GÀ CÙNG MẸ ❖ 1 ❖
Con sông Cái Mơn tắm nắng ban mai, chảy qua xóm nhà thờ làng Vĩnh Thành trong sự hối hả của dân miệt vườn chuẩn bị hàng bông, cây kiểng, mai vàng... mang đi bán Tết tứ phương. Dòng nước của con sông cuộn xoáy khi rời doi đất thuộc mảnh vườn nhà xưa của song thân Trương Vĩnh Ký ở đầu ngõ ấp Đông Nam. Tư tử mị chỉ huy đám sắp nhỏ sửa sang, củng cố trường gà để gầy độ đá trận gà cuối năm theo thông lệ gọi là Tất niên.
– Sẵn có trà ngon, vô uống trà chơi, anh Hai!
Thấy anh Hai đứng lóng ngóng ngoài mí rào, Tư mời gọi.
– Chà! Chú em mầy tính vét cú chót cho gà đá khỉ lộn ngược về Hoa Quả sơn?
– Anh Hai nói cà rỡn với em út vậy thôi. Thằng Tư tử mị nầy, dù có gan trời cũng không dám!
Cả hai cùng cười, tiếng của những tay cáp độ gà thành nghiệp.
❖ ❖ ❖
Nóc thánh đường Cái Mơn im lìm soi bóng mặt sông. Buổi chiều lặng lẽ trôi qua vườn cây ăn trái bạt ngàn. Tư tử mị đắn đo suy nghĩ và lưỡng lự, chẳng biết có nên chỉ vẽ anh Hai biết cách mặc “áo giáp” cho gà chống cựa đâm của đối thủ hay không? Bởi, đây là “bí truyền thần kê”. Sáng qua, anh Hai sang chơi mà chẳng phải chơi!
Tư tử mị đem chuyện học lại với vợ, coi vợ tính sao.
– Mình và anh Hai cùng mẹ khác cha, một dòng một họ chớ có xa lạ gì đâu. Chị Hai than thở: Anh Hai nếu thua trận nầy nữa, chắc là phải bán đất vườn sầu riêng trả nợ. Tui nghe rầu thúi ruột!
– Nghĩa là, mình muốn tui phá lệ giao cái “bí truyền thần kê” cho anh Hai?
Vợ chồng Tư, chẳng ai nói với ai điều gì thêm.
Máy tàu ghe dội nước mặt sông văng tiếng ồn ào lên bờ át cả tiếng gió.
Vợ Tư trở vô nhà lo nấu cơm chiều. Tư tử mị lần khân quanh trường gà, chợt rùng mình khi nghĩ đến viễn cảnh cái ngày anh Hai thua độ gà bán đất vườn, trắng tay! Chị và các cháu rồi sẽ sống ra sao, lưu lạc phương nào? Tư chạnh lòng, nhớ má. Sinh thời má thường nói: “Anh em như thể tay chưn, gà cùng mẹ không bao giờ đá nhau. Muốn đá nhau, phải bôi cái mặt”. Nhưng, ngặt nỗi... Tư bâng khuâng hồi tưởng...
Sư kê Ba Cụm mở lời nghiêm khắc:
– Muốn ta truyền bí kíp “Thần kê”, đệ tử phải thề trước Tổ thần kê, rằng: “Sống để bụng, thác mang theo”. Kẻ trái lời thề sẽ “tán gia bại sản”.
Mình lĩnh hội và đã thề. Giờ làm sao mình dám trái lời thề độc ấy?
❖ 2 ❖Trăng đầu tháng Chạp trăng non, vì non nên chưa đủ độ tròn đành khuyết thành lưỡi liềm đeo lủng lẳng trời đông. Trong vườn, bóng tối từ đất chui lên và chui lên rất âm thầm. Tư nằm võng đong đưa trong tâm trạng buồn buồn, một cái buồn nghe chừng hời hợt mà lại thấm sâu. Mẹ góa con mồ côi lúc má còn rất trẻ, không thể một mình nuôi con, má gá nghĩa tào khang với tía; đôi đũa lệch nhau hơn ba chục mùa xuân. Lối xóm đôi lúc có người hỏi cắc cớ: “Sao, má thằng Tư! Được hôn?”. Biết chị em bạn trêu chọc, má cười: “Chồng già, vợ trẻ là duyên ba đời!”.
Đang nghĩ lan man, Tư chợt nghe tiếng hò văng vẳng: Gà tơ xào với mướp già/ Vợ hai mươi mốt, chồng đà sáu mươi/ Ra đường, chị giễu em cười/ Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng! (Ca dao). Rồi, dường như có cái gì than thân, trách phận; tiếng hò tiếp tục trôi bồng bềnh theo dòng: Đêm nằm tưởng cái gối bông/ Giật mình gối phải râu chồng nằm bên/ Sụt sùi tủi phận hờn duyên/ Oán cha trách mẹ tham tiền gả con... (Ca dao).
Mái chèo khua nước sông đêm, thời nào cũng có những mảnh đời trái ngang, đau khổ! Tiếng hò ai đó, động lòng Tư thương nhớ má quá chừng chừng!
❖ ❖ ❖
Thường thì tía rất khó, nhưng có rượu vô lời ra thì tía rất dễ. Mỗi lần vậy, tía hay nói giỡn chơi với má:
– Gà mái đẻ lứa so, không ai cho ấp, vì gà con sẽ giòn lông. Đẻ trứng lứa thứ hai mới đáng nâng niu, gìn giữ vì nó ngon tiền!
Má đương vá quần áo cho con, nheo mắt trêu chọc tía:
– Chớ không phải “gái một con ngó mòn con mắt”!
Tía mắc cỡ, quay mặt chỗ khác:
– Cái bà nầy! Con nghe nó cười!
Thiệt ra, khi Tư khăn gói lên núi Két học nuôi gà đá và đem đá gà nuôi khắp chốn giang hồ, Tư mới rõ: Đúng như tía nói, lứa thứ hai mới thật ngon tiền. Muốn thật ngon tiền, con mái phải xuất thân từ dòng giống tốt, từng danh tiếng; nếu không con mái chẳng ra gì, bầy con rồi cũng phế đi, bởi “gà giống mẹ”. Ở đời, mái tốt, giống tốt mới hy vọng con tốt. Muốn vậy, trống và mái không cùng dòng, không chung huyết thống. Thảng như, chắc chi mái chịu cho trống leo lên lưng xịt lỗ huyệt, một khi nó ngửi mùi và phát hiện trống cùng dòng, chung huyết thống? Gà mái thịt tham ăn, dễ bị trống dụ rồi bạ đâu cho xịt đó. Gà mái đá thì đừng hòng, nó tránh loạn luân chẳng kém loài ngựa. Và, tự mái biết chọn trống nết dữ, rặt nòi, từng là chiến binh thắng trận; khỏe mạnh và không dị tật, với phương châm: “Cha to xương, con lớn vóc”.
Gà mái đá dữ là con gà mái “ghét đau ghét đớn” loại gà trống tối ngày chăm chút bộ lông đuôi sặc sỡ, khoe cái đẹp mã, ru rú quanh xó vườn, lải nhải lời “xảo ngôn” với bầy gà mái, sợ mưa sa bão táp, nắng gió phong trần... Cái mà thiên hạ gọi: “Gà què ăn quẩn cối xay/ Hát bảy đêm ngày chỉ có một câu”.
Sấn sâu vào thế giới gà đá, nuôi nấng và thương yêu nó như chính con mình thì mới thấy bao kỳ thú. Nội cái chuyện gà đá sống chung chuồng ít khi đá nhau, trừ trường hợp nó bị hiếp đáp, bị dồn vào cửa tử thì lúc đó, nó đành phản vệ đá nhau. Dù vậy, nó vẫn biết xấu hổ nên thường bôi cái mặt. Nói chi tới gà đá cùng mẹ sinh ra? Mắt Tư rưng rưng!
– Chẳng lẽ, thằng Tư tử mị nầy thua gà đá?
❖ 3 ❖Thầy Ba Cụm tiễn đệ tử nửa lưng đèo và đọc bài chú bí kíp “Thần kê” để Tư thuộc lòng trước khi rời khỏi núi. Đó là, bài thuốc bí truyền dùng tẩm da gà đá dai, cứng... như áo giáp, bất cứ cựa tự nhiên hoặc cựa sắt chấp nối, cũng không đâm thủng. Tư mần thuốc giấu vợ, vì sợ mắc lời thề. Chờ đêm khuya khoắt, vợ ngủ, Tư lấy vỏ cây bần, vỏ măng cụt, mỗi thứ khoảng hai trăm gam; củ riềng, nghệ xà cừ và củ gừng, mỗi thứ khoảng một trăm gam. Các thứ trộn đều, ngâm ngập rượu đế loại xịn, đậy kín trong hũ; áng chừng một tháng đem tắm da gà. Hết rượu, tắm phèn chua ngày một lần, liên tiếp hai ba tháng... da gà đá là “thuẫn”, “mâu” nào đâm thấu!
Nhớ lời thầy dặn lúc thầy trò chia tay xuống núi, Tư cất công qua đất Cao Lãnh tìm bằng được giống gà mái đá giả chết, “dân anh chị đá gà” gọi Tử mị. Nó thích ngủ dưới đất, kỵ ngủ trên cây. Lúc ngủ, đầu gối lên đất và đưa về phía trước, hai cánh thả thòng hoặc có khi xòe ra hai bên như đang phơi nắng, chưn cái co cái duỗi tưởng rằng gà chết. Lâm trận, mấy hồ đầu đá kiểu “trời ơi đất hỡi”, kẻ bắt kèo yếu bóng vía thì phóng ngay tức khắc, người am tường thì ra kèo chấp “ăn một thua năm”. Song, đến hồ ba hoặc cùng lắm là hồ tư, gà Tử mị ra đòn không đối thủ nào chịu nổi nửa hồ, chiến thuộc về nó.
Người quen gả cho Tư con gà đá Tử mị. Tư mừng hơn được hũ vàng.
Ngày qua ngày, Tư sử dụng bí kíp “Thần kê” đối với gà Tử mị và gà “đấu sĩ” đã làm nên cái hỗn danh Tư tử mị!
❖ ❖ ❖
Gà nhà gáy, gà hàng xóm gáy... xé tan bóng đêm. Trời sắp hừng đông!
Tư tử mị còn trằn trọc thao thức trên võng vì nỗi ám ảnh cái ngày mai của anh Hai trong đấu trường gà sinh tử. Giao bí kíp “Thần kê”, mình mắc lời thề độc; không giao, có khác gì mình muối mặt quay lưng với anh Hai và như vậy, còn tệ hơn cả bôi mặt đá nhau...
Vợ Tư, có lẽ đêm qua thức trắng và cũng trằn trọc, thao thức như chồng. Sân vườn chưa sáng hẳn, vợ Tư đã châm trà mời chồng:
– Uống trà sớm kẻo nguội, chuyện đâu còn có đó!
– Còn có đó cái nỗi gì?
Tư nói nhát gừng.
– Hồi đêm, tui nghĩ ra rồi...
Vợ Tư nói giọng ỡm ờ, ra chiều bí mật. Tư tử mị bụng nôn nóng, nhưng không dám khuấy động bởi Tư rất hiểu cá tính của vợ. Chung sống bao năm, những lúc khó khăn, rắc rối, người đứng mũi chịu sào là vợ Tư chớ không phải Tư. Trong vấn đề nan giải nầy, chắc vợ mình có cao kiến. Tư nghĩ vậy và hoàn toàn tin!
Đột ngột, rất đột ngột, vợ Tư nói:
– Cứ để tui trực tiếp truyền “khẩu quyết Thần kê” cho anh Hai.
Rồi vợ Tư nói chắc nịch:
– Tui truyền bí kíp chớ đâu phải mình, mà mình sợ mắc lời thề!
Quá đỗi ngạc nhiên, Tư nói to như hét:
– Cái gì? Mình nói cái gì?
– Thì, tui nói tui trực tiếp truyền “khẩu quyết Thần kê” cho anh Hai.
Đương ngồi trên ghế đẩu, Tư tuột xuống đứng dậy.
– Làm sao mình biết?
– Thì bao tháng năm tui cận kề, hầu hạ mình... Cái gì của mình, sao tui không biết?
Tư tử mị quay lại ngồi xuống ghế.
– Nhưng, muộn rồi! Thời gian không cho phép và cũng chẳng ủng hộ tụi mình!
Vợ Tư cười, đôi mắt đàn bà quê đen nhánh và tròn như hột nhãn.
– Đấu trường gà Tất niên cuối năm, mình cho anh Hai theo con Tử mị để gỡ vốn liếng thua sạch trong năm. Hoặc giả mình cho anh Hai mượn con Tử mị tham chiến trận đá “đinh” tại đấu trường Chợ Lách.
Tư tử mị thầm bái phục vợ, tự trách sao mình không nghĩ ra.
– Sau tết Đinh Dậu, ngày rộng tháng dài lo gì anh Hai không thực hiện được bí kíp “Thần kê”?
Mặt Tư tươi rói, vụt chạy ra sân và nhảy qua mấy bờ mương vườn.
– Anh Hai! Anh Hai ơi! Sang gấp nhà em uống trà!
Tư réo tới mấy chập, có tiếng “Hì!” đáp lại của anh Hai làm rung những sợi nắng mai!
Mào công mình cốc cánh trai
Quản ngắn đùi dài gà chẳng ngán ai.
(Tục ngữ)