó hai chữ tự do cô nêu trong câu thơ chỉ là ảo tưởng trước khi chết và cả sau khi chết. Đất nước này vẫn không có tự do, dân chủ sau khi hòa bình được lập lại từ 32 năm nay, kể từ sau ngày 30/4/1975 miền Nam rơi vào tay Cộng sản khiến hàng triệu người đã phải bỏ nước ra đi tìm cuộc sống tự do nơi xứ người trên khắp năm châu, bốn biển.
Một khi còn chủ nghĩa Cộng sản thì tự do là nhà tù; dân chủ là độc trị. Cái quyền cơ bản nhất của con người đã không có, nhân dân vẫn phải lao vào một trận chiến mới đòi dân chủ, tự do như cây cỏ đòi sinh khí để đơm hoa kết trái cho đời. Cũng bởi lẽ đó, sự mất mát còn đeo đẳng trong tâm tư những người ruột thịt, bạn bè, bao lâu mà ý nghĩa của sự mất mát chưa được giải tỏa thích đáng.
Ngoài vài câu căm thù Mỹ-Ngụy theo khẩu hiệu của Đảng Cộng sản đã nhồi vào đầu óc người dân miền Bắc thời chiến mà bây giờ nó đã đảo ngược hoàn toàn, cuốn Nhật ký của Đặng Thùy Trâm là một niềm tâm sự đắng cay chứa đựng cái ẩn ức nội tâm của cô bác sĩ mới tốt nghiệp trường Y Hà Nội đã nghe Đảng lao vào vòng lửa đạn để chạy theo một khát vọng cháy bỏng bất thành. Cô đã không hề biết đến hạnh phúc của tình yêu và cuộc sống của riêng cô, cả đến tự do của dân tộc.
Những ước mơ tự đáy lòng đó vẫn còn nằm nguyên vẹn trong các trang nhật ký thấm máu của Đặng Thùy Trâm, cho dù hơn nửa thế kỷ đã trôi qua.
Chú thích:
[1] Anne Frank 15 tuổi; Rutka Laskier 14 tuổi.
[2] Theo lời kể của một lính Mỹ (không tên) dự trận đánh.
[3] Năm 1970, tác giả có tháp tùng Trung tướng Trần Văn Trung, Tổng Cục trưởng CTCT thăm Sư đoàn 2 Bộ binh và tiền đồn Địa phương quân ở Quảng Ngãi. trong chiến tranh. ” (tr.246)
Nguyễn Ái Lữ.
Tháng 10, 2007