← Quay lại trang sách

Chương 3

Chuyện kể của nhà thơ:

...Lưỡi dao được rèn từ sắt trong bụng của con

rồng đất và ngâm trong máu của ngàn trinh nữ.

Vùng đất nơi xảy ra cái chết của Tư Ngồng, trước kia, có nghĩa là từ xa xưa lắm rồi, là lãnh thổ của một vương quốc cực kỳ văn minh và hùng mạnh. Con người ở xứ này biết buôn bán giao lưu với các nước lân bang, bên cạnh sự phồn thịnh và giàu có họ còn sở hữu những bí quyết luyện các pháp thuật và họ biết sử dụng những điều thần bí vào đời sống. Nhà thơ khẳng định họ cũng là người Việt, trong nhóm Bách Việt di dân từ Tây Tạng đợt đầu tiên xuống phương Nam và lập ra vương quốc ở đây. Bao biến động lịch sử làm thay đổi vùng đất này, nhưng những người dân vẫn là dân Việt, chứ không phải đến khi Trần Tướng quân đến đây vùng đất này mới có người Việt.

Công của Trần Tướng quân là đã tạo ra một thương cảng sầm uất. Dân Việt không coi trọng chuyện buôn bán, những người Hoa theo chân Trần Tướng quân đến đây đã nhanh chóng khai thác nhược điểm của dân địa phương. Mua một bán mười, những người Hoa phất lên như diều.

Một người ngoại quốc đến xứ này từ những ngày đầu hình thành cù lao đã mô tả cách buôn bán đầy gian xảo của người Hoa: Nếu có cơ hội lường đảo là họ lường đảo ngay, khó có thể đối phó với những mánh khóe của họ. Khi người ta bán cho họ cái gì mà họ thấy thị trường không có lợi, họ sẽ trả bằng loại bạc kém chất lượng, thế là toi công chở hàng đến đây mà không bán được. Thật ít thấy nơi đâu trên thế giới có hạng lái buôn tinh ma như vậy.

Với nhiều mánh khóe trước đám dân địa phương thật thà nên họ nhanh chóng giàu có. Có tiền lập tức thành người cai trị, những người dân địa phương bắt chước đám dân chúng của Trần Thượng công, nên họ tỏ ra sùng kính, họ không dám mặc màu áo của ông ta, họ không dám làm khác điều ông ta đã làm.

Những người dân đi theo Trần Tướng quân đã mang tới xứ này rất nhiều nghề thủ công, trong đó có một số người giỏi nghề đục và tạc những pho tượng bằng đá.

***

Buổi sáng, khi mặt trời vừa lên khỏi ngọn núi Hắc Long, Trần Thượng công gỡ cánh tay nuột nà của người vợ mới, một cô gái trẻ dân bản xứ mà ông vừa cưới, sau gần hai mươi năm đến cù lao. Ba người vợ cưới tại cố quốc mà ông mang theo, đều không có con trai. Ông vươn vai choàng lên người chiếc áo màu đỏ quen thuộc và bước ra sân. Bữa điểm tâm đã được dọn sẵn. Tráng miệng xong bằng múi bưởi đường ngọt lịm, ông ra lệnh:

- Hãy mang ngựa đến cho ta!

- Bẩm ông đã sẵn sàng.

Gã người hầu mặc áo chẽn màu lục vừa khúm núm trả lời vừa phẩy tay ra lệnh cho gã mã phu đang đứng chờ sẵn ngoài sân. Con ngựa đực còn tơ với bộ lông màu tía, đã được đóng yên cương hướng về phía mặt trời hí một tràng dài. Trần Tướng quân lên ngựa, con ngựa rảo những bước chân êm ái đi về phía dòng sông. Khi còn ở trên thuyền ông đã nhìn thấy vùng đất này có thể đất hình con rồng. Dọc bờ sông những bụi gừa buông rễ trắng xóa, lũ chim tranh nhau ăn trái chín, cá quẫy ì oạp tạo ra âm thanh hiền hòa và dịu ngọt. Ông nhớ những ngày khói lửa trên quê hương ông. Từ thời thơ ấu cho đến khi trưởng thành, ông luôn sống trên lưng ngựa. Khi còn nhỏ xíu ông được cha mang theo ra chiến trường, dạy cho ông đánh trận, tập cho ông đối diện với sự chém giết, ông chẳng thích thú gì những cảnh tượng ấy. Nhưng sinh ra thời chiến mà không biết cách chiến đấu sẽ khó mà sinh tồn. Quê ông nghèo, đồi núi trập trùng, lương thực chủ yếu là những bụi cao lương căn trên sườn núi. Dân chúng phải nhọc nhằn mang từng gùi đất lên bỏ vào hốc đá để trồng cao lương. Những hạt cao lương làm thành những cái bánh bao nhỏ và đen. Chỉ có những gia đình quý tộc như gia đình ông mới có cơm ăn, còn dân chúng chủ yếu là ăn cháo và bánh bao đen. Đến phương Nam ông ngạc nhiên với sự phung phí lương thực của dân chúng, họ nấu những nồi cơm to tướng, ăn không hết trộn với rau nuôi gia súc, họ sử dụng đôi đũa khá thành thạo. Ông nhớ ngày xưa cha ông nói; việc phát minh ra đôi đũa là một trong những tiến bộ trong đời sống ẩm thực của người Trung Quốc. Điều này cần xem xét lại - ông nghĩ vậy - Tại sao người Trung Quốc cần phải phát minh đôi đũa để làm gì trong khi những thức ăn của họ không cần đến đôi đũa.

Không! Đôi đũa chính là phát minh của các dân tộc có nền văn minh lúa nước ở phương Nam. Quá trình đô hộ một ngàn năm thì không có phát minh nào có thể còn thuộc về các dân tộc bị đô hộ. Từ lý thuyết về đôi đũa ông nghiệm ra điều ấy, có lẽ người Việt không chỉ mất có đôi đũa. Suy tư về xứ sở này, ông cay đắng nhớ lại sự cai trị của người Mãn trên đất nước ông. Cho dù các ông vua của nền văn minh du mục, trên các thảo nguyên mênh mông phía Bắc có tài giỏi đến mấy, thì cách sống của họ cũng khác xa Hán tộc, ông không thấy cái bím tóc có gì là đẹp. Rồi đây khi những kẻ tiếm quyền hùng mạnh thì những phát minh của Hán tộc sẽ thành của Mãn tộc, đó là quy luật xâm lăng. Ở miền đất khoáng đạt mà ông đặt chân đến không quá câu nệ những tiểu tiết trong đời sống. Họ kiếm lương thực quá dễ dàng nên trong cuộc sống họ đối xử với nhau rất dễ dãi. Trai gái đùa giỡn ngoài đồng, trong những căn chòi giữ vịt bên sông. Thậm chí họ có thể qua đêm với nhau một cách hồn nhiên. Họ dễ dàng tiếp nhận cái mới, ông dạy họ những lễ nghi của dân tộc ông, họ nghe nhưng không làm theo hoàn toàn, họ chỉ thực hành những điều chính yếu mà họ cảm thấy hợp với phong thổ và tập tục. Ông yêu mến lòng hiếu khách và sự hồn nhiên của họ.

Lẽ ra ông có thể hưởng cuộc sống an nhàn ở cái xứ đẹp đẽ này, nếu trong đầu ông không nóng bỏng ý nghĩ phục thù. Ông không thể nào chịu nổi bọn mọi rợ phương Bắc lại có thể cai trị đất nước ông, cai trị dòng dõi chính thống của ông. Xứ sở này quá đẹp, ông không hiểu sao Chúa Thượng phương Nam lại bỏ hoang và sẵn sàng ban cho ông. Ông nhớ lại những ngày đầu đặt chân đến đây, ông đã tốn bao nhiêu xương máu của những tên cận vệ trung thành để chiến đấu với thú dữ và bọn thổ dân. Ông còn nhớ những người dân địa phương hát rằng:

Đến đây xứ sở lạ lùng,

Dưới sông sấu lội trên giồng cọp um...

Rất nhiều cọp, chúng nhởn nhơ ngoài đường như lũ mèo hoang, vô người nhẹ nhàng như vô con chuột nhắt.

Ông còn nhớ lời viên cận thần trẻ tuổi của vị Chúa phương Nam, khi ông xin tá túc xứ này:

- Tâu Chúa Thượng! Họ đến đây rất đông người và tàu chiến. Người Hoa vốn không đáng tin cậy. Tuy nhiên, nếu không chấp nhận họ dễ nổi loạn, sẽ làm ta hao binh tổn tướng. Xin Chúa Thượng hãy cho họ đến khai phá vùng đất mới rồi ta sẽ đến cai quản sau.

- Chuẩn tấu!

Vị Chúa phương Nam gương mặt cương nghị và hiền từ nói với viên cận thần trẻ tuổi:

- Khanh thông dịch lại cho họ rằng, ta rất vui lòng đón tiếp họ, nhưng đất kinh thành quá chật hẹp, cho phép họ vào định cư tại miền đất mới ở phương Nam. Họ cần phải giữ lòng trung thành với triều đình.

Viên cận thần dịch xong, tấu trình bằng tiếng phương Nam:

- Muôn tâu Chúa Thượng, họ rất vui lòng và biết ơn chúng ta, họ hứa sẽ trung thành.

Anh ta biết rõ là ông biết tiếng Nam, đủ để hiểu lời tấu trình. Anh ta tấu trình bằng lời lẽ khá trịch thượng, ông buồn, nhưng tự an ủi, dù sao ông cũng chỉ là kẻ “ăn nhờ ở đậu”, ông chẳng sợ gì gian khổ hay bị coi thường. Trước khi tiễn ông lên tàu ra khơi, viên cận thần trẻ tuổi mời ông về tư dinh để cùng ông đàm đạo văn thơ và địa lý, ông kinh ngạc với kiến thức uyên bác của anh ta. Ông có thiện cảm khi hiểu được lời tấu trình của vị cận thần, có thiện ý muốn Chúa Thượng chấp nhận ông. Trước khi ông cập bến với đoàn quân vài ngàn con người, Chúa Thượng tỏ ra không hài lòng, dân tộc này và dân tộc của ông vốn có mối thù truyền kiếp. Viên cận thần kể cho ông nghe, mỗi khi có vị Chúa mới lên ngôi, dân chúng làm lễ ăn thề rất lớn và trong lời thề của họ là kề vai sát cánh với Chúa để chống lại kẻ thù chung là Trung Quốc. Họ không coi Đàng Ngoài là kẻ thù, dù hàng năm hai bên vẫn có chiến tranh. Đối với họ, chỉ có quân xâm lược mới là kẻ thù đáng sợ nhất, chứ những cuộc nội chiến chỉ là sự bất hòa giữa anh em trong nhà với nhau. Sau mỗi lần tranh chấp hai bên đều làm lễ cầu siêu cho những người lính cả hai bên đã ngã xuống.

Ông còn nhớ, cha ông đã kể cho ông nghe về xứ này: “Ngày xưa tại vương quốc cổ phía Nam Đại Việt do một nữ hoàng cai trị. Nữ hoàng sở hữu lưỡi dao kỳ dị do một thuật sĩ từ xứ Thiên Trúc qua, lưỡi dao được rèn từ sắt trong lòng của con Rồng đất và ngâm trong máu của ngàn trinh nữ, đó là lưỡi dao mang đến quyền lực bí mật cho chủ nhân của nó.”

Lưỡi dao nằm đâu đó trên dải đất rộng mênh mông và cong như hình hài của một mỹ nữ, ông mỉm cười vì sự so sánh đẹp đẽ này. Giá như ông có thể tìm được lưỡi dao ấy, ông sẽ quay về phục quốc.

Đang miên man suy nghĩ, ngọn núi Hắc Long đã hiện sừng sững ra trước mắt, gương mặt ông thoáng buồn vì ngọn núi như đầu con rồng lại hướng về phương Nam. Như vậy có lẽ nghiệp phục quốc của ông sẽ khó mà thực hiện. Ông cột ngựa vào gốc cây bằng lăng và chậm rãi trèo lên đỉnh núi. Cuộc truy hoan với người vợ mới làm cho gối ông hơi run khi ông cố rướn lên mỗi khi trèo. Dưới chân núi là cả rừng tre, đám dân địa phương chặt tre chan chát, họ vừa chặt vừa hát:

Tre xanh

tre xanh xanh

anh chặt

anh đốn

anh đan mành, phơi bánh nuôi quân

tre xanh xanh

tre đánh giặc

tre làm nhà...

Họ hát say sưa bài hát với lời lẽ ngô nghê khiến ông mỉm cười. Ông lên đến đỉnh núi, từ trên cao nhìn xuống, dòng sông mà dân địa phương gọi là Bù Cháp đang uốn lượn như thân của con rồng, ôm dọc sườn núi. Ngọn núi sừng sững, trên đỉnh, dòng thác tung bọt trắng xóa là đầu rồng, ông phát hiện bên cạnh rừng tre có núi đá nhỏ nhấp nhô như đám vảy bạc dưới cuống họng của con rồng. Ông đưa mắt nhìn về phía cù lao, nơi đoàn quân, dân của ông đang buôn bán tấp nập. Ông khẽ rùng mình, cù lao như hình lưỡi dao chọc thẳng vào tim con rồng, hèn gì dân địa phương gọi là cù lao Dao.

Rừng tre lấp lóa nắng, bỗng xuất hiện một kỵ sĩ áo trắng thắt chẽn màu lục đeo thanh kiếm sáng lóa, thả nước kiệu giữa hai hàng tre, gương mặt trắng trẻo, trông chàng giống như một thư sinh hơn là chiến binh.

Khi người ấy lại gần, Trần Tướng quân giật mình, ông nhận ra ngay đó là viên quan trẻ đã kết bạn với ông, khi ông diện kiến nhà Chúa. Viên quan đó là Trương Phước, đồn rằng chàng là cháu của khai quốc công thần Trương Nhân, chàng đã từng đi học khoa địa lý bên Tàu.

Chàng là người giỏi thơ phú nên khi tâm sự cùng ông trong buổi tiệc tại kinh thành, chàng muốn từ quan để rong chơi trên khắp đất nước. Trần Tướng quân đi lần xuống núi, lại gần chàng trai. Gặp Trần Tướng quân, Trương Phước cung tay:

- Kính tướng quân, tiện dân rong ruổi trên đường thiên lý, không ngờ lạc bước đến địa phận của tướng quân.

- Thật vinh hạnh được đón tiếp quý quan tại nơi bĩ lậu này, chẳng hay cớ sao quý quan lại chỉ có một mình đến đây?

- Tiện dân đã từ quan!

“Sao lại từ quan?” - Trần Thượng công tự hỏi, ông đến đất này đã lâu chưa thấy người dân Nam nào mà không thích làm quan, bởi tại đây đối với người dân làm quan là mục đích cao nhất của đời người. Nhiều nhà ky cóp cả đời, sẵn sàng dốc tài sản để mua chức quan nho nhỏ. Chính vì lẽ ấy mà khi làm quan họ lại ra sức vơ vét để bù lại gấp nhiều lần những gì đã bỏ ra. Dân chúng xứ này rất lầm than nhưng lại kính trọng quan chức, họ dạy con phấn đấu làm quan, cái vòng lẩn quẩn ấy hành hạ dân tộc Việt suốt mấy ngàn năm. Ông khá ngạc nhiên khi chàng trai trẻ từ quan, lặn lội đến tận xứ khỉ ho cò gáy này. Dù không tin thì ông cũng phải tiếp đón chàng như thượng khách. Trần Tướng quân chắp tay:

- Quý hóa quá! Kính mời quý quan đến tệ xá của lão gia.

- Xin tuân lệnh tướng quân!

Không khách sáo, Trương Phước đáp lễ.

Gã mã phu nhanh chóng mang con ngựa đến cho Trần Tướng quân, hai người, một già một trẻ sóng bước dưới rừng tre xanh biếc, kẽo kẹt khúc hát đồng quê, một khúc hát buồn như thân phận của dân tộc.

Trương Phước cũng không thể thoát khỏi tình yêu cây tre, từ thuở nhỏ chàng đã nghe nhịp điệu của cây tre, giữa trưa hè ở quê nhà. Chàng không biết trên thế giới này có điệu nào buồn như điệu buồn cây tre trên đất nước của chàng không!? Bà ngoại chàng cho rằng điệu hát của người Chàm còn buồn hơn. Từ khi họ mất nước, đêm đêm những người đàn bà cất tiếng than não ruột, hỡi hời... Vì vậy mà người Việt gọi họ là dân Hời. Bà ngoại chàng còn cho rằng ca dao lục bát là của người Chàm. Trước khi các vua chinh phục Chiêm Thành, không ai tìm thấy dấu vết của lục bát trong các bài thơ Nôm. Ông ngoại của chàng không tin điều ấy, ông bảo sở dĩ mãi đến thời cụ Nguyễn Trãi vẫn chưa xuất hiện lục bát trong thơ Nôm của các sĩ phu, bởi dù gì thì đó cũng là thể thơ của giới bình dân nên dân Nho học không quan tâm. Nhưng ông ngoại của chàng tin rằng người Chàm có chôn vàng trong các tháp mà dân Nam gọi là vàng Hời. Cha chàng đã đi tìm vàng Hời, trong các ngọn tháp của người Chàm và cũng vì chuyện ấy mà ông phải bỏ mạng nơi thâm sơn cùng cốc. Lần này chàng vào miền Nam, không phải từ quan để rong chơi, mà để thực hiện một sứ mệnh...

- Quý quan đang ưu tư điều gì?

Trương Phước giật mình khi nghe Trần Tướng quân lên tiếng.

- Thưa tướng quân, phong cảnh nơi đây thật hữu tình, đi giữa rừng tre tôi bỗng nghĩ về dân tộc của tôi.

- Dân tộc của ngài là dân tộc vĩ đại và anh hùng.

Trương Phước khẽ mỉm cười trước câu đãi bôi của Trần Tướng quân, chàng nhìn thấy sự giễu cợt trong đôi mắt ông. Chàng biết dân tộc nào cũng tự tạo cho mình niềm kiêu hãnh để mà yêu nước và chẳng có dân tộc nào thừa nhận sự vĩ đại của dân tộc khác, tất cả chỉ là xã giao. Chàng quay lại trao đổi với Trần Tướng quân về tình hình đời sống của vùng đất mới. Càng nói họ càng thân thiện hơn. Chẳng mấy chốc họ ra tới bờ sông.

Chàng nhận ra con sông Bù Cháp mà Trần Tướng quân gọi là dòng Thanh Long, rất hiền hòa, độ lượng. Tìm hiểu về địa lý, chàng nhận ra tính cách con người mỗi vùng miền như tính cách của dòng sông mà họ đang sống. Nhưng con sông Đàng Ngoài khó lường, khi thì hung hãn nhấn chìm tất cả, khi thì hiền hòa dịu dàng như thôn nữ ngây thơ và tính cách của người Đàng Ngoài cũng khó lường. Những con sông miền Trung quê chàng thì dại dột, khốc liệt và eo hẹp, tính cách người Trung cũng vậy. Còn con sông vùng đất mới này thật bao dung, con người ở đây cũng vậy. Bất cứ người ở đâu đến đây cũng được đón nhận, chở che và chỉ một thời gian ngắn họ thay đổi tính cách theo đặc thù thổ nhưỡng. Trần Tướng quân cũng vậy. Ông là quan chức, là kẻ sĩ của nước lớn, sự khắt khe đã thành máu thịt mà bây giờ ông trở nên phóng khoáng.

Chẳng mấy chốc vùng đất sầm uất hiện ra trước mắt chàng. Trương Phước thầm nghĩ: “Công lao của Chúa thật to lớn, không biết đời sau con cháu sinh sống trên những vùng đất trù phú này có nhớ ơn của các vị không?”