SÀI GÒN CHẨN TẾ TRAI ÐÀN ❖ 1 ❖
Tôi vốn người Sài Gòn bản sao. Về hình tướng, thoạt nhìn y chang bản chính nhưng, ngó kỹ một chút thì, ruột gan có cái gì đó khang khác người Sài Gòn nguyên bản. Hồi xửa, tía thường cự má tôi về cái câu “đất lành chim đậu” khi bỏ xứ Cần Đước lên Sài Gòn kiếm sống. Tía nói:
– Đất nào lành, đất nào dữ? Sài Gòn, hai tiếng vừa tồn tại vừa mất mát... vừa thương, vừa tiếc... bà không thấy sao?
Hình như thâm tâm có điều bức xúc nên ông nói lời “thẳng tuột”, không sợ kẻ “khuất mặt khuất mày” quở:
– Người ta cho chút ngọt ngào để che giấu cái đắng cay, cho “đất lành” để tạo cớ cho kẻ khác nhào vô kiếm chác. Chớ thiệt ra, Sài Gòn là “đất dữ”, đất của máu xương và chết chóc: Chiến trường giữa Nguyễn Ánh – Tây Sơn, giữa Minh Mạng – Lê Văn Khôi với tiếng kêu bi thương gần 2.000 mạng người chung một nấm mồ gọi là, “Mả ngụy” (?). Hàng vạn người con ưu tú đất phương Nam noi gương Trần Bình Trọng “Thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc” đã phơi thây chốn sa trường chống quân xâm lược... Cũng như, họ quyết không cam lòng sống đời nô lệ: Lục tỉnh Nam Kỳ thuộc địa Pháp!
Mỗi lần tía nói vậy, má mần thinh!
❖ ❖ ❖
Cuối thập niên năm mươi, một hôm tôi phụ má gánh nước mướn “phông-tên” (fontaine) góc Đề Thám. Lúc nghỉ xả hơi và chờ đến lượt hứng nước máy, tôi hỏi má:
– Dân Sài Gòn sao ưa chẩn tế trai đàn, hả má?
Lột cái khăn rằn vấn trên đầu chậm mồ hôi lấm tấm rịn ở trán, má nói:
– Hồi tía mầy còn sống, thường nói đất nầy vốn “đất dữ”. Bề ngoài dẫu rằng yên nhưng, bề trong chưa chắc ổn! Chẩn tế trai đàn chẳng qua “uống nước nhớ nguồn” xưa!
Má cắt nghĩa:
– Người tinh ý sẽ nhận ra Sài Gòn chẩn tế trai đàn không là, trai đàn chẩn tế giải oan còn gọi trai đàn Thủy Lục; hoặc giả, mần theo tập tục từ Trung Hoa hay như Hòa thượng Đạo An từng dạy: “Không phải tập tục truyền thống Phật giáo”(?) Họ có cách nghĩ riêng của họ dù chẳng nói ra. Họ mượn chẩn tế trai đàn để tỏ lòng tri ân những ai “vì nước quên thân, vì đồng bào thiệt mạng”. Đã vậy, sao gọi chết oan? Không chết oan thì, giải oan cái nỗi gì? Chỉ là, cầu siêu cho người chết siêu thoát, cầu an cho người sống an lạc.
Má ngưng ngang lời, nét mặt trầm ngâm, cái trầm ngâm không khác gì lúc bóng má che nấm mộ ba khi hành lễ mở cửa mả.
Hồi lâu, má nói tiếp:
– Vì người, nên người Sài Gòn, hay nói rộng ra Người Nam Bộ, không có thói quen giành hoặc quen thói giựt vật tâm linh nơi đình, chùa; cho dù vật tâm linh đó là “Ấn” hay “Lộc”.
Rồi, má buông một câu chắc cứng:
– Người Sài Gòn rất trọng “Chẩn tế trai đàn”, mỗi khi cầu Trời khẩn Phật hoặc khấn Thánh vái Thần thì trong tâm tưởng của họ luôn luôn nghĩ tới mọi người, chẳng riêng gì một mình họ.
Tôi cãi lý với má:
– Con có cảm giác đó là tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật. Chúa Nguyễn Phúc Chu năm Giáp Ngọ đã tổ chức chẩn tế trai đàn tại chùa Linh Mụ (Huế). Hoàng đế Quang Trung năm Kỷ Dậu, ban sắc lịnh chẩn tế trai đàn chẳng những cho bá tính thành Thăng Long, cho binh sĩ hy sinh vì chống quân xâm lược, mà còn cho cả quân Thanh chết trận ngay trên xứ người dù là kẻ đi xâm lược. Gia Long năm 1802, giao Nguyễn Văn Thành – Tổng trấn Bắc thành chủ tế “Tướng sĩ trận vong và Cô hồn thập loại”...
Má cười:
– Chắc chi những vua chúa đó, chẩn tế trai đàn giải oan?!
❖ 2 ❖Người mình thường mang cố tật, thích áp đặt người khác mần theo ý mình. Chưa hẳn họ xấu nhưng tai hại biết bao nếu như họ nắm quyền lực. Lâu dần, họ ảo tưởng mọi thứ đều thuộc về họ và, đã là thuộc về họ thì đương nhiên họ trọn quyền phân phát thậm chí bố thí, mà không chút ngượng ngùng, xấu hổ! Ngay việc chẩn tế trai đàn cũng vậy, hết chỗ nói!
Sài Gòn chẩn tế trai đàn theo kiểu của người Sài Gòn, chớ không theo ý niệm về “ăn” trong đạo Phật và bốn cớ sự: Đoạn thực – Xúc thực – Tư thực – Thức thực trong thí thực. Đó chẳng qua là mượn cớ, để họ cầu nguyện và tưởng nhớ các bậc tiền nhân cho họ sống từ đất đai khẩn hoang, mở cõi. Điều mà xưa kia thực dân Pháp ngăn cấm; kế đến, mượn cớ “Bài phong đả thực”, chống mê tín dị đoan, hòng xóa bỏ!
Đừng tưởng rằng Sài Gòn dễ khuất phục. Sài Gòn đủ sức cảm hóa kẻ muốn khuất phục nó bằng nghĩa khí chẩn tế trai đàn vốn dĩ, đã trải qua mấy trăm năm. Sài Gòn cần hành động, không cần lời nói suông. Hành động sinh cốt cách con người. Vì vậy, Sài Gòn cần niềm tin và trọng chữ tín trong cuộc sống, trong mần ăn, trong sự phát triển kinh tế bền vững; khuyên ai đừng chơi cái kiểu: Cá bơi trước, cua bò ngang, tôm búng thụt lùi... hoặc trên tháo “kim cô”, dưới thắt “thòng lọng”.
Ánh đèn khuya vàng vọt đường phố Sài Gòn, má chạnh lòng nhớ quê; còn tôi, nếu có nhớ thì cũng chỉ là nhớ loáng thoáng cái cầu ao, bến nước, hàng dừa… Má buồn, nhưng chẳng trách chi con.
– Không thể và không ai có quyền bắt thời con quay lại thời của má!
❖ ❖ ❖
Người Sài Gòn chẩn tế trai đàn, chẳng những cho người đã khuất, người đương sống, mà còn cho cả thế hệ mai sau!