Phụ Lục Đọc Ba Người Khác- Tiểu thuyết của Tô Hoài
Sách dày 250 trang khổ nhỏ, nhà xuất bản Đà Nẵng in năm 2006, vừa là hồi ký, vừa là tiểu thuyết. Thời tiền chiến, nhà văn Tô Hoài được biết đến qua các truyện ngắn ông tả những mối tình quê bên giếng nước, đầu đình, dưới những đêm trăng sáng. Nhi đồng được đọc Dế mèn phiêu liêu ký, truyện về con vật dễ thương được Tô Hoài nhân cách hóa để gợi tính hiếu kỳ của tuổi trẻ.
Tô Hoài ở làng Nghĩa Đô, gần Bưởi, cách làng Giảng Võ chỗ tôi ở chừng một cây số, cùng nằm theo tuyến đê La Thành từ Bưởi xuống ô Chợ Dừa, khu vực ngoại thành Hà Nội. Đó là nhờ chất quê bàng bạc đã tạo nên văn chương Tô Hoài.
Từ năm 1946, Tô Hoài theo Việt Minh.Trong lời giới thiệu của nhà XB Đà Nẵng có ghi: “Câu chuyện này có thể được coi là một mảng ký ức trong cuộc đời nhà văn Tô Hoài. Nhà văn Tô Hoài đã từng là Đội phó đội cải cách, Chánh tòa án đội thời kỳ Cải cách ruộng đất”.
Tô Hoài tự giới thiệu trong Ba Người Khác: “Năm ấy tôi ngót ba mươi tuổi. Từ tấm bé chỉ ở thành phố. Đến tuổi đi làm kiếm tiền được chân giữ cửa trông kẻ cắp cho hiệu thịt bò “ sắp phăng giông” phố Tràng Tiền. Cách mạng thì vào tự vệ phố, đến lúc kháng chiến không còn đội tự vệ nữa, nhưng tự cho mình đã là Việt Minh, tôi đi theo kháng chiến lên Việt Bắc... Không có vốn mở hàng quán, tôi xin vào làm phát hành sách báo. ” (trang 16-17)
Một người không hề biết luật lại đóng vai đội phò chánh án, lê bản án oan nghiệt và hành vi hủ hóa tột cùng của mình đi giết nông dân, hãm hiếp phụ nữ thì không thể tướng tượng nổi! “ Mọi người công tác ở cơ quan, từ cấp dưỡng đến cán bộ chuyên có biết đồng ruộng hay không nhất loạt đều phải đi làm thổ cải. ”(tr.l8)
Đội có 3 người, đội trưởng tên Cự, có tác phong quân sự, (tức là Thượng tá Huỳnh Cự sau này về hồi chánh với Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa), đội phó (Tô Hoài, với danh xưng tôi trong suốt cuốn truyện); một chánh án dâm ô, hủ lậu, và đội viên Đình (cũng là quý dâm dục). Địa bàn của đội là một xã có nhiều thôn thuộc tỉnh Thanh Hóa. Khi mới thấy đội phó vào nhà, anh trưởng thôn Diệc, nghe tiếng đội về, sợ quá, phờ phạc cả người trước mặt đội phó:
“-Lạy anh đội.
- Nhà ta cấy bao nhiêu?
- Chưa được hai miếng
-Ruộng nhà ai?
- Thưa cấy giẽ thôi”.
Nhà thật nghèo. Nghèo tận đáy. Uống chỉ toàn nước lã. Ăn chỉ vài con tôm cái tép ngoài đìa. Cuộc sống con người đen tối, vật vờ, hoang dã như đêm giữa ban ngày. Thanh Hóa đã kiệt lực!
Đến đoạn đội phó đi bắt đội viên Đình đêm nào cũng hủ hóa với nữ du kích Duyên, em gái cả Cối mà Đình về trú ngụ để tố địa chủ Thìn, bắt gặp Duyên, đội phó liền xơi tái cô này ngay trên bãi cỏ.
“Thân hình nóng ran, ưỡn lên, tôi gồng người, dằn xuống. Tôi thở dốc, ngoi lên, hớp từng hơi. Nhưng đến lúc thằng đàn ông sắp nghẹn cổ chết thì con đàn bà rên ư ử, nhũn ra... Cuộc quần thảo không biết còn lồng lộn bao nhiêu lâu nữa. Đến lúc tôi chỉ còn như con chó què, bước xiêu vẹo, lử khử. Lần được về nhà, nằm uỵch xuống chõng thiếp đi ”(tr.67 )
Đó là chân dung của đội phó đi làm cải cách. Đội phó cứ “dăng dện cái Đơm, lại cái Duyên” ( tr 76). Chưa hết, “ Nhà đương vắng, chúng tôi lôi nhau chui vào xó luồn ở vách sau... Duyên đè ngửa tôi ra, như trả thù chứ không phải là đền ơn. ”ị (tr.184). Những đoạn văn dâm bôn này, tác giả kể rất sống động, chẳng cần văn chương bóng bẩy làm gì. Một cán bộ khác, tên Bổn còn có thành tích hủ hóa không kém gì đội phó: “Tổng cộng trong 4 (đợt CCRĐ), đồng chí Bổn đã thông dâm với 8 người ” (tr.83)
Qua trang 91, Tô Hoài lại tả tiếp màn hủ hóa: “Duyên lăn xả vào, cưỡi lên tôi. Đến lúc tôi lử cò bợ, Duyên vẫn quắp không cho giẫy ra”
Thực chất cuộc cải cách ruộng đất chỉ làm theo hình thức để báo cáo lên trên. Có thôn không tìm đâu ra địa chủ, nên Đoàn ủy phê bình chưa đạt chỉ tiêu địa chủ. Đội phải tính chuyện đưa phú nông lên hàng địa chủ để đấu tố cho hả dạ cấp trên. Hãy nghe đội phó lý luận quèn, nhìn nhận cái yếu kém trong nhận thức về cải cách ruộng đất của mình:
“Tôi chưa phân tích tìm ra cái đầu cái đuôi địa chủ ở đâu. Chỗ nào có nông dân, có ruộng, tất có bóc lột” (tr.19) “Phải đâu tôi thạo con số mà làm được tòa án. Thật tôi cũng đoán mò”.(tr. 143)
Tòa phúc tra lôi cả cán bộ Đình trong đội cải cách và là phó phòng tỉnh, ra tra tấn, hành hạ, kết tội hắn là Việt gian, Quốc dân đảng, đã giết 56 người rất man rợ. (tr.98) May mà Đình thoát chết vì có lệnh trên xét lại các án tử hình đã làm bôi bác, cẩu thả để lập thành tích báo cáo.
Đây là phiên xử địa chủ Thìn do đội phó làm chánh án.
‘‘Mày có biết tao là ai không?
Thế nào mà tiếng lão già sắp chết này vẫn nói sang sảng:
- Thưa bà nông dân...tôi không biết..
- Tao đi ở cho cháu mày
-Thế thì tôi không biết thật ạ
-Mày lấy roi cặc bò đánh tao. Đả đảo địa chủ. ”
Sau đó một loạt tiếng súng tỏa khói xanh um lên. Địa chủ Thìn đã chết. Đội trưng thu trong thôn tịch thu tài sản của Thìn gồm 1 nhà ngói, 1 nhà gỗ ba gian, 1 trâu, 1 nghé, 5 mẫu ruộng, nồi, mâm đồng, cũi bát đĩa, hương án, đồ thờ.(tr. 148)
Đoạn kết, Tô Hoài kể đội trưởng Đại tá Huỳnh Cự đã vào mặt trận phía Nam và ra hàng Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, nhắc cả vụ Đại tá Hà (tức Thượng tá Tám Hà) ra hồi chánh miền Nam. Tô Hoài viết: “ Bên ta đã hạ quyết tâm tiêu diệt thằng phản bội ấy. Một trận đánh chớp nhoáng đột nhập vào cơ quan chiêu hồi của ngụy ở giữa Saigon. Chiến sĩ Võ đã rút dao chém đứt cổ Huỳnh Cự trong đám quân tháo chạy.”(tr. 250)
Không biết Tô Hoài khi ấy ở Hà Nội đã dựng chuyện này vào thời điểm nào, có thật thế không, chứ theo tôi thì hai Thượng tá Huỳnh Cự và Tám Hà là người Nam tập kết ra Bắc từ 1954 theo Hiệp định Genève, rồi lại theo bộ đội Bắc Việt xâm nhập miền Nam. Hơn 200.000 cán binh Cộng sản trong đó có nhiều sĩ quan cấp tá, cấp úy đã ra quy thuận, cả nhà văn Xuân Vũ, ca sĩ Bùi Thiện, Đoàn Chính, đại úy bác sĩ Sơn v..v... Khi về hồi chánh, hai ông Huỳnh Cự và Tám Hà đã làm việc cho Bộ Chiêu hồi và Cục Tâm lý chiến thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị Quân đội VNCH trong vài năm. Trước ngày 30 tháng Tư, 1975, ngày Saigon thất thủ, Việt cộng đâu có mở được trận tấn công nào "‘chớp nhoáng” vào Bộ Chiêu hồi giữa thủ đô Saigon chỉ để cho tên Võ giết Huỳnh Cự bằng “dao” mà các lực lượng bảo vệ lẫn cơ quan truyền thông đầy ắp ở Saigon không hay biết? Hãy phân biệt giữa tiểu thuyết và lịch sử; vì lịch sử cần có bằng chứng cụ thể liên hệ giữa con người và sự việc trong thời điểm nhất định.
Cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất ở miền Bắc kéo dài 5 đợt từ 1953 đến 1956, giết hại 172.008 người, theo sự tiết lộ của ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Ông Cần hiện ở Moscow, Liên bang Nga. Riêng về công cụ sản xuất, theo báo cáo nhà nước đã công bố trên các sách báo: có 81 vạn hecta ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 1,8 triệu nông cụ của nông dân đã bị tịch thu. Con số thực còn cao hơn gấp bội.
Ở Hà Nội, nhiều người mất nhà cửa, kiện cáo tốn kém mà không đi đến đâu. Đợt cải cách năm 1956, bà mẹ tôi ở Hà Nội không phải là thành phần phú nông, địa chủ, chỉ là dân buôn bán tư sản, cũng bị mất 2 căn nhà.
Biết bao nỗi oan khiên uất hận, bao nỗi đắng cay tủi nhục trong một chiến dịch diệt chủng (genocide) lâu tới 4 năm do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động, như Tố Hữu đã hò hét:
“Giết! Giết nữa bàn tay không phút nghĩ,
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu cùng rập bước tơ lòng,
Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Stalin bất diệt!"
Hoặc như Xuân Diệu đã cả tiếng:
“Địa hào đối lập ra tro,
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương,
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng hôm nay,
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ gục xuống đọa đầy chết thôi!”
Những nông dân chỉ có dăm ba sào ruộng; những phú nông bị đẩy lên hàng địa chủ, chẳng hề có cơ sở pháp lý nào để luận tội; cả những người bị nghi là lưng chừng, phản động đều bị Cộng sản đem ra đấu tố. Thậm chí người đã cúng nhiều vàng ủng hộ Việt Minh ngay từ lúc đầu như bà Cát Thanh Long cũng không thoát khỏi cái án tử hình!
Đến tháng 9, 1956, khi cuộc cải cách ruộng đất hạ màn, Tổng bí thư Trường Chinh mới nhìn nhận sai lầm nghiêm trọng trong chính sách cải cách! Sai lầm hay đóng kịch vuốt ve thì máu nhân dân đã đổ ngập nông thôn; đồng ruộng cũng đã hoang tàn không khác thời trung cổ nông nô bị lãnh chúa thống trị và bóc lột.
Các hợp tác xã nông nghiệp do Cộng sản lập ra sau đó là hình thức dồn nông dân vào làm ăn tập thể, mất quyền tư hữu ruộng đất và bị bóc lột, do đó chính sách này đã bị thất bại từ căn bản.
Thế mà sự thật cũng chỉ được viết ra phần nào rất khiêm nhường trong 250 trang sách của Tô Hoài!
Đây là cuốn sách tự thú những hành vi dâm ô, những sự thiếu hiểu biết của các cán bộ cải cách mà nhân vật chính là Tô Hoài. Cuốn sách gây cảm tưởng ghê tởm cho độc giả muốn tìm hiểu xem tác giả viết gì về cuộc cải cách ruộng đất tàn bạo hơn 50 năm trước. Cuốn sách tự nó phơi bầy tội ác diệt chủng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến dịch cải cách ruộng đất đẫm máu tại miền Bắc.
Là một nhà văn, Tô Hoài có ân hận về việc mình đã làm không? Có thấy đau xót trước cái chết của những nông dân vô tội không? Tuyệt nhiên không có một chữ nào trong cuốn Ba Người Khác; trái lại tác giả đã tự mãn góp phần vào hồ sơ tội ác của Đảng Cộng sản Việt Nam!
Dưới góc độ lịch sử, đây là tấn thảm kịch lớn đã xẩy ra cho nhân dân miền Bắc; tiếp theo nhân dân miền Nam cũng bị Cộng sản đánh phá tư sản triệt để sau khi chúng chiếm trọn miền Nam năm 1975, khiến cả triệu người đã phải bỏ nước ra đi.
Dân tộc Việt Nam, Bắc cũng như Nam, đã và đang phải gánh chịu những thảm họa lớn lao do Đảng Cộng sản Việt Nam gây ra trong hơn nửa thế ký. Lịch sử vẫn theo dõi từng bước tai ương và hậu quả nghiêm trọng của nó do Đảng Cộng sản gieo rắc cho nhân dân.
Nguyễn Ái Lữ
Tháng 5, 2007