← Quay lại trang sách

Chương 25

Lục Vân Tiên chết rồi. Mà Hớn Minh, Vương Tử Trực cũng chết cả rồi.

Theo lời dạy của cha, Nguyễn Hữu Trí theo học ngành sư phạm, chưa hết năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm thì có lệnh “tổng động viên”. Hàng ngày, cảnh sát dã chiến và quân cảnh lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm, học sinh các trường đại học đều phải tham gia lớp dự bị sĩ quan. Trí bị bắt đưa vào trường hạ sĩ quan Đồng Đế. Cha anh đã phải cắn răng cắt mẫu đất trong khu đất hương hỏa, chạy cho Trí khỏi phải đi quân dịch. Miếng đất nằm bên bờ sông, hàng năm đón nhận phù sa từ thượng nguồn đổ về nên trái bưởi to như đầu người, ngọt lịm. Anh ruột của Trí đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp trên rừng Mã Đà, anh thứ hai thì lại đi lính Cộng hòa, không biết sống chết lúc nào. Cha cố giữ thằng con trai duy nhất, để sau này có người thờ cúng tổ tiên. Ba tuần trong quân trường, Trí được cho về địa phương với cái giấy miễn dịch. Sau bốn năm dùi mài kinh sử, Trí tốt nghiệp sư phạm với tấm bằng loại ưu. Anh xin về dạy ngay trên cù lao, nơi ngày xưa ông sơ, ông cố, ông nội anh đã từng dạy học. Ngày chế độ thay đổi, cùng thầy cô giáo, Trí nô nức đón mừng niềm vui đất nước thống nhất. Lúc đầu Trí cũng lo không biết mình còn được đứng trên bục giảng nữa hay không, nhưng ít hôm sau Ủy ban Quân quản mời thầy cô giáo tập trung cải huấn, để chuẩn bị khai giảng năm học mới. Trí vui mừng khôn xiết, thế là anh vẫn được chính quyền mới tin dùng. Cuộc đời của Trí hẳn sẽ êm ả trôi đi với “bảng đen phấn trắng, hoa phượng sân trường” nếu anh không quá cả nể. Gia đình có truyền thống, anh ruột là liệt sĩ nên thầy Trí được đưa vào diện “quy hoạch”. Ông Bí thư Chi bộ xã, năm lần bảy lượt mời thầy Trí tham gia chính quyền địa phương và rồi anh tham gia chính quyền mới. Buổi sáng làm việc ở xã, buổi chiều đứng lớp, ban đêm dạy bổ túc cho cán bộ, thầy Trí rất khổ sở với lớp học “không biết ai lấy nỏ thần của An Dương Vương!” Thời bấy giờ các thầy cô giáo gọi các lớp bổ túc như thế, nó xuất phát từ câu chuyện lan truyền trong giáo giới rằng: “Thầy giáo dạy văn, tranh thủ sau giờ giảng thầy thử kiểm tra kiến thức đám học trò, thầy hỏi:

- Các anh chị có biết ai là người lấy cắp nỏ thần của An Dương Vương không? Sau một hồi im lặng, một học viên đỏ mặt đứng lên quát:

- Thầy hỏi thế là có ý gì? Lớp chúng tôi toàn cán bộ đi học có ai tham nhũng như thế đâu!”

Lớp thầy Trí chủ nhiệm, do đồng chí Chủ tịch xã làm lớp trưởng, ông là người “triệt để cách mạng” nên học hành khá nghiêm túc, chỉ tiếc lâu quá không cầm viết nên bàn tay cứ cứng quèo. Lớp trưởng có giọng nói oang oang như chuông đồng, giờ làm việc cũng như giờ học, lúc nào ông cũng kè kè cây súng ngắn bên hông, trông phát khiếp! Ba Chuông có sở thích uống máu bò nóng, trong xã có ai làm đơn xin mổ bò, ông xin họ bát tiết đầu tiên, ông xuống tận nơi cầm bát tiết nóng uống đánh ực rồi đưa tay chùi hai mép đỏ lòm. Trẻ con trong xã khóc nhè dỗ không nín, bà mẹ hét lên: “Ông Ba Chuông kìa!”, thế là trẻ nín khe, đố đứa nào dám tỉ tê. Khi có ai làm cho ông giận dữ, ông hăm dọa bắn nát óc người đó, nhưng chưa ai thấy ông bắn bao giờ. Có lần đám thanh niên đánh nhau, can không được ông rút súng nhưng không bắn mà chọi vào giữa đám trẻ, khiến chúng hoảng sợ bỏ chạy tán loạn. Khẩu súng văng ngay vào hũ nước mắm của bà Tư bánh bèo, làm ông phải chùi rửa hàng giờ liền. Tính tình bộc trực và đôi khi thô lỗ nên ông không được lòng cán bộ trong xã. Ông Ba Chuông rất kính trọng thầy Trí, việc gì cũng hỏi ý kiến thầy, thầy góp ý, ông cẩn thận ghi chép vào sổ tay. Dạo ấy mọi thứ đều quốc doanh hóa, muốn giết thịt con heo cũng phải xin phép, nhưng ở cù lao Dao, ông Ba Chuông cho phép nhân dân tự do mổ bò, mổ heo để cung cấp cho dân trong xã. Nhiều cuộc họp trong Ủy ban ông bị chỉ trích về tội hữu khuynh! Ba Chuông đứng lên gay gắt:

- Thời chiến tranh dân đói đã đành, bây giờ hòa bình dân muốn ăn miếng thịt cũng không được hay sao?

Buổi chiều, ngồi uống rượu với thầy Trí, ông kể:

- Thầy biết không, hồi trong căn cứ Bàu Hàm giặc bao vây ba tháng, anh em ăn chuối xanh vàng cả mắt, tôi mò về ấp mang theo khẩu B40 dộng thẳng mấy quả vô trong đồn lính địa phương quân, bọn chúng sợ vỡ mật, tôi vào ấp nhờ cơ sở của ta móc nối, mua cả đoàn xe cam nhông gạo. Lúc ấy phải linh động như thế mới thắng được giặc, chứ cứng ngắc như giờ có mà ăn cám.

Đùng một cái ông Ba Chuông bị bắt về tội tổ chức vượt biên, khi bị còng tay, ông nói với thầy Trí:

- Tôi bị oan, tôi không có sao đâu thấy đừng lo.

Hai hôm sau, thầy Trí cũng bị còng tay vì có chứng cứ thầy là đồng bọn của Ba Chuông. Sau hai năm bị giam cầm, vụ án sáng tỏ, ông Ba Chuông và thầy Trí được tha về. Ông Ba Chuông hàng ngày chèo thuyền đi câu lươn ven sông không màng chuyện thế sự. Khu vườn thầy Trí đã được trưng dụng gần hết chia cho cán bộ xã. Mấy năm liền hỏi xin lại đất nhưng cán bộ xã cứ hẹn lần. Thầy vác đơn kiện khắp nơi, tỉnh chuyển về huyện, huyện chuyển về xã, xã bảo để chờ xem xét. Thầy không được bố trí công tác, vì có án tù và có anh trai làm lính Cộng hòa, cải tạo về rồi vượt biên, không có việc làm, thầy Trí ngồi nhà viết đơn thuê cho dân cù lao. Văn hay chữ tốt, được dân tin cậy nên thầy viết hàng chục lá đơn từ chuyện tố cáo cán bộ xã tha hóa đến chuyện ly dị của những cặp vợ chồng “cơm không lành canh không ngọt”. Năm sau, thầy Trí bị bắt lại vì chuyện xúi giục dân chúng gây rối! Bảy tháng tám ngày ở tù, thầy lại được cho về với lệnh tạm tha! Không bỏ cuộc, thầy tiếp tục theo kiện đòi lại mảnh đất hương hỏa. Hàng chục năm trôi qua, nợ nần chồng chất, thầy Trí vẫn kiên trì đi tìm công lý...

Ba Chuông bị bắt, Tư Nghĩa lên làm chủ tịch xã, thầy Trí tuyệt vọng, vì Tư Nghĩa cũng được chia miếng đất trong khu vườn của thầy. Bất đắc chí thấy kết bạn với Bảy Tánh và bà Năm Trầu, xã xếp thầy vào loại công dân cứng đầu.

Mỗi chiều, sau một chầu rượu say túy lúy, thầy vừa đi vừa hát, lũ trẻ chạy theo sau lưng la lớn:

- Thầy ơi thầy hát Lục Dân (Vân) Tiên đi thầy!

- Dân Tiên, dân tiền, dân tiền

Ai cho tôi tiền, tôi hát Dân Tiên...

Xong câu mở đầu thầy vứt xe đạp ngồi bên vệ đường, lũ trẻ ngồi xếp bằng xung quanh. Thầy bẻ cây mía giả làm đờn kìm và hát:

Dân (Vân) Tiên ghé lại bên đàng

Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông dô (vô)

Miệng kêu bở đảng hung đồ

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân...

Phong Lai mặt đỏ rần rần

Thằng nào lại dám lẫy lầng (lừng) vào đây

Phong Lai chưa kịp trở tay

Bị Tiên một gậy, thác rày mạng dong (vong)...

- Thầy hát về Vương Tử Trực đi thầy:

Vợ Tiên là Trực chị dâu

Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì

Chẳng hay người học sách chi

Nói ra những tiếng dị kỳ khó nghe...

- Chẳng có đánh nhau gì cả, thầy hát về Hớn Minh đi thầy.

Đi dừa (vừa) đến huyện Tây Mi...nh

Có con quan huyện Đặng Sinh là chàng

Giàu sang ỷ thế dọc ngang

Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì

Tôi bèn nổi giận một khi...

cái mà tôi bèn nổi giận một khi

Vật chàng xuống đất... mà... bẻ đi một giò

Mình làm nỡ để ai lo

Bó tay chịu trói, nộp cho huyện đàng... 5

- Hay quá, hoan hô ông Hớn Minh. - Lũ trẻ ngây thơ reo lên...

Nhìn những đôi mắt trong veo của đám trẻ, thầy khóc:

- Các cháu biết không? Hu hu..., Lục Vân Tiên chết rồi. Mà Hớn Minh, Vương Tử Trực cũng chết cả rồi.

Thầy lượm chiếc cặp rách mà thầy để bên vệ cỏ lên, những lá đơn rơi ra, cả chồng đơn xin lại đất. Thầy vừa khóc, vừa tung chồng đơn lên trời:

- Hu hu... Lục Vân Tiên chết rồi, Hớn Minh chết rồi!

Thầy loạng choạng đi về. Lũ trẻ ùa vào lượm những tờ giấy, chúng xếp máy bay ném trắng xuống mặt sông Thanh Long đang lững lờ trôi...