← Quay lại trang sách

Chương 5

Văn hóa khai khẩn, con người sống rộng rãi, độ lượng, không lễ nghi rườm rà.

Tư Ngồng chết, chuyện đó cũng tất yếu thôi, ai mà chả đến lúc phải chết, nhưng vì cái chết của ông quá khó hiểu nên người ta mới bàn tán. Vùng quê mang nặng nền văn hóa khai khẩn, con người sống rộng rãi, không lễ nghi rườm rà. Người ta biết nhau rất rõ. Đất ở đây thế, bao dung và độ lượng, dân chúng đối xử với nhau như người thân.

Tư Ngồng đã chết vào đêm trăng sáng, đó là đêm trăng huyền hoặc nhất trên cù lao, bầu trời vằng vặc và liêu trai, mặt trăng chập chờn dưới những đám mây lãng đãng bay qua. Trẻ con còn quả quyết rằng, trong những đám mây ấy có đám giống y hệt gương mặt ông Tư Ngồng.

Lúc sinh thời, ông là người có quyền lực. Với trang trại rộng hàng chục mẫu đất bên sông trồng toàn bưởi, cùng với một chức vụ trong chính quyền, Tư Ngồng sống ung dung, nhàn nhã và phong lưu. Mỗi khi chiếc xe hơi lăn bánh qua những con đường đã được bê tông hóa giữa những vườn bưởi ngào ngạt hương thơm, mấy đứa trẻ chạy theo để ngửi mùi khói xăng.

Cù lao hình lưỡi dao nằm giữa hai nhánh sông Thanh Long, đi bộ từ đầu này qua đầu kia phải mất nửa ngày đường, vùng đất rộng ngoài sức tưởng tượng của nhiều người. Đi trên cù lao, không ai nghĩ vùng đất này đang nằm giữa sông nước và nếu đứng chót mũi cù lao, nhắm mắt lại sẽ có cảm giác đất dưới chân mình chuyển động nhẹ và dựng dần lên ngược chiều dòng chảy của con sông Thanh Long. Đầu nhọn của “lưỡi dao” là cánh đồng, mỗi năm hai mùa lúa xanh tốt mà chẳng cần phân tro. Đi hết cánh đồng, màu xanh ngút ngàn của những vườn bưởi tiếp nối nhau, mùi thơm dịu nhẹ trùm lên không gian ngây ngất, thấp thoáng sau những tàng cây, lấp lóa nụ cười của các thôn nữ. Những trái bưởi tròn căng lúc lỉu trên các cành cây khỏe mạnh như cánh tay lực sĩ. Mùi hương bưởi chưa kịp tan vào những cơn gió từ dòng sông mơn man, thì cù lao ngập tràn với mùi mật mía ngọt ngào, cánh đồng mía chiếm trọn phần “cán dao” đủ để gần chục lò đường thủ công, với những ống che to bằng cột đình của đền thờ Đức Ông, chạy suốt cả tháng giáp Tết.

Sau khi leo lên địa vị nghe đâu khá cao trong bộ máy chính quyền, Tư Ngồng đã chỉ đạo xã cho quy hoạch vùng mía tập trung và ông ta thuyết phục cấp trên bỏ ra số tiền khá lớn của nhà nước, xây cho cù lao cái nhà máy đường. Dân chúng yêu thích lò đường thủ công hơn, trước đây, mía làm ra, họ bán cho các lò đường thủ công. Họ thích nhìn hai con trâu thở phì phò kéo ống che to để cán những cây mía, lâu lâu chúng phẹt ra bãi phân to tướng hăng hắc mùi cỏ non và mật đường, một cái mùi mà ngày còn nhỏ Tư Ngồng rất thích, còn bây giờ thì ông ghê sợ nó. Những người nông dân được nhìn những chảo nước đường sủi bọt, một dãy chảo đặt trên ống lò dài, đun bằng bã mía. Chảo thứ nhất sôi lên và sủi bọt, họ múc nước mía đổ sang chảo thứ hai, chảo đường này họ gọi là nước chè hai và cứ thế họ chuyển sang chảo thứ ba... Khi chảo cuối cùng quánh lại họ đổ ra những cái chén dùng làm khuôn và cuối cùng họ sẽ có những cục đường lớn màu vàng hổ phách với mùi mật dịu ngọt đầy quyến rũ. Những người dân cù lao thích múc bát nước chè hai, uống để thưởng thức vị ngọt của nó thấm dần vào bao tử. Họ ghét cái nhà máy đường của nhà nước xây dựng. Họ không thể vào được bên trong để xem sản phẩm của họ làm ra như thế nào. Họ gọi nhà máy ấy là nơi để bọn áo trắng ăn cắp mồ hôi nước mắt của họ. Cán bộ nhà máy mua mía bằng cách đo độ ngọt và gọi tên là “chữ đường” trong khi họ chẳng biết “chữ đường” là cái quái gì. Họ chỉ biết những cây mía mà họ làm ra bị bọn chúng mua rẻ hơn những lò đường thủ công. Họ cũng chẳng được vào bên trong để thưởng thức bát nước chè hai, bởi những gã bảo vệ to cao, mặt mày sưng sỉa, mỗi khi nhìn những người nông dân chân lấm tay bùn như họ.

Sáng nay, như thường lệ, họ tập trung rất đông tại nhà máy đường để chờ cán bộ cân mía và chờ lấy tiền bán mía. Những chiếc xe tải sắp thành hàng dài chờ chạy lên cân.

Tin tin tin...

Tiếng kèn xe hơi gắt gỏng và đầy quyền uy đã xô dạt những người dân qua một bên. Chiếc xe hơi màu đen từ từ lăn bánh vào nhà máy, bất ngờ dừng lại giữa đám đông. Tư Ngồng đường bệ bước xuống xe. Gương mặt đỏ ửng, miệng tươi cười, ông đưa tay chào những người nông dân:

- Bà con phấn khởi chứ? Im lặng.

- Rất mừng là xã ta được mùa mía, bà con có thu nhập khá lên rồi. Tuy nhiên nhà máy đường cần rất

nhiều mía mới hoạt động hết công suất, bà con nên tăng cường diện tích. Tôi lớn lên ở vùng này nên tôi hiểu rõ đất đai quê mình.

Ban giám đốc nhà máy đã chuẩn bị cờ hoa, băng rôn, khẩu hiệu, để chuẩn bị đón vị lãnh đạo cấp cao, người địa phương, người có công mang tiền về xây nhà máy cho quê hương. Những cô gái chân dài, da trắng như bông bưởi, chuẩn bị sẵn những nụ cười trắng lóa với bó hoa trên tay, sắp hàng dài trong sảnh. Họ chờ vị lãnh đạo đến thăm. Từ đêm hôm trước, họ đã được ban giám đốc nhà máy chỉ đạo cho họ phải ướp trong mùi hương bưởi cả đêm, vì vị lãnh đạo rất thích những cô gái có mùi hương hoa bưởi.

Bất ngờ thấy vị lãnh đạo đứng giữa đám nông dân, cả ban giám đốc ùa chạy ra.

- Báo cáo anh Tư!

Vị lãnh đạo phẩy tay, cho họ đứng vây quanh sau lưng và ông cao giọng:

- Bà con biết không? Thời đại chúng ta là thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà cái làng quê của ta còn lạc hậu quá. Bà con phải đổi mới tư duy. Cả nước đang đổi mới tư duy!

Những người nông dân ngơ ngác nhìn nhau: “Tư duy là cái quái gì?” Họ vẫn thường nghe cán bộ từ ấp đến xã, cứ mở miệng ra là “đổi mới tư duy”. Họ cảm thấy cách nói chuyện của những người “áo trắng” này quá xa lạ đối với họ. Nó còn khó hiểu hơn những câu thơ của gã nhà thơ. Lạ lùng ở chỗ những ngôn từ khó hiểu xa lạ với cách nói của họ, đôi khi lại có khả năng làm cháy bùng lên những ngọn lửa trong cuộc sống của những con người chất phác. Họ đổ xô đi làm những chuyện mà chính họ không biết làm thế để làm gì? Thật khó hiểu! Họ còn lạ gì Tư Ngồng, trong số họ ngày xưa có những người là bạn của Tư Ngồng, họ từng cùng đi chăn trâu, làm ruộng, ở truồng tắm sông với Tư Ngồng, có người đã nuôi dưỡng Tư Ngồng trong những ngày kháng chiến, vậy mà khi làm cán bộ, Tư Ngồng lại nói chuyện khác với họ, hoàn toàn khác.

Những người dân bán mía cho nhà máy đường không phải vì họ “đổi mới tư duy”, mà họ nghe lời cán bộ trồng quá nhiều mía, khiến các lò đường thủ công không làm kịp, họ buộc lòng phải bán cho nhà máy. Có vậy thôi!

Thấy đám nông dân im lặng nhìn mình, Tư Ngồng hơi khó chịu trong lòng, nhưng ông không chấp họ, Tư Ngồng quay lưng đi theo đám cán bộ nhà máy và những cô gái sực nức mùi hương hoa bưởi.

Tư Ngồng nhìn quanh rồi ngồi vào bàn họp.

- Dạ báo cáo anh Tư! - Tay giám đốc xum xoe.

- Làm việc đi! - Tư Ngồng ra lệnh.

- Dạ báo cáo anh Tư! Hiện nay đường bán không được, không có tiền trả cho nông dân, họ làm dữ quá.

- Sao không vay ngân hàng?

- Dạ ngân hàng ngưng cho vay!

- Vì sao?

- Dạ mình đã vay quá mức tài sản thế chấp!

- Ngày mai lên chỗ con Biển, Giám đốc Ngân hàng Công nghiệp, tôi sẽ nói chuyện với nó, bằng mọi giá phải mua bằng hết mía trên cù lao Dao này, đừng làm nhân dân mất lòng tin vào tôi.

- Dạ! Cám ơn anh Tư!

- Thôi tôi về!

Tay giám đốc nháy mắt, một cô gái trẻ sực nức mùi hoa bưởi mang tới cái phong bì dày cộp, Tư Ngồng thản nhiên cho vào cặp rồi bước thẳng ra cổng.

- Tư! Tư!

Tư Ngồng giật mình, ai dám gọi mình với giọng trịch thượng như thế? Bà già băng ra từ đám đông.

- Má Năm, lâu quá mới gặp, má vẫn khỏe chứ?

- Mấy lần tính rẽ qua thăm má mà công chuyện nhà nước lu bu quá!

- Đợi mày ghé thăm tao chết mất xác, tao vẫn ở trên cù lao này chớ xa xôi gì, chắc phải đợi giặc nó quay lại mới mong gặp được tụi bây, nhưng thôi chuyện đó tao chẳng chấp làm gì! Tao canh mãi mới gặp mày, hôm nay tao hỏi thử, mày làm cán bộ lớn mày có biết cái mảnh dườn của tao nằm trong diện quy hoạch gì đó không?

- Má để tôi xem lại, tôi không để ý, mấy đứa nhỏ nó làm, mà hình như đất của má là đất công thổ mà.

- Công thổ cái con mẹ mày! Đất của cha tao khai phá chứ công thổ gì, cái mảnh đất hồi đó có mấy cái hầm bí mật tụi bay ăn dầm nằm dề cả tháng, hồi đó tao có nghe đứa nào nói công thổ hay tư thổ gì đâu!

Bà Năm Trầu nhổ toẹt bãi nước trầu trước mặt Tư Ngồng, kéo cái khăn rằn chùi miệng. Tư Ngồng nhíu mày.

- Má để tôi xem lại, tôi phải đi họp gấp. Nói xong Tư Ngồng quày quả bước lên xe, má Năm lầm bầm rồi quay trở lại phân bua với những người nông dân:

- Hồi đó nó bị thương, lão Mân cứu nó, sau hầm bí mật nhà lão bị lộ, lão đẩy nó sang nhà tao, suốt ngày má má, con con, bây giờ làm cán bộ rồi giở giọng, đúng là cái đồ dô ơn bạc nghĩa.

Anh Tư Nghĩa cười khà khà:

- Công lao của bà có xíu mà bà kể hoài, tôi thấy mấy người có công như bà hàng năm cũng có được người mang đường sữa tới thăm hỏi còn đòi gì?

Cái giọng của Tư Nghĩa chói tai, sau này trúng cử làm chủ tịch xã, anh ta phát huy rất tốt cách nói bội bạc ấy. Bà Năm Trầu dằn dỗi:

- Tao mà thèm ba cái thứ ấy, chúng nó mang tới tao quăng ra đường, tao không cho chúng nó thì thôi, thèm lấy của chúng nó làm gì!

- Vậy thôi kể lể làm gì?

- Tao ghét chúng nó khi có chức, có quyền rồi nói một đường làm một nẻo, chính thằng Tư Ngồng này đang tính bán cái mảnh đất cù lao thiêng liêng này cho bọn Tây làm dự án dự iếc gì đó, rồi đây dân cù lao ra sông mà ở. Đó là chưa biết chúng nó có đụng đến đền thờ Đức Ông không nữa.

Nghe nhắc đến chuyện quy hoạch mọi người thẫn thờ ra về...