← Quay lại trang sách

Chương 32

Mầm sống xuất hiện giữa lằn ranh của cái chết.

- Theo quy hoạch thì cù lao sẽ là thành phố sầm uất như ba trăm năm trước, bà con cần phải chấp hành.

Chủ tịch xã ôn tồn nói với bà con cù lao.

- Những con đường sẽ như ô bàn cờ, những ngôi nhà cao tầng, và rồi siêu thị sẽ mọc lên. Chúng ta không thể chấp nhận vùng quê lạc hậu như thế này giữa thành phố công nghiệp. Trong sự phát triển chung của đất nước, cù lao cũng phải phát triển. Cù lao này ba trăm năm trước từng là thành phố đầu tiên của phương Nam, lẽ nào hôm nay lại chấp nhận sự lạc hậu?

Cứ như vậy, chủ tịch xã Tư Nghĩa, diễn thuyết hùng hồn trong cuộc họp dân, trước cán bộ cấp trên đang ngồi chứng kiến. Vị cán bộ ấy chính là Trương Phước Tư, tức Tư Ngồng. Chủ tịch xã diễn thuyết một mình, trước sự im lặng của những người nông dân hiển lành chất phác. Mọi người nhìn nhau.

Bà Năm Trầu từ từ tiến lên đưa khăn rằn quệt môi, bà nhìn Trương Phước Tư và từ tốn nói:

- Tư à, mấy nghĩ lại đi, mầy không chừa được chỗ này lại để thờ phụng tổ tiên hay sao? Cánh đồng bên kia sông, bây biến thành khu công nghiệp, chúng đổ nước thải ra đầy dòng sông. Con sông Thanh Long ngày xưa mầy có nhớ không, nó xanh ngắt, chỗ nào cũng có con tôm con cá. Hồi đó, đêm đêm tụi bây mò dề tao dúi vào tay nải của tụi bây nào gạo, nào đường, nào cá tôm. Bây có biết ở đâu ra không? Ở trên cù lao này, ở con sông Thanh Long này, bây giờ chẳng còn gì, chẳng may có giặc trở lại bây ăn cái gì để chiến đấu?

- Má Năm à! Xin má nghĩ lại!

Tư Ngồng dỡ giọng ngọt ngào, đây là sở trường của Tư Ngồng, cũng nhờ sự bình tĩnh hiếm có mà Tư Ngồng thăng tiến vùn vụt trên con đường hoạn lộ.

- Xin má nghĩ lại. Má cứ nhắc chuyện ngày xưa làm gì!? Má có công với cách mạng, thì cách mạng cũng trả công cho má rồi. Chuyện của đất nước má để tụi con lo.

- Mày cứ lo chỗ khác, chứ cù lao này có đáng gì mà mày nhúng mũi vào. Mày dại quá, chẳng lẽ nơi chôn cha mày cũng quy hoạch luôn hả?

Tay chủ tịch xã chen ngang giải thoát cho cấp trên:

- Không phải quy hoạch cả bà Năm ạ. Có những chỗ phải chừa lại, xung quanh đền thờ của Đức Ông phải giữ lại chứ.

Bà Năm Trầu quay lại phía những người nông dân:

- Đó! Bà con thấy chưa? Đất của cán bộ thì không quy hoạch lấy lý do quanh đền thờ Đức Ông, còn đất của bà con thì bị quy hoạch ráo trọi.

Bà quay qua Tư Ngồng:

- Tao nói, là nói cho bà con, chứ tao có quan trọng gì, mày nên nghĩ lại!

Tay chủ tịch xã, bước xuống trước mặt bà Năm Trầu, quát lên:

- Bà già này ngoan cố quá, có gì mời bà lên xã làm việc, cán bộ thành phố xuống làm việc mà bà rắc rối quá. Tôi cho công an gô cổ bà bây giờ.

Từ phía đám đông, một thiếu phụ nhào lên:

- Tao đố cha mày dám đụng vào bà già tao, đồ bất nghĩa, thượng đội hạ đạp, đả đảo chính quyền ép dân.

- Đả đảo! Đả đảo! - Cả đám đông nhao nhao.

Các anh bảo vệ kèm Tư Ngồng ra xe, trước khi đi, Tư Ngồng nhíu mày hỏi gắt với tay chủ tịch:

- Thời này là thời nào?

Thiếu phụ có thái độ hùng hổ ấy là chị Ba Thược, còn gọi là Ba Xung Phong, sở dĩ gọi vậy vì con trai chị tên là Nguyễn Sơn Phong, dân ở đây thường gọi người mẹ theo tên đứa con đầu, bà con đọc trại chữ Sơn Phong thành Xung Phong, từ đó chết danh luôn. Ba Thược, một con người ngang ngạnh nổi tiếng cù lao. Đang học bậc trung học đệ nhị cấp bên phố, chị bỏ vào rừng theo cách mạng. Sau ngày đất nước thống nhất, chị mang bụng bầu về cù lao. Bà Năm Trầu bù lu, bù loa xấu hổ vì con gái. Chồng hy sinh, có được mụn con gái không nên thân. Mặc cho bà Năm lu loa, chị hớn hở ra mặt và tự hào chuyện mình sắp có con. Bà Năm nhiếc mãi, nào là con gái có thân không biết giữ, nào là mất mặt... Bực mình quá chị gắt lại mẹ:

- Bà lên trên đó mà giữ, cả một rừng đàn ông, tối đi vấp một người cũng đủ có bầu.

- Đúng là rau nào sâu nấy.

Bà Năm Trầu đành đấu dịu với con gái. Chị Ba nói ngang với mẹ như vậy, nhưng thực ra chị vẫn nhớ người đàn ông của chị, người đàn ông lái xe của đại đội mở đường Trường Sơn nổi tiếng. Nguyễn Phong đã có vợ, nên chị không muốn vướng bận anh, khi chị mang thai cũng là ngày đất nước thống nhất, chị lặng lẽ rời anh, rời đồng đội để về với mẹ trong miền Nam. Nhiều năm trôi qua, chị vẫn nhớ như in cái lần đầu gặp gỡ anh.

Đường Trường Sơn được coi là “vành đai trắng”, mỗi mét đường đều là cao điểm. Sáu đại đội thanh niên xung phong hầu hết là thiếu nữ trong độ tuổi “bẻ gãy sừng trâu”. Chị em sống rất vui vẻ, hồn nhiên. Cuộc chiến càng ngày càng ác liệt. Không thể làm ban ngày được, nên các đơn vị phải làm ban đêm. Chiếc C100 do Phong phụ trách luôn xung phong đi đầu. Tại trọng điểm cua chữ A đã chịu hàng trăm lần B52 rải thảm. Với khẩu hiệu “Lấy tim đường làm chiến trường, quyết chiến điểm làm trận địa, máu chúng ta có thể đổ, nhưng đường không thể tắc”, C5 đã bám trụ cua chữ A tranh giành từng phút thời gian quý báu giữa hai trận bom để làm nhiệm vụ thông đường. Thược chú ý chàng lái xe đẹp trai dũng cảm ấy trong những lần mở đường cùng nhau. Ngày ấy, cánh lái xe Trường Sơn, anh nào cũng bị lác. Buổi sáng tranh thủ ăn một miếng lương khô, rồi cầm lọ thuốc đi tìm chỗ vắng vẻ để trị ghẻ và hắc lào. Gần chỗ đóng quân của lực lượng thanh niên xung phong miền Nam, trên núi có một hang đá rộng. Hôm ấy, Phong leo lên hang đá rồi cởi quần áo ra xức ghẻ cho dễ chịu. Đang trong tư thế “cha sinh mẹ đẻ” bỗng có một em thanh niên xung phong xuất hiện. Anh hốt hoảng chụp vội quần áo che vào người rồi hét tướng lên:

- Trời, con gái mò lên chi đây?

Cô bé hồn nhiên giải thích:

- Em đi xem Phật sống chứ bộ.

Nói xong cô quay lưng bỏ chạy xuống núi, ném lại phía sau chuỗi cười giòn và mắng yêu bằng giọng Nam bộ ngọt lịm.

- Các anh, đồ khỉ!

Phong lúng túng mặc vội quần áo, trước những tràng cười như pháo nổ của đồng đội trong hang đá.

Sau mới biết cô gái đó tên Thược, Ba Thược, em là y tá vào lán chữa bệnh cho cánh lái xe. Thấy em có vẻ ngây thơ, anh em nghịch bảo: “Trên núi có ngôi chùa của người Lào có thờ Phật sống, lên mà coi”.

Khoảng một tháng, sau lần gặp gỡ “dở khóc, dở cười” ấy, Phong mải mê đuổi theo con thỏ rừng và lạc mất đường về. Đang lang thang bất ngờ anh gặp Thược cũng đang đi lạc trong rừng, gùi rau rừng trên vai Thược đã héo nhưng Thược vẫn cố giữ bên mình.

- Em đi đâu đây?

- Em đi kiếm rau rừng về cải thiện bữa ăn cho thương binh, bị lạc trong rừng đã hai ngày qua, may mà gặp anh.

Hai người băng rừng, đến đám rẫy sắn của đồng bào dân tộc thì họ phát hiện ra các giao thông hào, họ vui mừng biết rằng đã đến gần đồng đội.

Bục... hú... h...ú... ẩm... Bất ngờ máy bay xuất hiện, một loạt bom ném xuống, đám rẫy mì bị cày tung. Phong ôm Thược lăn tròn xuống chiến hào bên bờ suối, hai cơ thể trẻ trung gắn chặt vào nhau. Bóng trăng vẩn đục bởi bụi và khói, miểng bay rào rào. Sau loạt bom hú họa, bầu trời yên tĩnh lạ lùng. Dưới lòng đất họ tan vào nhau... Mặt mũi lấm lem bùn đất, họ ngồi ôm nhau cười... Mãi sau này mỗi khi nhớ lại, Thược vẫn không thể tin được là họ đã thuộc về nhau trong cái khung cảnh lạ lùng ấy, và chỉ một lần ấy chị không ngờ mầm sống xuất hiện giữa lằn ranh của cái chết. Thằng con trai của chị Ba lớn lên đẹp trai ngời ngời, lại học giỏi, đúng như ông bà nói: “Rau tập tàng ngon, con tập tàng thì khôn”. Nó là học sinh đầu tiên của cù lao Dao đậu vào đại học, ban đầu nó học ngành văn. Không hiểu sao khi tốt nghiệp loại giỏi được giữ lại trường giảng dạy, nó đột ngột bỏ hết, rồi kiếm học bổng đi nước ngoài du học, nó chuyển qua học quản trị kinh doanh gì đó, cái ngành học xa lạ mà thời của chị chưa bao giờ nghe tới