THẮT LÒNG BA THẮC ❖ 1 ❖
Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng nhận chìm ghe lấp dấu và vội vã giấu mình trong rừng bần tối trời trốn quân Tây Sơn. Chợt có tiếng động ngoài mé sông, Ánh mím môi, níu chặt vai Lê Văn Duyệt; chẳng hiểu vì run sợ hay như thể dặn bề tôi cảnh giác.
Giống chi toàn là giống đực
Thiếu tứ bề cam cực chung thân.
(Câu hò Long Phú)
Không gian im ắng sau tiếng “hò đố” của người con gái; chắc có lẽ, anh chàng nào đó bị cú “giựt giò lái bể dái bò” nên tạm thời ngưng “hò đáp”. Đoàn tùy tùng Nguyễn Ánh đồng thở “cái khì”, tiếng khì hơi nhẹ người nặng vật khiến bầy đom đóm hốt hoảng tắt đèn. Duyệt trầm mình lắc xuồng tát nước, đưa Ánh vào thiệt sâu rừng bần.
Cặc bần tuy là giống đực
Thương em đành cam cực chung thân.
(Câu hò Sóc Trăng)
Thì ra, câu hò đố lúc nãy đã có lời giải đáp chính xác: “Cây bần”! Dân dã thông minh như vậy, lo chi chuyện “phục quốc” của Chúa chẳng đặng thành! Mải mê nghĩ chuyện, Duyệt lơ là lách sào len lỏi rạch, xuồng dội ngược vì mũi đụng phải gốc bần cổ lưu niên. Thường khi, gặp sự cố tương tự, Chúa có thể nổi cáu và phán dạy; nhưng đêm nay thì không. Tiếng quốc kêu trên nền nhạc côn trùng miền ven biển, Chúa chạnh lòng và bóng đêm như đã làm biến dạng khuôn mặt Chúa, trở thành khuôn mặt khác.
– Duyệt! Ta lạnh lắm rồi...
Duyệt nghe rõ miệng Chúa “đánh bò cạp”, đôi hàm răng va mạnh vào nhau liên tục làm Chúa run cầm cập. Mây ngũ sắc vén trời hừng mặt và Chúa bắt đầu lo sợ quân Tây Sơn truy kích kịp, tầm ra tông tích.
Nước Ba Thắc chảy cắt như dao
Con cá đao bổ nhào vô lưới
Biết chừng nào anh (mới) cưới đặng em.
(Câu hò Trà Vinh)
Tiếng hò của chàng trai sống nghề chài lưới rất tình tứ, rất trong và ấm, xé bóng tối lộ ra bóng nắng ban mai. Chúa vừa qua đêm ngự miền đất lạ cuối nguồn sông Hậu.
Chim dồng dộc kêu rộ trời. Chàng trai cô gái dỡ câu, cuốn lưới đầy ắp cá tôm và xen tiếng cười khúc khích lan lan mặt nước. Nguyễn Ánh vung vai đón gió biển, ngắm bông bần... Mùi đất nước làm Chúa tươi tỉnh. Bất giác Ánh nói với Duyệt: “Giang sơn ta, đẹp quá!”.
❖ ❖ ❖
Đô đốc thủy binh Nguyễn Văn Vàng ròng rã một ngày trời bỏ công lục lạo bở hơi tai nhưng, vẫn không tìm ra được một giọt nước nào ngọt trên cái cù lao rộng mênh mông, đông ken cây bần thành rừng rậm. Khát khô cả cổ! Chúa cùng quân gia ngậm trái bần cầm hơi. Trong lúc đó, quân thám thính cấp báo: “Quân Tây Sơn dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Phò mã Trương Văn Đa đã tới Cổ Chiên và đang thọc xuống Ba Động miền duyên hải”. Bụng dạ Đô đốc Vàng nóng như lửa đốt. Duyệt lo phân tán nội cung, đưa bớt cung nữ trà trộn trong dân sinh sống.
Nguyễn Ánh nằm võng không tàng lọng, chỉ có quân hầu và mong được một lần thưởng thức hương bần. Duyệt thưa:
– Bông bần trắng điểm xuyết sắc tím, không hương.
– Có sắc không hương thì, sắc kia cũng vô dụng!
Ánh uốn lưng, chồm người và như sực nhớ:
– Khanh người Trà Lọt, chắc là hiểu bần hơn ai!
– Bẩm! Chúa sáng suốt. Hồi nhỏ, thần thường nghe má thần ru em:
Bần ơi! Ơi hỡi là bần
Lá xanh bông trắng, lại gần không thơm.
(Ca dao)
Tuy không hương thơm nhưng nó đắc dụng và nó vẫn hơn biết bao loài bông tràn hương sắc mà trái thì chẳng ra gì, có khi, còn phản trắc sắc hương. Rừng bần chắn sóng giữ đất cù lao dày đến độ trưa đứng bóng, nắng không rớt nổi một giọt xuống đất.
Trái bần từng chùm đong đưa theo nhịp gió biển. Vì, mải đong đưa theo nhịp gió biển nên trái bần tròn dẹp, mang đậm vị chua và chát, đài bông dày đủ sức chịu phong ba và nhọn gần cuống để chống chọi bão táp.
❖ 2 ❖Chiến cuộc lan rộng, chiến sự ngày thêm ác liệt và quân Nguyễn Ánh vỡ trận khắp nơi. Tai mắt Tây Sơn rắc đều bốn cõi, Nguyễn Ánh khác nào mãnh hổ bị truy đuổi và rồi, tự nhốt mình trong cái cù lao mà mình chưa từng rõ tên. Chả lẽ, ta thúc thủ đợi quy hàng!? Những lúc như vậy, cái chết thảm của Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương chập chờn hiện về với cây thịt không còn da và mất đầu. Sau mấy ngày ăn trái bần và thấm môi nước mặn, Nguyễn Ánh cùng tùy tùng bị tiêu chảy kiệt sức. Nguyễn Ánh nằm liệt võng và không sao gượng ngồi dậy nổi. Duyệt lo lắng, luôn túc trực bên cạnh; Đô đốc Vàng bối rối bởi, thủy binh của Đô đốc tàn tới chỗ tạ vô cùng.
– Đây là đâu, Đô đốc?
Nguyễn Ánh hỏi Đô đốc Vàng. Đô đốc quỳ cận đầu võng, tâu rằng:
– Dạ, bẩm Chúa! Nơi đây là con rạch không tên, nó lấy nước từ sông Ba Thắc nuôi đất cù lao. Thời đàng cựu chỉ lại đàng tân, rằng sông Ba Thắc [22] đổ ra Biển Đông bằng ba cửa: Định An, Ba Thắc, Trần Di. Thiên hạ theo thói quen “thấy mặt đặt tên”, thấy vóc dáng cù lao giống kình ngư trườn ra biển bồi và giữ đất, chim muông tụ về, nên cù lao có nhiều tên gọi do lưu dân và người bản địa tự đặt [23] .
Khuôn mặt Nguyễn Ánh còm cõi, cóp má, mắt nhắm, thở đều. Duyệt ra hiệu cho Đô đốc thối lui vì, Chúa đã thiếp.
Thân em như trái bần trôi
Sóng dập gió dồi biết tắp vào đâu?
(Ca dao)
Nguyễn Ánh tươi cười và nhớ... À! Ta nhớ ra rồi! Giọng hò nầy chính là cái giọng hò đố của cô gái buông câu trên sông, vào đêm ta lủi vô rừng bần lẩn trốn quân Tây Sơn. Nàng hiện ra và chao ôi, nàng đẹp tợ tiên nga. Nàng sắc nước mà sao chẳng có hương trời? Ánh tự hỏi trong nuối tiếc song, nuối tiếc đó đã bị cái “nòi tình” đè bẹp. Nàng thướt tha trong bộ xiêm y trắng điểm xuyết sắc tím, chầm chậm bước tới.
– Thiếp tên tục là Bần, xin ra mắt Chúa công!
– Ta miễn lễ cho nàng và ta muốn nói với nàng, rằng: “Sóng dập gió dồi hãy tắp vào ta!”.
Nàng ỡm ờ khúc khích cười.
– Chúa công đang bị “gió dồi sóng dập”, thân lo chưa xong, nói chi tới lo cho thiếp!
Sợ Chúa công buồn, nàng giả lả:
– Chắc là, Chúa công đói nhiều lắm rồi, phải hôn? Thiếp đãi Chúa công.
Nghe nói được ăn, Nguyễn Ánh không kềm nổi nước miếng ứa ra miệng. Tai Nguyễn Ánh còn nghe văng vẳng tiếng nàng nói: “Chúa công cố ăn cho lợi sức, để có sức chạy nhanh,Tây Sơn không bắt kịp!”.
Chẳng “sơn hào hải vị”, chỉ là, món ăn dân dã: Gỏi bông bần, cá sặt, rô, chốt, trê vàng mần mắm ăn với cơm nguội kèm bần ổi chín xắt lát mỏng, rau rừng, chuối chát, ớt hiểm xanh... Nguyễn Ánh quên mình là đấng quân vương, ngồi chàng hảng dưới đất, tay xé con mắm ăn bốc... Bụng no cành hông rồi, miệng vẫn thèm ăn. (Mới biết cái ăn quan trọng tới chừng nào!)
Nguyễn Ánh ăn xong bữa cơm, nàng căn dặn đôi điều, rồi lặng lẽ mất hút theo khói lam chiều bên kia sông. Và, hình như có tiếng chuông chùa nương gió vàm Đại Ngãi.
– Thủy Liễu! T... h... ủ... y... L... i... ễ... u...
Nguyễn Ánh kêu thất thanh, long thể xuất hạn, mồ hôi đầm đìa!
❖ 3 ❖Đô đốc Vàng người con miệt sông Tiền, vào thời loạn đã bỏ bến sông thành chiến binh thủy và một lòng sống chết cùng Chúa hơn ba mùa trăng Thu. Đêm nay, ở rừng bần trong bước đường cùng nầy, nhìn thấy trăng khiến Đô đốc nhớ hiền thê, nhớ “Trăng mười bảy trảy giường chiếu”. Gió từ biển thốc từng cơn, hàng hàng lớp lớp cành bần va nhau tạo thanh âm buồn lê thê trên bãi đất cồn. Đô đốc chẳng màng gì thân, chỉ nghĩ tới sự sống còn của Chúa, giọt máu cuối cùng nhà Nguyễn kể từ khi Nguyễn Hoàng vào đất Thuận Hóa.
Trăng trầm hà đáy Ba Thắc, Đô đốc coi thiên văn thấy lành ít dữ nhiều, nhìn địa thế sông Ba Thắc “lội không tới bờ, lặn không tới đáy”; ba cửa sông không thể bảo vệ cù lao một khi quân Tây Sơn phát hiện và dùng chiến thuyền bổ lưới bao vây. Đô đốc biết chắc mấy ngày tới, quân Tây Sơn sẽ vượt sông Cổ Chiên qua cửa Cung Hầu đến Mỹ Long và từ đó, tiến về cửa Định An, cửa Ba Thắc, cửa Trần Di (Trần Đề) dễ như trở bàn tay. Nhiều lần, Lê Văn Duyệt trao đổi tình hình chiến sự cùng Đô đốc và cũng nhiều lần, Đô đốc định báo sự nguy cấp “chỉ mành treo chuông” cho Chúa nắm nhưng, sợ Chúa kinh động nên thôi!
– Bẩm báo Đô đốc, thủy bộ quân Tây Sơn đã rời Mỹ Long cách đây hai canh giờ!
Toán đặc thủy tiền sát báo khẩn cấp.
Đô đốc chỉ kịp bàn với Lê Văn Duyệt.
– Lê tướng quân! Tướng quân cứ làm như vầy... như vầy... Nếu Chúa có “chân mạng đế vương” thì, chắc an toàn mạng.
– Tôi bao nỡ để Đô đốc...
Duyệt chưa nói dứt nửa câu, Đô đốc chặn lời:
– Tình thế nguy khốn ta không thể nhiều lời. Phận làm tôi phải cứu chủ lúc nguy nan.
Thấy mắt Duyệt rưng rưng, Đô đốc cầm tay Duyệt:
– Tướng quân bảo vệ “long thể” Chúa an toàn, việc đó còn khó gấp trăm lần ta xông pha nơi chiến trận.
Duyệt bùi ngùi, đôi dòng lệ ứa ra từ đôi mắt thiếu ngủ.
– Nhưng...
Đô đốc Vàng một tay cầm chuôi gươm, một tay vỗ vai người bạn cùng sinh ra và lớn lên chung một dòng sông Tiền, rồi cười khanh khách:
– Tướng mất còn Chúa thì còn giang sơn. Mất Chúa tướng còn thì giang sơn mất và cái còn kia chỉ là cái còn ngàn năm ô nhục!
Mây vần vũ chuyển mưa, trời mang hơi nước nằng nặng. Đô đốc như vừa trút gánh nặng trên đôi vai “Quân – Thần”, thanh thản đi vào cõi tử sinh và phần tử, hoàn toàn thuộc về Đô đốc!
– Xin tướng quân giấu nhẹm việc với Chúa trước khi ta dẫn dụ quân Tây Sơn rượt đuổi ta cùng chạy về sông Khoa Giang [24] .
Duyệt ôm Đô đốc, nghẹn ngào:
– Đô đốc! “Sanh vi tướng, tử vi thần”!
❖ ❖ ❖
Sau buổi trưa gặp nàng Thủy Liễu trong chiêm bao, tâm trí Nguyễn Ánh thôi bất an. Nhất nhất mọi việc, Duyệt thi hành theo kế hoạch của Đô đốc dặn dò trước lúc chia tay.
Duyệt che mình giấu Nguyễn Ánh dưới hàng bần cổ mọc cặp mé rạch hoang chạy ngoằn ngoèo. Ngoài cửa sông Ba Thắc tiếng reo hò, tiếng binh khí... hơn hẳn tiếng sấm dậy, trời chuyển động mưa đầu mùa.
– Giặc Huệ đã đuổi tới rồi à?
Duyệt ra ám hiệu, Chúa nín khe. Bông bần lẳng lơ sắc, bỡn cợt với binh đao.
Đô đốc Tấn cùng thủy binh Tây Sơn tưởng Đô đốc Vàng là Nguyễn Ánh nên dốc toàn lực rượt đuổi. Phó tướng Duy có điều nghi vấn, ngăn cản:
– Thưa Đô đốc! Nguyễn Ánh nhỏ con, người nầy chẳng những lớn con mà còn oai vệ, tiếng nói như tiếng chuông rền át cả tiếng sóng biển. Theo tôi, đây là kế “kim thiền thoát xác”, Đô đốc cẩn trọng, đừng để mắc mưu địch. Chi bằng, ta quay lại lục soát rừng bần trên cái cù lao đáng nghi ngại.
Đô đốc Tấn gác ngoài tai những lời của Phó tướng Duy.
Tiếng quân đôi bên xa dần. Rừng bần chỉ còn tiếng sóng biển.
Rồi, ngay trong đêm, Lê Văn Duyệt trình bẩm Nguyễn Ánh nắm toàn bộ kế hoạch đánh lừa quân Tây Sơn của Đô đốc Vàng. Tay Nguyễn Ánh níu vạt áo Duyệt bật run, một sự bật run đầy cảm kích trước tấm lòng tận tụy của bề tôi đối với quân vương. Bất ngờ, Nguyễn Ánh nằm vật vã, khóc thét lên rúng động cả vạt rừng bần. Trời đầy sao bỗng dưng sấm sét chớp giựt, gió hú rừng làm nao lòng người. Mưa xối xả, mưa như chưa bao giờ được mưa!
❖ ❖ ❖
Rừng bần xanh tươi, thay áo mới; chim rối rít chào nắng ban mai. Lòng Nguyễn Ánh chợt sảng khoái trước cảnh vật đẹp lạ thường và có cảm giác, đang sống trong đất nước thanh bình.
– Lạy Trời! Lạy Chúa công! Lạy...
Tiếng “lạy” vang lừng hòa trong nỗi vui mừng khôn tả của bầy cung nữ, của đoàn tùy tùng phát hiện đầm nước ngọt nơi Nguyễn Ánh nằm lăn lóc khóc hồi đêm.
Nguyễn Ánh lạy cảm Đất, tạ Trời đã ban tặng đầm nước ngọt giữa bốn bề nước mặn bủa vây. Giây phút linh thiêng, Nguyễn Ánh nghĩ tới Thủy Liễu và tự hỏi: “Nàng là người trong mộng hay là Tiên?”.
Lê Văn Duyệt nhớ lời Đô đốc Vàng nhắc đi nhắc lại:
– Thuyền ta nhỏ chạy nhanh, thuyền Tây Sơn loại thuyền chiến lớn chạy chậm và một khi, thuyền Tây Sơn vô Khoa Giang sẽ càng thêm khó bề xoay trở. Sớm mai, tướng quân cần gấp rút đưa Chúa trốn nhanh nơi khác. Quân Tây Sơn sẽ trở lại tức thời một khi phát hiện ra ta...
Bóng nghiêng nắng chưa đứng, Duyệt cõng Nguyễn Ánh đi trốn qua ngả cửa Trần Di (Đề). Và, trước lúc đi, Nguyễn Ánh kịp đặt tên đầm nước ngọt là “Đầm Tiên”, rạch hoang nơi Ánh từng lủi trốn là rạch “Long Ẩn”.
❖ 4 ❖Rừng Thủy Liễu chắn sóng giữ đất, Đầm Tiên ngăn mặn gìn nước và rạch Long Ẩn góp phần tạo nên vùng đất cù lao Dung lúa, mía bạt ngàn. Có lẽ hơn ai hết, người đàng trên hay đàng dưới mà thiên hạ thường gọi đàng cựu, đàng tân đều thấu hiểu lẽ trời ở vùng đất Ba Thắc; chẳng phải khi không vùng đất Ba Thắc mang hình dáng “rồng giao nhau”, dân sở tại gọi là “Giao Long”, có đủ các bộ phận: đầu, mình, chưn, đuôi... biểu tượng qua những giồng cát [25] . Và, cũng chẳng phải khi không cái nơi “bông thừa sắc thiếu hương” của cây bần, sinh ra loài cá bống sao – món nhà quê ăn ngon trên cả tuyệt vời. Tương truyền, Đô đốc Vàng bị quân Tây Sơn cắt lấy thủ cấp, thây liệng trôi sông. Hồn Đô đốc Vàng chia ba phần: Một phần ở lại Khoa Giang (Cà Mau), một phần quay về cù lao Dung nơi xuất phát ra đi và một phần gửi cố hương sông Tiền. Mỗi nơi, đều có một loài cá bống nhỏ hơn cá thòi lòi, thân dài như cá bống dừa và mình tròn, da dày đặc đốm trắng li ti, kết từng chùm sao giông giống sao trời.
Mỗi doi đất, một dòng sông người xưa để lại; người đời nay chắc gì đã hiểu hết!
Một mai em gái theo chồng
Còn đâu bánh giá chợ Giồng mời anh.
(Ca dao)