GẠO NẾP QUÊ CHỒNG ❖ 1 ❖
Tiếng trống Sa Dăm “bùm tùng tùng” hòa tiếng chày “cắc cùm cum” đâm cốm dẹp, tạo sự rộn ràng, háo hức quê chồng dì Bảy. Tôi thắc mắc, hỏi dì: “Sao không giã mà lại đâm?”. Dì cười cười, ngó thằng cháu thân xác lớn tồng ngồng nhưng, đầu óc chưa chịu lớn; rồi dì nói: “Gạo muốn trắng thì giã, bánh muốn phồng thì quết, cốm muốn dẹp thì đâm nhưng phải đâm bằng chày”. Dì dừng lại đột ngột, không nói tiếp. Có lẽ, dì ngầm ý xúi thằng cháu tính hay tò mò, tự tìm hiểu lấy.
Năm đó, tôi theo má xuống Bãi Xàu thăm vợ chồng dì Bảy và tôi có dịp lân la đi lại khắp miền đất Sóc Trăng; khi đi với dượng Bảy Thạch Sum, khi đi một mình. Tuổi thơ như mở ra chân trời mới, một chân trời vừa lạ vừa quen; vừa xa xăm cũng vừa gần gũi. Một lần trong bữa cơm, má tôi khen: “Gạo giống lúa gì mà ngon cơm quá, dì Bảy thằng Ba!”. Dì Bảy khoe đó là giống lúa mùa Ba Thắc [30] . Dượng Bảy gốc người Khmer, uống cạn chung rượu theo bữa cơm, tiếp lời dì Bảy:
– Chị Năm chẳng là người xứ nầy, nên không biết đó thôi! Con sông Ba Xuyên thông đất Sóc Trăng chảy ra sông Hậu qua ngõ vàm Đại Ngãi, hồi trước gọi là vàm Tấn đã thuần dưỡng giống lúa Ba Thắc, gạo thơm ngon nổi tiếng khắp Nam Kỳ.
Như thể, chứng minh điều chồng nói, dì Bảy buông đũa, nói ca dao:
Gạo cơm Ba Thắc thơm ngon
Chan nước mắm hòn ăn chẳng muốn thôi!
Nghe vợ nói ca dao “thấu lý đạt tình”, dượng Bảy chẳng nề hà vói tay rót rượu tự thưởng mình một chung tràn bờ nước.
– Đó chỉ là mới nói về gạo thôi, nha chị! Chớ nói về nếp thì, nếp “Nàng Quớt” ăn đứt “Nếp Một”.
Biết má tôi rất đỗi ngạc nhiên, dì Bảy nối lời chồng:
– Dân gian miền Tây sông Hậu có câu: “Gạo Ba Thắc, nếp Nàng Quớt”. Thường thì, người ta chọn nếp Nàng Quớt đâm cốm dẹp cúng Thần Mặt Trăng vào đêm rằm Hạ Nguơn tức tháng Mười. Ở quê chị em mình, không có thứ gạo nếp nầy!
Đất lạ quê chồng, coi bộ em hạnh phúc, má tôi mừng!
❖ ❖ ❖
Thời trẻ ông ngoại theo ba sống nghề thương hồ từ Quán Cửa vô xứ Nam Kỳ. Bởi, như ông ngoại thường nói lúc còn sanh tiền:
Đạo nào vui bằng đạo đi buôn
Xuồng bể lên nguồn, gạo chợ nước sông.
(Ca dao)
Rồi luyến cảnh níu chưn, thương người níu tay nên ông ngoại ở lại Cần Đước vì phải lòng bà ngoại. Nhiều lúc, bà ngoại nói vui:
Rồng chầu ngoài Huế
Ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
Thương người xa xứ lạc loài tới đây.
(Ca dao)
Ông ngoại bạc phước mất sớm, mấy năm sau ngày xả tang ông ngoại, bà ngoại gả dì Bảy về xứ Bãi Xàu cho Thạch Sum, một chàng trai Khmer nghèo nhưng siêng năng và tốt bụng.
Ban đầu, dì Bảy dùng dằng khóc lóc không chịu lấy Thạch Sum. Dì nói, mấy đứa bạn của dì chê rậm rề, rằng: “Người gì đâu to bè, đen đúa trông khác chi cột cháy! Bảy ơi, mầy mà ưng nó, chịu đời sao thấu!”. Dì Bảy làm vợ Thạch Sum, năm đầu dì còn về đôi lần thăm ngoại; năm sau dì không về, ngoại nhớ và ngoại hối thúc má đi thăm em coi sự thể ra sao. Thì ra, bận lo ruộng rẫy và rồi, “ngọt cơm ngọt canh” nên dì quên đường về, chớ chẳng là sao!
Dì tâm sự với má tôi, khen ngoại nức nở:
– Má coi vậy, biết nhìn người và khéo chọn rể!
❖ 2 ❖Nếu gạo nuôi sống và tạo tính cách con người thì nếp dưỡng tâm hồn và làm nên sự nồng nàn cuộc sống.
Ai về thẳng tới Năm Căn
Ghé ăn bánh hỏi Sóc Trăng, Bãi Xàu
Mắm nêm, chuối chát, khế, rau
Tôm càng Đại Ngãi cặp vào khó quên.
(Ca dao)
Dượng Bảy nói: “Quê dượng không nghèo, chỉ có người nghèo vì từ chối mần siêng”.
Rồi dượng kể chuyện mần siêng của tía má:
– Những năm khó khăn, tía má tui đi bạn theo ghe chở lúa gạo đi từ vàm Đại Ngãi vượt sông Hậu, qua Tiểu Cần, tới Láng Thé và rồi, vượt sông Tiền, qua Bến Tre, tới Mỹ Tho... Người chèo thiếu điều muốn hụt hơi, be ghe cũng muốn rã mà vẫn chưa tới bến Bình Đông, Chợ Lớn.
Má tôi nghe muốn ê răng, dượng Bảy kể tiếp:
– Sau đó, tụi Tây đào con kinh Quản Lộ nối Cà Mau – Phụng Hiệp, ghe chở lúa xuất phát Bãi Xàu chèo thẳng mạch lên Ngã Bảy, rồi đi Cái Côn qua Trà Ôn, theo đường kinh Măng Thít ra sông Tiền tới Mỹ Tho. Đường thủy lúc bấy giờ được rút ngắn, tương đối thuận lợi dễ đi cho những đoàn ghe chở lúa gạo có tàu dòng và người bớt vất vả.
Dì Bảy xía vô:
– Ảnh coi bộ dạng kịch cợm vậy, chớ bảnh lắm, nha chị Năm! Mần không than, nhậu không xỉn. Ba thằng đàn ông xứ mình đổi ảnh, em chẳng thèm đổi.
Nghe vợ tâng bốc, da mặt dượng Bảy ửng đỏ pha màu đen nguyên chất, hóa ra màu đồng trông đẹp và chắc nụi.
Lâu ngày gặp nhau, chị em rù rì chuyện vãn sáng đêm; chuyện nọ xọ chuyện kia, hết chuyện nhà tới chuyện mần ăn. Dì khoe:
– Quê chồng dì ngoài đặc sản gạo Ba Thắc, còn các giống lúa chịu mặn và chẳng ngại phèn, như: Một Bụi, Móng Chim, Thằng Chệt Dài, Thằng Chệt Cụt... Chẳng những gạo thơm ngon mà năng suất lúa còn cao gấp đôi ba lần so với chất lượng gạo và năng suất lúa ở quê nhà.
Má nghe dì nói, mê lắm! Nghĩ bụng, chắc là phải nhờ cậy dượng Bảy lựa cho một mớ giống lúa, mang về gieo cấy ở Cần Đước coi sao!
❖ ❖ ❖
Trước lúc trở lại Cần Đước, dì Bảy tỉ mẩn chỉ má cách đâm cốm dẹp. Dì căn dặn thiệt kỹ:
– Chị dùng nước sạch, nếu nước mưa thì càng tốt; ngâm nếp áng chừng sáu bảy canh giờ và sau đó, rút sạch rồi lấy vá vớt nếp hong gió ráo nước. Nếp đổ vào nồi rang và nếu được nồi đất là ngon tiền. Chị nhớ để lửa vừa vì, lửa nhỏ hạt nếp sẽ dính nhau, lửa to hạt nếp sẽ khô. Lúc rang nếp, tay cầm cây rang phải liên tục đảo đều cho tới khi hạt nếp vàng, nổ giòn thì trút nếp ra cối.
Buổi trưa Bãi Xàu êm ắng, gió biển ru gió đồng nội thiu thiu khiến vạn vật như buồn ngủ. Tôi bụm miệng ngáp mấy cái, cố tỉnh để hóng chuyện. Dì Bảy nhổ tóc sâu cho má và nói tiếp:
– Cũng có khi hạt nếp nổ không nhiều, gặp trường hợp nầy, chị cho nếp vô túi vải hình vuông rồi đâm đều tay độ năm bảy phút. Coi đơn giản vậy nhưng, cần ba người mần ra một mẻ cốm dẹp.
Má hỏi dì:
– Sao cần tới những ba người?
– Thì, hai người đứng cầm chày gỗ đâm vã mồ hôi chớ chẳng chơi, một người ngồi giữ túi và canh hạt nổ đều. Sau cùng, chị dùng cái nia sàng tấm cám còn bám hạt cốm dẹp.
Dượng Bảy nằm võng nhắc tuồng vợ.
– Mình nói còn sót!
Không đợi vợ lên tiếng, dượng ngồi dậy nói một hơi:
– Phải lựa nếp còn son nghĩa là hạt còn non. Muốn vậy, cần cắt lúa nếp sớm khoảng mười ngày trước khi chín. Nếu không, cốm sẽ chẳng dẹp như ý, mất hẳn hương vị đậm đà thôn dã.
Và, dượng nói thêm phần phụ gia không thể thiếu: cơm dừa khô nạo, đường cát, nước dừa rám... trộn rắc đều lên cốm dẹp. Chưa được ăn, miệng đã thấy thòm thèm, tôi hỏi:
– Xứ ngoại không có nếp Nàng Quớt, cốm dẹp làm sao ngon hả dượng?
Má rầy tôi nói leo, dượng Bảy cười xí xóa.
– Thì, dì Bảy của cháu là Nàng Quớt đó!
Tôi ngớ người, không hiểu nhưng, khi dượng nói huỵch toẹt, tôi hiểu ra là dượng đã chuẩn bị bao giống lúa nếp Nàng Quớt để má đem về Cần Đước gieo cấy mùa sau gầy giống.
– Không có dì Bảy mần dâu Bãi Xàu thì dễ dầu gì, má con mình vác Nàng Quớt về xứ!
❖ 3 ❖Tháng Mười, mưa Bãi Xàu có khi ào ào đột ngột rồi tạnh rất mau, nắng ráo. Cũng có khi, trời gầm gừ bắt nạt rồi tỉnh khô, chẳng mưa. Nhà nông Bãi Xàu chẳng biết đâu mà lần. Do đó, hằng năm xong vụ mùa gặt, mọi người hớn hở, nô nức chờ đợi cúng “Thần Trăng” bằng lễ vật cốm dẹp nếp Nàng Quớt, vào ngày rằm tháng Mười như một biểu tượng tạ ơn và cầu mưa thuận gió hòa.
– Bãi Xàu chỉ là tên tục truyền khẩu, không có khai sanh cầu chứng tại tòa. Theo ngữ nghĩa nào đó, nếu Mỹ Xuyên là dòng sông đẹp thì, người Thủy Chân Lạp gọi Bãi Xàu là “Bay Chau”, xứ cơm sống.
Dượng Bảy bung vành sự thắc mắc trong lòng má, dượng nhâm nhi chung rượu chiều với nỗi cảm hoài xứ sở cũ. Nàng Chanh hay Nàng Quớt và theo truyền thuyết xưa, nàng vốn là cung phi giam má hồng trong hoàng cung vua Thủy Chân Lạp. Một đêm, nàng trốn theo trăng mong thoát “phận má hồng”. Vua Thủy Chân Lạp nộ khí xung thiên, truyền thủy binh dong thuyền rượt theo giết cho kỳ được. Bất chợt mây che trăng, nàng mất lối chạy ra biển và đành tạm dừng nơi giáp nước, chỗ mô đất gò để nấu cơm. Gạo chưa chín thành cơm, thuyền quan binh rượt nà tới, nàng tiếp tục chạy và bỏ lại nồi cơm sống; dọc đường nàng trút bỏ tất cả tư trang. Khi trăng vén được mây thì, nàng đã đuối sức và cùng đường. Không một lời oán hận, nàng nhìn trăng ứa lệ. Những mũi giáo oan nghiệt của quan binh đã đâm thủng trái tim nàng, từng giọt máu rớt mặt sông loang loáng ánh trăng. Sau nầy, nơi con sông nàng chết người đời gọi vàm Nàng Chanh, lâu ngày nói trại ra Mỹ Thanh. Nơi nàng bỏ nồi cơm sống gọi là Bay Chau, lâu ngày nói trại ra Bãi Xàu. Chỗ liệng bỏ cái ống nhổ bằng vàng gọi là Cần Tho, lâu ngày nói trại thành Dù Tho(?!) Đặc biệt, sau cuộc tang thương đó, người quanh vùng lượm được bọc lúa mà nàng mang theo làm lương thực trên đường chạy trốn. Giã lúa thành gạo nhưng, không là gạo. Bởi, hạt quá mềm dẻo nên nhà nông gọi nó là nếp.
Số mạng của nàng không nghịch nổi ý trời và trăng thì, cũng đành bó tay. Bao dự tính theo trăng chạy trốn của nàng đều trớt quớt!
Má thở dài sau câu chuyện đời xưa dượng Bảy kể.
❖ ❖ ❖
Đêm Bãi Xàu dài thậm thượt!
Sớm mai, má con giã từ dì dượng Bảy về Cần Đước. Tôi thao thức vì ám ảnh chuyện nàng cung phi và tự dưng nhớ:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
(Chinh phụ ngâm)
Có lẽ, cảm thương nàng cung phi kia, người Sóc Trăng gắn nghịch cảnh của nàng vào giống nếp dẻo mềm, ngon lạ thành tên lưu truyền trong dân gian: “Nếp Nàng Quớt”! Và bây giờ, tôi ngờ ngợ đoán ra vì sao người ta nói “đâm” mà không nói “giã”, “quết”!
Tiếng còi tàu khách xé không gian đêm rớt lả tả cầu tàu Bãi Xàu, nơi một thời từng là thương cảng lúa gạo hưng thịnh bậc nhứt Tây Đô.
– Trai Nam Kỳ chưa uống rượu Ba Xuyên thì, chưa đích thực loại Kỳ Nam, nha chị Năm!
Dượng khoe rằng, rượu Ba Xuyên làm từ gạo nếp thơm ngon với đặc trưng dân bốn phương tụ về, sống chan hòa trong cộng đồng Việt, Khmer, Hoa, Chăm... Một thứ rượu cay đắng đối với kẻ “tham phú phụ bần”!
Dượng Bảy nói oang oang, thiếu điều ngọn đèn chong soi đường ra bến tàu muốn tắt. Dì Bảy khệ nệ gánh gạo nếp, bồng rượu về ngoại và chòm xóm ăn uống lấy thảo.
Lúc tàu sắp tách bến, dì nắm tay má bịn rịn và chắc là, dì muốn nhắn gửi ngoại nhiều điều nhưng do xúc động, dì đứng chết trân, rưng rưng nước mắt. Má cố cười, nụ cười xoa dịu nỗi nhớ quê của em khi lấy chồng xa xứ.
Dù lăng xăng phụ má chuyển đồ đạc xuống tàu, dượng Bảy vẫn không quên căn dặn má nhớ nói lại với ba, rằng: “Người em cột chèo luôn mong đợi anh Năm quá bước tới Bãi Xàu chơi một chuyến”. Rồi dượng hò:
Ngó lên trời mưa sa lác đác
Ngó xuống đất hạt cát nằm nghiêng
Rượu Ba Xuyên rót đãi người hiền
Trước là đãi bạn sau giải phiền cho anh.
(Ca dao)
❖ ❖ ❖
Đêm Bãi Xàu chưa kịp sáng!
Má vội nghiêng nón lá giấu nước mắt và dường như, có tiếng dì Bảy nói vói theo, tôi nghe loáng thoáng:
– Chị ơi, gạo nếp quê chồng em...
Hồi còi tàu nhổ neo. Bóng dì chìm dần trong sương...
Gió đưa nhỏng nhảnh trái gòn
Cô kia da trắng, mặt tròn dễ hun.
(Ca dao)