← Quay lại trang sách

Chương 16

Cuộc đời của nhà thơ Miên Trường như một truyện ngắn buồn anh đã từng viết khi tích tụ năng lượng Ranaga.

Nhà thơ Miên Trường sinh ra ở miền Trung Việt Nam, nơi nắng và gió hun đúc con người cô đặc như những gốc cây cổ thụ, rắn chắc và giỏi chịu đựng. Cuộc đời của Miên Trường như một truyện ngắn buồn, anh đã từng viết một phần của cuộc đời anh, cái phần đời mà trước khi anh lang thang vào miền Phù Nam trong tiền kiếp để tìm kiếm phẩm hạnh mà loài người đã đánh mất. Cái tên truyện ngắn là “Miệt mài sông trôi”. Câu chuyện như sau:

“Từ năm mười ba tuổi tôi đã có ước muốn đi ngược dòng sông. Ngày ấy, ông ngoại thường dắt tôi ra sông. Mặc cho tôi nghịch cát, ông lặng lẽ đứng nhìn về phía thượng nguồn. Dọc triền sông là dãy đồi thấp mọc chen chúc những cây sim, tháng Bảy cả vùng tím ngát màu hoa, mênh mang, buồn! Lác đác vài bụi chà là thấp lè tè đầy gai góc. Lẻ loi giữa rừng hoa một ngọn đồi trọc cô độc nhô lên, mỗi chiều về đất đỏ sẫm như máu. Ông tôi bảo, dưới ngọn đồi có vàng hời, “Kim khắc Mộc” nên cây cối không mọc được, chỉ có mỗi loài hoa trắng nhỏ nhoi tinh khiết, mọc rải rác sườn đồi. Loài hoa ấy là “linh hồn của các trinh nữ”. Ngày xưa, trước khi dời kinh đô về Phan Rang, vua Chiêm Thành chôn các cô gái còn trinh theo các kho tàng để làm thần giữ của cho họ. Ông còn bảo, vào những đêm trăng cả bẩy heo bằng vàng đủng đỉnh trên sườn đồi để ăn những bông hoa trắng.

Tôi hỏi:

- Loài hoa ấy tên gì hả ông?

- Nó không có tên - Ông trả lời.

- Hôm nào lớn cháu sẽ lên đồi!

- Lên chi? Tìm vàng hả? “Của hoạnh tài bất phú” đừng có ham cháu ạ! Ngày trước ông nội thằng Trầm bắt được con heo vàng, về đến nhà hộc máu chết, cha của nó bài bạc hết sản nghiệp phải đi ăn mày, đến đời nó mới khá được.

- Không, cháu không tìm vàng, cháu hái hoa, cháu sẽ đặt cho hoa một cái tên, lớn lên cháu sẽ làm nhà thơ như ông cố vậy.

Ông nhìn tôi, lắc đầu lẩm bẩm: “Thằng này rồi sẽ khổ đời chẳng ra gì, không hiểu sao cha nó lại cho nó xem tập thơ của ông Tú Hiệu, kẻ ngang tàng bị Pháp chém ngang lưng, sao cha nó không biết rằng chính ba cái thơ thẩn đưa người ta đến máy chém!”

Tôi muốn hỏi tại sao, nhưng ông lơ đãng nhìn dòng sông. Tôi cũng nhìn theo và lúc ấy tôi nảy ra ý định sẽ ngược dòng sông.

*

Không ngờ ước muốn tưởng chừng vu vơ ấy lại lớn dần theo tuổi đời của tôi. Dĩ nhiên ước muốn không dừng lại ở ngọn đồi hoa trắng, tôi muốn về tận ngọn nguồn con nước dòng sông.

Từ năm mười bảy tuổi đến nay, tôi đã quần nát mấy ngọn đồi sim, mỗi ngày chặt hai gánh bổi. Hàng ngày, tôi đứng trên đồi để nhìn về phía thượng nguồn, trập trùng đồi núi, tầm mắt của tôi xa hơn, rộng hơn, vì không còn bao nhiêu cây lớn che khuất. Tôi tin rằng trên tận cùng của dòng sông vẫn còn nhiều điều kỳ diệu mà con người chưa khám phá.

Ngày đầu đi chặt sim, đưa lưỡi rựa bén ngọt vào gốc sim đang mùa nở hoa, tôi nghe rờn rợn như đang cắt cổ ai đó. Dần dần tôi thành tên đồ tể tàn ác, chặt không nương tay. Thấy tôi xốc vào hai đầu cây đòn hai bó sim lớn, ai cũng lè lưỡi. Tôi chặt sim bán cho ông Trầm đốt lò gạch, bao nhiêu tiên tôi đưa cả cho chị Hai. Chị tôi quán xuyến gia đình thay mẹ. Chị không chồng mà có con, chuyện ấy bây giờ không còn hiếm ở quê tôi. Trai làng lần lượt bước vào cái “cối xay thịt” của cuộc chiến tàn bạo, gái lỡ thời đẩy đồng, đi cấy con gái mà đi cày cũng con gái. Nghe đâu thời trẻ, chị cũng có người yêu, anh ấy tử trận ở Hạ Lào. Năm năm sau chị có bầu, người làng xầm xì “Chắc lại con của thằng cha Trầm!”.

Ông Trâm, “con của kẻ mày”, bây giờ là người giàu nhất làng tôi, ông ta có bốn lò gạch, mỗi ngày xuất cả chục vạn viên gạch đủ loại. Ông Trâm xấp xỉ lục tuần mà còn trẻ như thanh niên, tướng cao lớn, mũi to và đỏ ứng như mũi lân, miệng rộng, môi dày. Đến nhà chơi, ông Trầm thường nói với cha tôi: “Xứ này chó ăn đá gà ăn muối, chỉ có đất và củi là sẵn, bán hai thứ ấy thì làm giàu được”. Cha tôi bảo: “Bán đất là bán tổ tiên”. Ông Trầm cười khẩy bỏ đi. Ông tôi ngồi trầm tư trên sập gụ uống trà nhìn theo ông Trầm, nhận xét: “Thằng ấy tướng sang mà dâm!” Quả thật, cả làng có gần chục phụ nữ có mang với ông ta, chẳng ai kêu ca phàn nàn gì cả. Họ lặng lẽ sinh nở, lặng lẽ nuôi con.

Mỗi chiều, khi những cánh chim xao xác bay về núi, chị tôi hát ru con “Âu... ơ đói lòng ăn nửa trái sim. Uống lưng bát nước đi tìm người thương!” Lòng tôi chùng xuống, tôi ra sông, nơi tôi cùng ông trò chuyện ngày xưa và những lúc ấy, tôi lại dậy lên ham muốn đi về phía thượng nguồn của dòng sông.

*

Tôi đặt tên cho loài hoa trắng trên ngọn đồi “Kim khắc Mộc” là hoa Linh Chi, tên của người yêu tôi. Thực ra tên nàng là Nguyễn Thị Chi, thế thôi, nhưng tôi ghép thêm tên chữ Linh cho ra tên của loài hoa. Chi sống với mẹ trong căn nhà tranh ở xóm Gò. Chi đẹp và thánh thiện như loài hoa trắng mà ông tôi gọi là “Linh hồn các trinh nữ”. Mẹ tôi dường như không hài lòng lắm với mối tình của tôi, thấy tôi thân mật với Chi, bà lấp lửng nói, “nuôi heo chọn nái, kiếm gái chọn dòng”. Tôi chẳng bao giờ cất công tìm hiểu gia cảnh của ai, sự tồn tại bất hạnh của làng quê này có từ bao năm qua và sau này chắc cũng thế. Kẻ có cha không mẹ, người có mẹ không cha, thậm chí mồ côi cha lẫn mẹ vốn là chuyện bình thường ở làng tôi. Trong cuộc chiến tranh, mảnh đất này mỗi tấc đất một tấc bom đạn. Vì thế chuyện Chi sống với mẹ không có gì lạ, tôi nghĩ vậy.

Tôi là gã trai cày hiếm hoi còn sót lại giữa cuộc chiến nỏng bỏng, là con trai một, học xong tú tài một, cha mẹ bỏ ra gần mười lượng vàng ky cóp cả đời chạy được cái giấy miễn quân dịch để tôi ở nhà thờ phụng tổ tiên. Tôi giúp mẹ con Chi cày ruộng, gặt lúa, gánh phân, chặt bổi. Tình yêu của chúng tôi cũng mộc mạc như rơm rạ.

Chúng tôi ra sông, sau một ngày nhọc nhằn, Chi bám vai, áp bầu ngực trinh nguyên săn chắc vào cánh tay tôi. Tôi biết Chi đang mơ ước về một mái nhà tranh nho nhỏ và những đứa con xinh xắn. Còn tôi, tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy, tôi đau đáu một ý nghĩ khác, một ý nghĩ mà mẹ tôi bảo “oan nghiệt!”. Cha tôi chẳng hể quan tâm đến tôi, ông suốt ngày lặng lẽ bên bàn thờ Phật, ăn chay trường. Tôi nghe nói trước đây ông từng là thợ săn khá nổi tiếng. Có lần ông Trầm nói với tôi: “Cha mày là thằng khó chơi!” Tôi hỏi: "Tại sao?". "Trong khi mọi người đang còn sắp hàng dưới trần gian, cha mày đã lo giành một chỗ ở trên niết bàn.” Tôi đem chuyện này kể lại với cha, ông không nói gì, chỉ nhìn lên khẩu súng săn hai nòng đen bóng treo trên bàn thờ và bỏ đi.

Chi níu nhẹ vai tôi.

- Này anh!

- Có chuyện gì hả em?

- Hôm qua thằng Quân đón đường em.

- Nó làm gì?

- Nó bảo, nó yêu em, nếu em chịu, nó đưa về thành phố. Tôi tức tối đá viên sỏi xuống dòng sông.

- Anh ghen hả?

- Không, nó là thằng đểu.

Quân là con trai của ông Trầm, có tiền chạy chọt được làm cảnh sát trên thành phố lâu lâu mới về làng, nó mang trong mình dòng máu dâm đãng của cha nó. Hồi còn đi học nó đã biết giở trò với bọn con gái. Bây giờ nó càng lưu manh tợn. Một thoáng lo sợ mơ hồ trong lòng tôi. Chi ngả đầu vào vai tôi nũng nịu.

- Em chỉ yêu mình anh thôi.

- Thôi mình về! - Tôi ra lệnh.

Chi ngoan ngoãn bước theo, sự ngoan ngoãn cam chịu như thân phận của những người phụ nữ ở quê tôi.

Gặp Quân phóng xe trên bờ đê, đến trước mặt chúng tôi, nó dừng lại, chống chân xuống đất nhìn tôi cười cười trông rất mất dạy. Nó hất hàm hỏi:

- Người yêu mày hả?

Tôi không trả lời, trừng mắt nhìn nó, Quân rút bao thuốc thơm hờ hững chìa trước mặt tôi:

- Bạn bè lâu ngày không gặp, hút với tao điếu thuốc.

Tôi gạt tay Quân kéo Chi bỏ đi, Quân nhếch mép cười.

*

Tôi đi ngược dòng sông, nắng gay gắt, mồ hôi nhễ nhại. Hai bên dòng sông đồi núi trọc hết cây cối trơ đất như hoang mạc, dòng sông là cái khe nước đem ngòm, sâu hun hút. Những con thú còm cõi trơ xương nhảy nhót cuồng loạn, có con chỉ còn bộ xương, hàm răng trắng ởn, nhìn rõ các chân răng cắm vào xương sọ. Giữa đám thú, một bóng người cao lớn vung khẩu súng bắn ra những luồng lửa đỏ như máu. Khuôn mặt xương xẩu, dữ tợn, tôi bàng hoàng nhận ra người đàn ông ấy. “Ch...a!” Tôi gào lên, tiếng kêu tắc nghẹn trong họng... ú... ớ.

- Dậy! Dậy... đi em.

Tôi giật mình tỉnh giấc, chị Hai lắc vai, tôi chồm dậy, cổ họng khô khốc.

- Dậy ăn miếng cơm đi em, chưa ăn uống gì mà ngủ như vậy hại lắm.

Lúc chiều đi làm về, chưa kịp tắm rửa, mắt ríu lại, tôi leo lên bộ phản ngủ say như chết. Chị Hai đặt tay lên trán tôi: xông.

- Nóng quá, chắc bệnh rồi, để chị nấu lá cho em

- Khỏi, không sao đâu.

Tôi vươn vai đứng dậy ra lu múc gáo nước tu ừng ực, dòng nước mát thấm hút vào cơ thể. Tôi đưa mắt nhìn về phía dòng sông, dòng sông lấp lánh và êm đềm chảy. Mặt trăng đã lên cao. Chợt nhớ tối nay có hẹn với Chi, tôi lao ra bờ sông.

Sững lại, một thoáng thôi, tôi hiểu tất cả, mãi sau này tôi không lý giải được tại sao lúc ấy tôi lại bình tĩnh đến vậy. Tôi chậm chạp tiến dần về phía Quân, hai tay nắm chặt, sự bình tĩnh của tôi khiến Quân chôn chân tại chỗ. Tôi trút lên Quân tất cả sức mạnh và lòng căm thù trai trẻ, cho đến khi hắn gục xuống trên bãi cát. Tôi quay lại dựng Chi lên, Chi run rẩy vòng cánh tay ôm lấy ngực, quần áo tả tơi, tôi nhìn thấy vệt đỏ nhờ nhờ trên bắp vế trắng. Tôi dìu Chi về nhà, đầu óc mụ mẫm...

*

Trong lúc mọi người nhộn nhịp đón Tết, tôi lặng lẽ thu xếp đồ đạc. Mẹ tôi khóc lóc níu tay tôi, cha tôi gỡ tay mẹ ra và bảo “Hãy để nó đi!” Tôi lặng lẽ đi, lầm lũi và cô đơn, bên tai văng vẳng tiếng hét hoảng loạn của mẹ Chi trước khi bà ngất xỉu. “Thằng Quân, trời ơi! Đồ loạn luân, con Chi là em ruột của nó! Ông Trầm ơi!... Ông Trầm!"

Tôi đi vào một ngày cuối năm, dòng sông vẫn miệt mài trôi về phía của muôn đời.

*

Cái ngày cuối năm định mệnh ấy tôi đã vào miền Nam. Tôi gia nhập vào đoàn quân giữ nước dưới sự chỉ huy của Trần Đình. Nếu tôi là người bình thường có lẽ cuộc đời tôi đã khác, nhưng trái tim tôi quá yếu đuối. Tôi sẽ chiến đấu cho đến ngày hòa bình như những người lính khác, nhưng tôi âm thầm đào ngũ trước khi Trần Đình bị hành hình và lặng lẽ đi ngược dòng sông Thanh Long, con sông này còn huyền thoại và âm u hơn con sông ở quê tôi. Dòng sông thúc giục ước muốn thời trai trẻ của tôi.

Tôi đã gặp ông già người Mạ, kẻ đã đưa tôi vào thế giới song song để tránh cuộc chiến mà tôi chán ghét và sợ hãi. Ông đã dạy cho tôi tích tụ năng lượng Ranaga, nguồn năng lượng ấy đã giúp tôi trở lại thế giới vật chất và thành nhà thơ.

Tôi cũng biết, Chi - người yêu của tôi - đã treo cổ sau ngày tôi bỏ đi ít lâu. Ông già Mạ cũng cho tôi biết, Chi đã tái sinh.