MÓN ĂN QUÊ NGOẠI
Một mai em gái theo chồng
Còn đâu bánh giá chợ Giồng mời anh.
(Ca dao)
❖ 1 ❖Quê ngoại có rất nhiều loại bánh làm từ gạo nếp nhưng tôi chỉ mê ăn mỗi loại bánh giá do chị Hai làm. Anh Sáu đôi lần cũng nói với thằng em khỉ khọt như vậy. Rồi, những ngày êm ả đi qua, chợ Giồng lần hồi thưa thớt người, anh Sáu biệt tăm chẳng còn tới lui chợ và nghe đâu, anh bỏ xóm Pháo Đài qua xứ khác mần ăn, sau khi chị Hai vì cảnh nhà, từ chối lời dạm ngõ.
– Chợ ế ẩm quá! Thôi, nghỉ bán bánh giá, đi con!
Má nói trong tiếng ho sù sụ, chạnh lòng mấy chị em tôi. Má là chỗ dựa của chị Hai và chị Hai là chỗ dựa cả bầy em nhỏ. Giồng đất xưa vặn mình theo thời cuộc, bánh giá chợ Giồng trở bộ theo chị Hai xuống xuồng bán dạo trên sông.
Anh ơi, về tới Hòa Đồng
Nhớ mua bánh giá chợ Giồng tặng em.
(Ca dao)
Câu hò của ai như nửa thiệt nửa giả, nửa dặn dò vì thèm ăn bánh giá chợ Giồng. Buồn phảng phất nét mặt chị tôi, nét mặt của người phụ nữ bước qua tuổi băm, đuôi mắt lộ dấu chân chim.
Hai chị em với chiếc xuồng lưu linh trên sông nước, lúc Đồng Sơn khi Rạch Lá, tới chợ nào làm bánh bán chợ đó; mươi ngày, nửa tháng mới quay về nhà đưa tiền cho má lo thuốc thang và nuôi bầy em nhỏ.
Nhiều đêm nơi bến chợ quê người, tôi nằm suy ngẫm chuyện đời qua đầu óc non nớt của đứa trẻ chưa kịp già dặn chững chạc. Một “Khổng tước nguyên” chả lẽ, công đã bỏ gò? Một “giồng Sơn Qui” giống cái mai rùa, đầu đít quay về đâu thì bất khả. Có điều, cả vùng đất phía Đông Gò Công không nơi nào đào giếng có nước ngọt, duy chỉ “giồng Sơn Qui” [26] thì đã là, “lăng Hoàng gia”.
❖ ❖ ❖
Nhà nghèo, má nay ốm mai đau nên chị Hai nấn ná không đi lấy chồng. Cuộc sống cả nhà trông cậy vào đôi tay chèo của chị với chiếc xuồng ba lá bươn sóng trên con sông Gò Công. Một con sông khơi nguồn từ con rạch nhỏ xứ Hòa Đồng, chảy qua phố thị thuộc làng Long Chánh và nó thản nhiên cắt đôi bờ Đông – Tây đất Gò Công, rồi thong thả nghiêng mình hướng Tây – Bắc trút nước níu sông Trà, cuồn cuộn chảy vào sông Vàm Cỏ.
Thời nhỏ, tụi bạn rắn mắt cắt nghĩa chữ Gò Công là, “vừa gồng vừa co”. Ngây ngô tôi hỏi chị Hai, đôi má của chị bỗng dưng hây hây đỏ và đồng thời, thằng tôi lãnh đủ mấy cái cú đầu.
– Gồng thì tau rành! Tau đương gồng phụ má nuôi tụi bây. Co thì tau chưa co nên chả biết.
– Thôi, đánh em chi con! Má đặt nó tên thằng C... thì đã là, tận cùng bằng số, rồi!
Má rầy chị Hai. Nắng xiên chợ Giồng trong buổi chiều trống hoác.
Tuy hay nghịch phá nhưng tôi cũng có chỗ để chị Hai sai biểu. Nhà má ở tạm cư ngay đầu chợ Giồng, được che chắn bởi mấy cây me cổ thụ tới vài người ôm mới xuể. Nếu nói cho đúng thì, phải gọi “chợ Giồng ông Huê”. Vì, ông Huê là người lập chợ [27] . Tôi ngồi chồm hổm đánh bột, thay đổi tay liên tục; chưn mỏi, tôi ngồi bẹp dưới đất chẳng dám làm biếng lơ đãng. Chị thường dặn: “Bột đánh càng lâu, bánh càng nở và xốp. Bánh vô miệng, thau lưỡi... Người ăn nhớ!”
Mấy bà bạn má không ai làm bánh giá bán chợ. Rảnh việc, họ sang chơi và đôi khi, phụ chị Hai cắt râu, lột vỏ tôm nguyên con hoặc xắt lát mỏng gan heo, rửa sạch giá sống. Chị Hai chọn và ước lượng bột gạo, bột đậu nành, trứng gà và nước pha chế bột. Mỗi buổi chợ sớm mai, sương còn bảng lảng cánh đồng sau chợ, chị đã ngồi bên bếp lửa liu riu với chảo dầu sôi; bàn tay chị cầm cán vá chiên nhúng từ từ vô dầu sôi đợi bột kết dính chín thành bánh, rồi dỡ vá lên nhịp nhàng như trò chơi đánh đũa.
❖ 2 ❖Tôi nhớ quá những người cũ cảnh xưa ở cái chợ Giồng yêu dấu. Nhớ những trưa tan chợ, những chiều mưa bánh giá bán ế, chị Hai nhìn bầy em ăn bánh trừ cơm và hình như, đôi mắt chị ngân ngấn nước. Cả xóm chợ quê đều thiếu gạo đói cơm nhưng nhơn nghĩa thì vô kể, nhiều hơn đậu xanh mọc giá. Thường thì, đầu hôm, mấy bà bạn của má hay xúm nhau ăn cốm dẹp ngào xác dừa, nghe má nói thơ “Lục Vân Tiên”. Lần đó, má đem chuyện hai chị em cãi cọ về địa danh Gò Công theo nghĩa đen nghĩa trắng, học lại cho mấy bà bạn của má nghe. Dì Tám cười ngất thiếu điều sặc mũi.
– C... tới đây, con!
Rồi, dì nói đất có danh Gò Công xuất từ chữ “Khổng tước nguyên”. Đã “Khổng tước”, chắc là “con công” và “Nguyên”, sao chẳng là gò! Con công bỏ rừng về đồng bằng ven biển chọn gò làm nơi chốn dung thân, hẳn phải hiểu lấy “hòa” làm gốc con người, ngoài cặp đôi “thời” và “lợi” của thiên địa. Như thể chứng minh, dì nói tiếp:
– Hòa Lạc, Hòa Tân, Hòa Bình, Hòa Đồng... Bốn “Hòa” hợp thành Gò Công.
Má và thím Bảy, chen vô:
– Chỉ là mới có, chưa đủ. Muốn đủ, cần nhắc tới hòn ngọc nằm trọn lỏn giữa “Tiểu, Đại hai cửa trong chín cửa sông Cửu Long”. Đó là, cù lao Phú Thạnh Đông với “xóm Pháo Đài” ngăn cướp và canh thức biển.
– Vì, hòn ngọc bị cửa Tiểu cửa Đại kẹp cứng ngắc nên đất địa Gò Công, dù đào được giếng cũng không có nước ngọt, toàn nước hôi mùi bùn.
Dì Tám giải lý theo cái lý của má và thím Bảy.
Chị Hai liến thoắng góp chuyện như từng tiếp hơi má đọc đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
– Biết đâu, “nước hôi mùi bùn” đã làm “bánh giá chợ Giồng” rạng danh, “mắm tôm chà” nức tiếng và đặc biệt “cá phác lác”, một loại cá không để “tiến vua” mà là, để mẹ nuôi dạy con khôn lớn “thành vua”(!)
❖ ❖ ❖
Nhiều lúc thấy chị ngồi tư lự bên chảo chiên bánh ở chợ xứ người, tôi chọc ghẹo để chị nhảy qua cái ổ đựng nỗi buồn ngày một sâu. Chị đổ quạu nạt em như là, cái cớ che giấu bị bắt tận tay sự “thổn thức tình” nằm kín mít tận đáy tim. Buổi sáng cuối cùng chị Hai gặp anh Sáu.
– Anh Sáu, mở hàng cho em!
Chị Hai mừng húm, mời anh Sáu. Chị tin, mỗi khi anh Sáu mở hàng, buổi chợ hôm đó chị bán đắt.
Anh Sáu sống nghề hạ bạc, ôm khúc sông cặp cù lao Phú Vĩnh Đông chài lưới quanh năm. Thấy anh hiền từ, tính chịu thương chịu khó, dần dà má biểu chị Hai lấy mối tôm của anh.
– Cô Hai, cho tui phần bánh!
Rồi, anh dặn chị cho giá thiệt nhiều. Với anh, giá là hồn của bánh, thiếu hoặc ít giá người ăn mau ngán và dễ chán. Rành nết ăn của anh, khi bánh vừa chín tới, bột hửng vàng, chị vớt bánh giá gói lá chuối Long Thuận, một thứ lá dầy, mát mịn làm giòn bánh.
Ban mai trời se lạnh, bánh nóng, anh Sáu ăn bánh nhả hơi như làn khói. Gò má chị Hai ửng hồng, không biết vì chảo dầu sôi hắt nóng hay vì chị nhìn anh ăn say sưa bánh giá chợ Giồng.
Có lần dì Tám nói với chị Hai:
– Dù cảnh thuận hay nghịch, bây cũng ráng giữ nghề bánh giá chợ Giồng đừng để nó mai một. Trời khi nắng khi mưa, chớ món ăn ít khi mưa nắng. “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, người phụ nghề chớ nghề không phụ người!
Những buổi tối má mệt tạm ngưng nói thơ, mấy bà bạn nằng nặc đòi dì Tám “dựa tích dịch tuồng”; dì kể chuyện tương truyền, rằng:
– Bại trận ở sông Thất Kỳ Giang Cần Giờ, Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn rượt chạy thục mạng về hướng Gò Công. Đêm tối, biển sóng dậy cột buồm gãy, thuyền chìm. Thời may, Nguyễn Ánh được cá Ông đẩy vô bờ Vàm Láng. Trượng nghĩa thương tình, dân Vàm Láng ra tay cứu giúp Nguyễn Ánh và mời ông ta ăn món ăn bánh giá cho lại sức; một loại bánh dân dã có từ thời “đàng cựu” khẩn hoang. Chẳng hiểu Nguyễn Ánh có nhớ bánh giá đã giúp mình no khi đói không, sao chẳng thấy đặt cho bánh một cái tên riêng để tạ ơn trời đất theo thông lệ mỗi khi “bôn tẩu”(?)
Trầm ngâm giây lát, dì xáng đại một câu như thể hạ màn vãn tuồng hát bộ:
– “Nhà nghèo mới hay con thảo”, lúc đói mới nhớ món ăn!
❖ 3 ❖Người Gò Công, dù sống nơi quê nhà hay ở phương trời cách biệt nào, vẫn luôn nhớ và thèm món ăn bánh giá chợ Giồng; họ vẫn giữ được chữ “Hòa của đất Gò Công” trong tâm thức. Và, họ vẫn hơn hẳn vua chúa đã không giữ nổi cái cần giữ cho dòng tộc thì nói chi tới việc giữ an nguy cho trăm họ. Tự Đức đành lòng ngậm ngùi bỏ quê ngoại thành thuộc địa thực dân Pháp và cũng kể từ đó cho tới lúc “băng hà”, Tự Đức vĩnh viễn không còn dịp về thăm quê ngoại, thăm cục đất nơi chôn nhau cắt rún của mẹ mình. Than ôi! Có khi nào Tự Đức cám cảnh:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê ngoại ruột đau chín chiều.
(Ca dao)
Tới bây giờ, bia miệng thế gian vẫn còn truyền: Bia mộ Phạm Đăng Hưng làm từ đá cẩm thạch trắng (lấy ở núi Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng) [28] do Phan Thanh Giản, Trương Quốc Dụng tạc bia và ngự chế minh văn đã bị quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Đại úy Barbé đánh cướp, khi tấm bia chuyển từ Huế vừa đến Vũng Tàu. Sau nầy, tấm bia bị cướp trở thành bia mộ của kẻ cướp bia: Đại úy Barbé bị nghĩa binh Bến Nghé giết chết trước lúc đồn Chợ Rẫy bị tấn công đêm 3 rạng 4 tháng 7 năm 1860.
Tôi nhớ hoài câu nói của má: “Mọi thứ rồi sẽ là phù du, duy chỉ có một thứ khả dĩ còn luyến lưu ở lại lòng người, đó là món ăn!”.
Món ăn thể hiện tính cách con người; đồng thời, nó cũng có thể tạo nên số phận. Khi thèm nhớ bánh giá chợ Giồng, tôi không thể nào không nhớ quê, nhớ những người thân yêu; trong đó, có chị Hai. Cảm ơn món ăn quê ngoại đã giúp tôi giữ mình suốt bao chặng đường sinh tử!
Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng Mười chưa cười đã tối.
(Tục ngữ)