← Quay lại trang sách

HOA GÒN QUÊ NHÀ

Gió đưa nhỏng nhảnh trái gòn

Cô kia da trắng, mặt tròn dễ hun.

(Ca dao)

❖ 1 ❖

Má ít nói nên kiệm lời. Hỏi vì sao? Má bảo: “Hiểu nhau cần gì mượn lời để nói!”. Rồi, má nhấn mạnh: “Ít nói khác nói ít”. Tôi ngơ ngác trước điều má dạy. Má cười, nụ cười hiền như nét mặt Phật ở chùa Hội Thọ tọa lạc đầu xóm. Trời tháng Ba quê tôi, sáng chiều mát, trưa dội lửa đến đỗi chẳng ngọn gió nào dám mon men mò tới.

– Đực! Ra vườn cạy mủ gòn được rồi, đó con!

Có lẽ, má muốn đãi dì Năm ở bên sông vừa bơi xuồng sang chơi uống một bữa mủ gòn, xua bớt cái nóng hầm, bức hập trong người. Má cẩn thận dặn lấy rá đừng lấy rổ đựng mủ gòn. Vì, rá đan lỗ khít, rổ đan lỗ hở. Chừng đó, kinh nghiệm sống tưởng đơn giản nhưng chẳng giản đơn chút nào. Vừa vét mủ gòn cho vô rá, tôi vừa nghĩ ngợi bâng quơ: “Thiên hạ gọi máu mủ, người đời nói “con là máu, cháu là mủ”; dù con hay cháu đều không thoát khỏi tử sinh. Cây có mủ không có máu cũng chẳng là ngoại lệ!”.

– Cạy mủ lẹ vô nhà kẻo nắng, Đực!

Má ngâm mủ gòn pha đường phèn, mời dì Năm uống giải nhiệt, giải khát.

Tuổi thơ tôi trải dài theo hàng gòn trên con đường đất xóm nhỏ. Những chiều nắng phôi pha, gió lắc lư từng tổ chim dồng dộc lơ lửng mắc cành gòn, như quyến rũ những trái gòn khô đong đưa xé bụng nở bông. Tôi thắc mắc hỏi má, vì sao: “Cây gòn cao trật ót, ngó ngút tầm và có khi, cao tới mấy mươi thước vẫn còn cao. Thân to, mấy đứa trẻ vòng tay ôm chưa xuể; vỏ xanh có cây da trơn, có cây mọc gai?”. Mỗi lần tôi hỏi, má nói: “Tới tuổi cần biết, con sẽ biết!”.

Dì Năm ham kể chuyện đời xưa, má thích nghe chuyện xưa đậm chất đời. Tôi tính tò mò, mê hóng chuyện xưa để hỏi nay. Giờ nghĩ lại, một má, một dì, một cháu nào có khác chi kiềng ba chưn. Dì Năm nói:

– Người xứ mình gọi bông gòn, chưa nghe ai gọi hoa gòn...

Ngứa miệng, tôi hớt ngang lời:

– Gọi “hoa” là phạm húy, nha dì!

Dì nói vui nhưng là thiệt:

– Thiên hạ Nam Kỳ cứ gọi hoa, sợ gì thiên tử!

Cây bông gòn đơm nụ và trổ hoa gần cuối mùa Xuân, hoa xòe năm cánh trắng màu đục sữa, nhụy điểm vàng, vòi hoa thò ra cõi thiên nhiên như chực chờ đón nhận hạnh phúc lẫn khổ đau trong trời đất. Hoa sinh trái, đời thuở nào trái sinh hoa và nếu có, chỉ là hột của trái, nhưng dù muốn hay không, hột cũng phải bước qua giai đoạn chuyển kiếp; song chẳng có gì chắc chắn hột nẩy mầm, bởi chẳng có gì chắc chắn hột chuyển được kiếp! Tôi cắc cớ hỏi dì:

– Trong xóm, mấy con nhỏ bạn mỗi lần thấy cánh hoa gòn héo úa thì gọi hoa tàn, sao không gọi tàn hoa, hả dì?

– Hoa tàn để mầm sống bắt đầu, mầm sống đó kết tụ thành trái gòn; còn tàn hoa cũng có nghĩa là rụng nụ, mầm sống vĩnh viễn chết. Và, thế gian nầy, chẳng ai còn được ngắm những trái gòn đong đưa du dương theo gió cuối Xuân đầu Hè.

Những ngày nghỉ Hè, tôi thường theo tụi bạn cùng xóm lượm trái gòn khô. Trời nắng chang chang, cành gòn dù ngang hoặc xéo đều tự mình lặt trụi lá, lượn gió như những cánh diều xa. Trái gòn già vỏ khô tự rụng, không cần người hái. Có khi, trái luyến tiếc cành nên treo mình chịu trận để gió đánh tả tơi vỡ bụng và những sợi tơ trắng mịn, níu chặt nhau nở bông bay trắng trời quê.

– Đực! Đội nón lá ra vườn lượm thêm trái gòn chín rụng đem vô nhà, dì bóc vỏ phụ má con!

Chẳng biết tự hồi nào, chắc là từ lâu lắm, người trong xóm đã ngầm tôn dì Năm lên hàng “quân sư” bởi, dì tích lũy nhiều chuyện xưa, có chuyện thuộc loại “lưu cữu lưu niên”. Rảnh rỗi, má dắt tôi qua chùa Hội Thọ lượm trái gòn chín rụng và dì cũng thường đi theo giúp má tôi một tay trong việc bóc vỏ, lượm hột, lấy bông cho vô bao rồi tặng mấy sư dùng làm gối, làm chăn đắp hoặc xe thành sợi chỉ làm tim đèn dầu thắp.

❖ ❖ ❖

Xóm quê gà trưa gáy rời rạc, tôi lựa gần thúng hột gòn. Dì Năm khen cái thằng hay táy máy tay chưn, coi vậy mà lẹ làng công việc. Thiệt tình nói ra mắc cỡ, đâu mình ên tôi lựa, đã có mấy chú tiểu xúm lại giúp nhiều tay. Má tôi quá hiểu tính nết thằng con nên mần thinh, chẳng nói chẳng rằng.

– Dì Năm, tu hành còn vọng động mong thọ, lại hội thọ nữa chớ! Nghĩa là sao, dì Năm?

Tôi nghịch ngợm hỏi dì. Má rầy:

– Ăn bậy nói bạ tội chết, nha con!

Rồi má day qua nhắc nhở dì Năm:

– Đừng nuông chìu nó, không khéo dì bắc thang cho nó leo…

Dì cười:

– Thà không biết thì hỏi, vẫn hơn cái thằng dốt hay nói chữ rồi nghĩ tầm bậy, gây khổ nhiều người.

Dì đủng đỉnh như trái gòn treo cành lòng thòng đỏng đảnh, khiến ai nhìn cũng thích thú hơn là khó chịu. Dì kể tích xưa:

– Hội thọ trong suy nghĩ của con là tối lòng, hội thọ trong thắc mắc của con là sáng dạ. Chùa Hội Thọ không ngẫu nhiên mà có mặt ở quê mình. Chùa vừa là chứng nhơn, vừa nạn nhơn của bao cuộc biến động khốc liệt đất Gia Định. Có thể nói, tiền thân của chùa Hội Thọ là ngôi đại già lam thuộc hàng bậc nhứt đất Gia Định, được Hòa thượng Đạt Bổn khai sơn vào năm Ất Hợi [31] . Có thể nói, lưu dân tới phương Nam đa phần là người miền Ngũ Quảng, đã cực trăm bề vì lo khẩn hoang kiếm cái ăn, lại khổ vì giặc Xiêm La với Chúa Nguyễn. Rồi, máu và nước mắt mà hầu hết là của dân, loang đỏ đồng đất Gia Định bởi, những lần truy sát của Tây Sơn đối với gia tộc Chúa Nguyễn; những cuộc đối đầu dữ dội, dai dẳng giữa Nguyễn Ánh với Tây Sơn. Dân muốn yên ổn làm ăn nhưng, cái muốn bình dị đó nào có được!

Nghe dì kể tích xưa, lòng con trẻ miên man muốn dịch tuồng cũ. Tôi hãnh diện về mảnh đất Cái Bè ngày trước gọi Trà Lọt, nơi hội tụ nhiều sự kiện lịch sử mà những ai có lòng với đất nước không thể nào quên. Tân Chánh Vương trước lúc lui xuống Ba Vát, từng tá túc và được dân Trà Lọt cưu mang; vàm Trà Lọt hun đúc nên Lê Văn Duyệt và Lê Văn Duyệt đã vào sinh ra tử với Nguyễn Vương!

Tôi giựt mình khi dì Năm nói:

– Ông bà mình truyền lại, rằng: “Hòa thượng Minh Giác đặt tên Hội Thọ tự, mang nội hàm chùa hiện hữu vô hạn trong cái hữu hạn của thế gian”.

Tôi hỏi:

– Hòa thượng Minh Giác khi dời chùa Kim Chương, sao chọn đất Cái Bè?

Dì nói:

– Cái đó dì chả biết. Chắc là tùy duyên và cũng có thể, để giúp nghĩa binh Thiên Hộ Dương đóng ở căn cứ Gò Tháp.

Trầm ngâm một hồi, dì thong thả nói tiếp:

– Biết đâu, đó là việc “thiên cơ bất khả lậu”!

❖ 2 ❖

Ngộ bất cập mới gặp em đây

Hỏi thăm quê quán tổng làng ở đâu?

Nhà em nhà ngói hay nhà lá

Tán lá hay tán cây

Đệ huynh có mấy, tuổi nàng bao nhiêu?

(Hò đối đáp)

Tôi hỏi:

– Dì có hò đáp lại không?

Dì nói:

– Sao lại không! Hễ người đối thì mình đáp, đều cùng một chữ “đờ” (đ) mà ra.

Thấy anh muốn rõ, để em phân tỏ anh tường

Cái Bè [32] em nương ngụ, Cây Gòn em ở yên

Nhà em nhà lá, chống tán lá tán cây

Phụ mẫu em song toàn, em đây vốn thiệt hết lòng

Tuổi chừng trăng tỏ, chỉ hồng chưa nơi

Thân em chân lấm tay bùn

Mặt em khét nắng (mà) anh hun nỗi gì?

(Hò đối đáp)

Hình như, dì đang hoài vọng chuyện tình xưa. Bất giác dì buông tiếng thở dài:

– Việc đời, nhiều phen do “ngộ bất cập” mà nên; như bản thân dì dượng, gặp nhau chỉ là một đoạn sông dài, đôi câu hò đối đáp huê tình trăng nước... Vậy mà rồi, hóa ra buộc duyên ràng phận.

Đương sàng hột gòn để ngâm đổ giá, nghe dì tự bạch, má cám cảnh:

– Tiếng chuông chùa Hội Thọ giúp người dưng lạc xứ tụ quần và nương nhờ nhau sống. Má với dì Năm khác họ nhưng, tối lửa tắt đèn có nhau; đó là, thứ tình làng nghĩa xóm của người Nam Bộ.

Buổi trưa, nắng hắt nóng từ nền sân gạch hậu liêu phản chiếu rừng gòn trụi lá, đứng trầm tư trong thế nhánh trĩu trái quằn cành và cây, bất lực nhìn trái rụng. Má nói cho tôi biết những chuyện tôi cần biết, theo tuổi lớn từng thời gian.

– Tây Sơn “đuổi Nguyễn, diệt Lê, xóa Trịnh và đánh tan tác hai đạo quân xâm lược ở hai đầu đất nước”, dân ghi công và mãi mãi nhớ ơn; nhưng không vì vậy mà họ quên đi cái chết thảm của Tân Chánh Vương, Thái Thượng Vương cùng gia tộc bị hành quyết, dù ở chùa Kim Chương hay ở một nơi nào đó gần chùa Kim Chương…

Dì Năm chen vô chuyện:

– Người Nam Bộ nguyên chất không ăn ở hai lòng, họ rạch ròi thương ghét. Thường thì, lạc lòng trước cảnh thương tâm. Họ “đánh người chạy đi, không đánh người chạy lại”. Và, nếu có rủa sả, trù ẻo kẻ bạc tình, phụ nghĩa thì chỉ rủa sả, trù ẻo lúc kẻ đó còn sống nhưng, một khi đã chết rồi thì họ buông lời “nghĩa tử nghĩa tận”!

Trời bắt đầu có gió từ sông Tiền thổi về, từng chùm trái gòn khô chạm nhau bung vỏ, bông gòn bay nắng bớt xéo xắt chiều quê. Dì nói tiếp:

– Những người cao niên nói thời đó, cây bông gòn Gia Định mọc quanh chùa Kim Chương thành từng mảng rừng; thậm chí nơi sân chùa rộng cả mẫu đất, tự gió gieo hột bông gòn nứt mầm mọc cây thẳng thớm, tàn lá rợp bóng mái chùa. Đêm đêm, dân ở quanh vùng nghe tiếng va chạm binh khí, tiếng voi rống, ngựa hí hòa tiếng khóc thét trẻ thơ... gây ngay ngáy nỗi sợ mọc gai da, dựng tóc gáy cho những kẻ yếu bóng vía. Người ta đồn thổi, trưa trưa thấy hình thù bị lột da chỉ còn trơ hai cây thịt cụt đầu, chuyền cành gòn chạy trốn.

– Nghe nói, phải đợi tới khi chùa sắc tứ Kim Chương mở Đại giới đàn và có lẽ, đây là Đại giới trai đàn đầu tiên nơi đất phương Nam, sau ba năm (1804), kể từ lúc Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, thì chuyện ma rừng gòn quanh chùa mới nhạt dần.

Má nối lời dì nhằm cắt chuyện ma bởi, sợ tâm trí non nớt của tôi bị ám ảnh.

❖ ❖ ❖

Người quê tôi, dù tha phương hay ở lại nhà, cứ mỗi lần nghe tiếng chuông chùa, mỗi khi nhìn cây bông gòn là lòng xao xuyến nhớ ngôi chùa Hội Thọ, nhớ Hòa thượng Minh Giác đã mang hột bông gòn Gia Định về gieo trồng trên đất Cái Bè. Gặp đất lành do phù sa sông Tiền bồi lắng, cây bông gòn lớn như thổi, tán lá che mát đường quê. Người không rành, dễ lẫn lộn hột bông gòn với hột tiêu; tuy cùng màu đen nhưng cái màu đen của hột bông gòn có sức chịu đựng dẻo dai, sức sống mãnh liệt và không dễ bị khuất phục trước phong ba bão táp. Người Gia Định từng ví Nguyễn Ánh như hột bông gòn đen sinh trưởng nhanh và nhanh đến đỗi, dù thân cây bông gòn có bị chặt đứt lìa gốc thì cũng chẳng hề hấn gì bởi, ngay sau đó, những “chồi ngủ” sẽ thức dậy mọc cây. Nguyễn Ánh bao phen chạy rạp người “xấc bấc xang bang” trước sự truy đuổi khốc liệt của Tây Sơn, vậy mà vẫn thoát. Tây Sơn rút đi, Nguyễn Ánh đứng dậy; thiên hạ tin hồn vía gia tộc Nguyễn cùng Tân Chánh Vương, Thái Thượng Vương hóa thân vào cây bông gòn để hết lòng hỗ trợ đứa con trai của Nguyễn Phúc Luân.

Dì Năm nói:

– Dù cây bông gòn có nhiều loại, như toàn thân không có gai, da thấm đậm màu xanh hay da xám nâu lúc tuổi thọ của cây khá cao, toàn thân có gai nhọn cứng, hoặc thân cành không có gai, lá nhỏ và dày thì, cũng chung cùng từ hoa hợp thành bông dày nơi ngọn cành, vòi nhụy nhẵn với đầu nhụy hình đĩa có năm thùy hình răng cưa mà ra và có khác gì nhau. Đùm bọc không hết, sao đang tâm làm tan nát!

Hồi đó, tôi không hiểu hết ý của dì. Sau nầy, mỗi ngày một lớn, tôi mới nghiệm ra và thấm thía xiết bao những điều dì nói!

❖ 3 ❖

Nắng dịu mắt xanh trời Hè châu thổ; từng chùm, từng chùm bông gòn trắng bay khắp xóm như những cánh cò chiều bay về tổ. Dì Năm giục tôi gom dụng cụ sàng nia, rá... gọn gàng. Má đứng lên, nói:

– Chùa sắp vào thời kinh công phu, về thôi con!

Quê tôi mùa Hè rực rỡ lắm, nào là hoa vông màu huyết dụ, hoa phượng màu đỏ như cánh môi son con gái, hoa cóc kèn toe toét nở nụ cười duyên, hoa hoàng hậu có người gọi bò cạp nước khoe sắc vàng óng ánh... Song, hoa gì thì hoa, vẫn không bì kịp hoa gòn trổ trái bông gòn. Bởi, những ngày thiếu gạo đói cơm, nhứt là tháng giáp hạt, bà con xứ tôi thường hái trái bông gòn non chế biến ăn độn thế cơm. Má đẻ tôi thiếu tháng, thiếu sữa, ngoại lấy hột gòn làm giá, ép má ăn sống để có sữa cho con bú. Có khi, ngoại nhờ dì Năm đổ hột gòn vô cối đá dùng chày gỗ đâm hột gòn nhuyễn, rồi pha nước để dành gội đầu hoặc giặt giũ áo quần.

Chùa Hội Thọ dời dạt lần thứ ba nếu, tính từ thời chùa Kim Chương ở Gia Định dời về Cái Bè và đổi tên. Chiến tranh tàn phá những con đường đầy hoa gòn kể cả, rừng gòn nơi nền chùa cũ. Dân trong xóm kẻ tản cư, người trụ lại và dẫu sao, kẻ đi người ở cũng chẳng hề làm cây bông gòn quê sứt mẻ trong tâm thức mỗi người.

– Đưa bao đồ dì xách cho, Đực!

Dì Năm đỡ một tay giúp thằng cháu bớt khệ nệ vai mang tay xách, giữa tiếng chuông chùa ngân ngân dan díu trần gian hay vào chốn hư vô! Tôi nghĩ ngợi rất lung nơi đôi bờ tối – sáng của trời đất. Cái chết của chú cháu Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương và gia tộc, có thật cần thiết để nhằm thu phục lòng người Gia Định quy về một mối? Tại sao cái chết đó, lại là “tại” hay “gần” chùa Kim Chương? [33] Để rồi, sau cái chết của chú cháu cùng gia tộc Nguyễn, chẳng những lòng người Gia Định không quy về một mối với Tây Sơn mà ngược lại, giúp Nguyễn Ánh thêm lực lượng, tạo vây cánh để tháng 1 năm 1780, Nguyễn Ánh quay trở lại Gia Định, tại chùa Kim Chương, Ánh chính thức xưng vương [34] .

– Đực! Tới ngõ nhà rồi sao không vô, còn đứng lớ ngớ mặt mày ngáo chó vậy!

Tiếng dì dội hàng cây gòn, tôi giựt mình và vội hất xách đồ lên vai mở cổng.

Đáng lý dòng suy nghĩ thế cuộc thuộc người lớn để người lớn nghĩ suy; đàng nầy, tôi tài lanh cả ôm vào tâm trẻ của con nít thì sao tránh khỏi “tẩu hỏa nhập ma”. Mặt mày ngáo chó có nghĩa, giống cái ngáo ở bản mặt chó theo cái mùa rượn đực.

Má cầm dì ở lại ăn cơm. Trong lúc ăn, dì gạn hỏi. Tôi chẳng giấu điều suy nghĩ của mình. Dì cười như khích lệ nhưng cú đầu:

– Xưa nay, bạo lực dù bạo lực với kẻ thù, nếu dùng không đúng cách hoặc lạm dụng thì cũng chỉ là, biểu hiện sự yếu đuối và không đủ bản lĩnh tin ở chính mình.

Dì nói thêm lúc vét nồi, cạy cơm cháy:

– Cái ác không thắng nổi cái thiện. Và, cái ác sẽ dội lực ác trở lại kẻ thủ ác dù chỉ mới là trong suy nghĩ!

Má nhìn tôi bằng ánh lo xa.

– Thằng nầy, lớn lên có lẽ gặp bất trắc bởi nhiều lời!

Dì Năm cười muốn sặc cơm:

– Chị khéo lo! Nhiều lời nhưng, lời đầy cảm xúc chơn thật vẫn hơn ít lời mà lời, chỉ là cái xác lời, thôi!

Nhớ ra dại mồm dại miệng, dì hoảng vì sợ má giận:

– Không phải em nói ám chỉ chị, nha!

Má tôi cười vui.

❖ ❖ ❖

Quê tôi bây giờ, cây bông gòn đã tuyệt giống. Hết rồi, những tiếng cười nứt nẻ, những tiếng hự hẹ của hơi thở đàn bà, con nít lết trên thân gòn xanh rị, trơn lu làm cầu bắc qua mương rạch thông lối xóm giềng. Hết rồi, những đêm sáng trăng, bông gòn lãng đãng bay thấp tầng mây; đôi khi, vướng tóc thề chị tôi gánh nước ao làng. Tích xưa mai một dần, còn mấy ai biết để nhớ! Và, có bao chuyện đời, người mang ơn cây bông gòn xứ sở đã lãng quên.

Tôi nhớ má, nhớ dì Năm... Nhớ câu chuyện tình ngộ bất cập của dì qua câu hò đối đáp:

Trèo lên chót vót ngọn gòn

Thấy em gò má trắng, mặt tròn anh muốn hun.

(Ca dao)

Dù phải lòng, dì cũng ỡm ờ như nhụy gòn chờ thụ phấn hoa.

Thân em chân lấm tay bùn

Mặt em khét nắng (mà) anh hun nỗi gì?

(Ca dao)

Chợt dưng, tôi mường tượng hoa gòn trổ trái đu đưa in bóng trên nền cũ chùa Hội Thọ. Và, chiều đong đưa mắc võng trên hàng gòn...