← Quay lại trang sách

Chương 2

Mùi nhang trầm trên bàn thờ, mùi

dầu phụng phảng phất trong không

gian át đi mùi thơm của hoa bưởi.

Khu vườn lớn nhất nằm giữa cù lao mà Tư Ngồng đang sở hữu, theo lời nhà thơ thì ba trăm năm trước là khu vườn của tổ tiên ông, dòng họ Trương Phước. Sau nhiều lần đổi chủ, khu vườn trở về với cha của Tư Ngồng, hậu duệ của dòng họ Trương Phước. Ông Trương Phước Tư, tên là Tư chứ không phải thứ tư, vì ông là con trai duy nhất. Từ năm mười lăm tuổi, ông đã cao lớn chồng ngồng, nên có biệt danh là Tư Ngồng.

Nhà thơ cũng đưa ra lời tiên đoán rằng, ông là người cuối cùng của dòng họ Trương Phước và là người tạo ra biến động lớn lao nhất cho vùng đất hình lưỡi dao này.

Mười tám tuổi, Tư Ngồng có bằng tú tài toàn phần. Ông là người thừa kế duy nhất của vườn bưởi lớn nằm bên bờ sông Thanh Long. Mẹ ông bỏ ra mười lượng vàng để Bảy Tánh lo cho cái giấy miễn quân dịch, nhưng đùng một cái, ông nhảy núi theo cách mạng. Mẹ ông buồn rầu khóc hết nước mắt, nhưng chẳng thể nào cản được ông.

Bà âm thầm lo lót cho gã trung sĩ cảnh sát Bảy Tánh và thông qua bà Năm Trầu tiếp tế cho con trai. Khi bệnh nặng, bà gởi khu vườn lại cho bà Năm Trầu cai quản chờ con trai bà về giao lại cho nó. Tư Ngồng quay về cù lao tiếp quản, khu vườn vẫn xanh tốt, bưởi vẫn trĩu quả. Ông trở về trong đoàn quân chiến thắng giữa rực rỡ cờ hoa, nụ cười luôn nở trên gương mặt, dáng cao to, trắng trẻo, ông nổi bật giữa trùng trùng màu xanh áo lính, vợ ông ẵm con đi cuối đoàn người, chị cũng cười tươi, dù đôi mắt vẫn buồn thăm thẳm.

Chị đang ngồi tụng kinh, giọng đều và buồn bã, mùi nhang trầm trên bàn thờ, mùi dầu phụng cháy dưới quan tài phảng phất trong không gian át đi mùi thơm của hoa bưởi. Bà Năm Trầu tất tả sai khiến đám đàn bà chuẩn bị bữa cơm khuya, để những người đàn ông canh thức ăn đêm, họ quần tụ bên mấy sòng bài và các bàn cờ tướng mặt mày đỏ gay vì sát phạt. Không ai đoán được tuổi của bà già ăn trầu này, ba mươi năm nay, hoặc lâu hơn nữa, người ta thấy bà già này vẫn vậy, vẫn ăn trầu, vẫn bà ba đen, vẫn khăn rằn quấn cổ và vẫn nhanh nhẹn dẫn đầu đám đàn bà con gái trong cù lao.

- Bảy Tánh, mây nhớ mổ bụng con gà cho khéo, tréo cánh cho đàng hoàng để cúng cơm cũ mơi, mây có biết làm gà cúng không? - Bà ra lệnh cho gã đồ tể.

- Má cứ lo, con là dân mổ bụng chuyên nghiệp.

- Mây mà mổ cái bụng toạc hoạc theo kiểu mổ heo thì mây mang dể ăn luôn đi.

- Dạ con biết rồi thưa bà tướng. Mà này má Năm ơi, cô Ba Thược không qua hả má?

- Nó chạy qua bên Lộc Hòa đặt mấy cái nhà lầu, xe hơi cho thằng Tư Ngồng rồi.

- Mua chi tới mấy cái lận?

Tư Nghĩa đi tiểu sau vườn vừa vào tới, đùa với Bảy Tánh:

- Mai mốt tới phiên chú Bảy, má nhớ biểu chị Ba mua thêm mấy cô gái nữa.

- Thế còn chủ tịch thì gởi xuống mấy cái sừng hả?

Ý Bảy Tánh châm chọc chuyện vợ Tư Nghĩa bị bắt quả tang về tội ngoại tình rồi bỏ nhà theo trai qua sống bên thành phố Lộc Hòa. Tư Nghĩa đỏ mặt, tính tìm câu hiểm để trả đũa gã lái heo, bà Năm Trầu mắng át đi:

- Bây đừng giỡn nhây, Bảy Tánh lẹ tay lên, thằng Tư Nghĩa dô trỏng dới anh em đi.

Không biết bà Năm Trầu ở cù lao từ thời nào mà nói tiếng Nam rặt, vô thành dô, trong kia thành trỏng.

Tư Nghĩa hậm hực bỏ đi, anh vừa tức gã đồ tể Bảy Tánh, vừa tức bà Năm Trầu, đường đường là chủ tịch xã, ở trên ủy ban anh oai phong lắm, mà hễ cứ đến đám ma hay các hội hè trên cù lao, là anh phải chịu lép với bà Năm Trầu. Ở những chỗ ấy, bà Năm Trầu thực sự là người chỉ huy, dân cù lao chỉ nghe bà già ấy. Bà như quỷ thần, cái gì cũng biết, cũng sắp đặt đâu vào đó.

Bảy Tánh quệt bàn tay dính máu gà vào quần, hỏi bà Năm Trầu:

- Ủa mua chi xe hơi, nhà lầu hả má?

Bà già, nhổ bãi nước trầu, chép miệng:

- Tội nghiệp! Ở trên này thằng Tư Ngồng sống sung sướng quen rồi, xuống dưới không có xe đi thì khổ lắm.

- Sao đồ mã hồi trước người Tàu làm ngựa mà bây giờ toàn xe hơi?

- Thì thời thế tuy có đổi thay, nhưng dương sao âm dậy, bây giờ ai đi ngựa nữa, ngay cả giấy tiền dàng bạc, người ta cũng thay bằng đô la đó mây không thấy sao?

Bảy Tánh nhớ hôm liệm Tư Ngồng, chủ tịch xã Tư Nghĩa biểu cạy miệng ông ra bỏ vào đó chỉ vàng, bà Năm Trầu dứt khoát không chịu, bà nói phải bỏ vô bảy hột gạo theo tục lệ của tổ tiên, không được cho ngậm vàng. Bảy Tánh hỏi bà Năm:

- Má hiện đại vậy, sao hôm liệm Tư Ngồng má lại không cho thằng Tư Nghĩa bỏ vàng?

- Bây đầu xanh tuổi trẻ biết gì? Dàng là của cải trần gian, gạo mới là hột ngọc của trời, người xưa ngậm ngọc, chứ ai ngậm dàng bao giờ, tuy thời thế đổi thay, nhưng có cái cũng phải giữ theo nếp cũ của cha ông.

- Chà, má thiệt giỏi!

- Thôi mầy dể bắt mấy con heo làm thịt đi để mơi đãi các quan khách trên tỉnh với trên nhà nước về. - Bà Năm Trầu vẫn quen gọi các cán bộ trung ương là nhà nước.

Bảy Tánh băng vườn về nhà, chuẩn bị mổ heo. Gà eo óc gáy báo hiệu bước qua canh một, ánh trăng mờ dần, tiếng gõ mõ tụng kinh của ni cô Diệu Lan vẫn đều đều xen lẫn tiếng cười nói của chiếu bạc, tiếng cãi nhau của bàn cờ tướng, một thứ âm thanh đặc trưng của đám ma Nam bộ. Khi ni cô Diệu Lan ngừng tiếng mõ, thầy giáo Nguyễn Hữu Trí kéo đờn cò hát Lục Vân Tiên:

Diệt rồi lũ kiến chòm ong

Hỏi ai than khóc ở trong xe này

Thưa rằng tôi thiệt người ngay

Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ...

Nhà thơ ngồi trầm ngâm bên gốc bưởi trước sân, trong mùi hương trầm váng vất, trong tiếng đờn cò nỉ non, anh nhớ tuổi thơ của mình.

Quê anh có ngôi nhà thờ nhỏ nằm cạnh nghĩa địa bên bờ sông, con sông nghèo nàn và trong vắt, chứ không như dòng Thanh Long ắp ứ phù sa. Sau này, đi nhiều nơi anh mới biết ngôi nhà thờ không lớn lắm, chứ lúc ấy, đối với anh đó là ngôi nhà kỳ vĩ nhất. Ở đó chim sẻ nhiều vô kể, chúng sinh sôi nảy nở, làm tổ dày đặc trên nóc nhà thờ. Mỗi trưa trốn ngủ, anh rủ Chi băng đồng để trèo lên nhà thờ bắt tổ chim. Vị linh mục già nua, luôn ngước nhìn hai đứa trẻ với đôi mắt buồn bã. Có lần anh đánh rơi một con chim non từ nóc tháp chuông xuống đất. Con chim bị vỡ đầu, ngực còn thoi thóp thở. Linh Chi nâng con chim nhỏ trên bàn tay bé bỏng, khóc nấc. Vị linh mục cúi xuống vuốt đầu em tỏ vẻ thông cảm. Hết bắt chim, cả hai thơ thẩn xung quanh nhà thờ. Có khi anh theo Chi vào bên trong, quỳ trước mặt tượng Đức Mẹ Maria. Anh len lén nhìn vẻ mặt thành kính của Chi, anh thấy em thật đẹp. Năm đó anh mười ba tuổi, cái tuổi mà anh bắt đầu có khao khát sẽ đi ngược dòng sông. Buổi sáng mùa đông mưa phùn xám trời, Chi rủ anh đi theo một đám ma vào trong nhà thờ, thấy mọi người khóc, Chi cũng khóc theo. Còn anh, anh tỏ ra ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao người ta lại khóc nhiều đến thế?

Đám ma của Tư Ngồng anh chưa nghe tiếng khóc, kể cả ni cô Diệu Lan, người đã từng là vợ ông.

Tư Ngồng cũng biết điều đó, không ai khóc, trừ bà Năm Trầu. Bà già là người duy nhất khóc cho ông, dù nước mắt của người già không nhiều. Ông kịp thấy giọt nước mắt hiếm hoi ấy trước khi ánh trăng dẫn ông đi.