Chương 31
Mỗi linh hồn đến với thế giới song song bằng nhiều con đường khác nhau tùy theo tiền kiếp của họ.
- Chào đồng chí!
- Rất tiếc chúng ta đã không còn là đồng chí - Tư Ngồng điềm đạm.
- Xin lỗi! Chào cán bộ.
Tư Ngồng ngồi đối diện với Trần Đình, trước mặt họ là chiếc bàn ghép bằng những cây gỗ. Căn nhà lợp bằng lá trung quân nấp dưới cánh rừng già, bầy chim bồ chao cải nhau inh ỏi trên tàn cây bằng lăng đang mùa trổ bông. Phía sau Trần Đình là hai anh lính trẻ bồng súng, gương mặt non choẹt, cố làm ra vẻ nghiêm nghị. Họ không phải là những du kích trong đội quân của Trần Đình, mà là những người lính chính quy vừa được tăng cường vào chiến trường miền Đông. Tư Ngồng lấy từ cái xắc cốt ra cuốn số và cây viết.
- Chúng ta làm việc nhé!
Im lặng.
- Anh hãy khai thật, anh đã báo cho kẻ thù những chuyện gì?
- Tôi không báo gì cả.
- Vì sao sau khi anh bị bắt thì khu ủy bị oanh tạc?
- Tôi không biết.
- Anh đừng ngoan cố, hãy khai thật sẽ được khoan hồng.
- Tôi chẳng làm gì sai để mà xin khoan hồng.
Trần Đình chồm dậy, anh lính trẻ khẽ ấn vai anh xuống. Trần Đình tỏ ra khó chịu với Tư Ngồng, hắn là cái thá gì mà hoạnh họe anh. Một người vào sinh ra tử như anh mà nay phải cúi đầu trước gã cán bộ này, nhưng trong tình thế này anh không thể làm gì khác hơn.
- Anh giải thích thế nào về tờ truyền đơn in hình anh đang nâng cốc chạm ly với thằng Giôn ở chi khu Lộc Hòa?
- Hắn mời tôi uống bia khi tôi mới bị bắt, tôi đành phải giả bộ với hắn, không ngờ hắn lợi dụng, đó chỉ là trò tâm lý chiến.
- Anh có thể từ chối như một người cộng sản chân chính!
- “Binh bất yếm trá”. Chính anh đã dạy cho tôi điều đó, tôi phải trá hàng với chúng, mới có cơ hội trở về hôm nay.
- Cơ sở quân báo của ta cho biết anh được địch thả về để làm thám báo.
Trần Đình bật dậy:
- Ai? Ai đã báo như thế?
- Anh bình tĩnh, bí mật quân sự không thể tiết lộ, nếu anh không được địch cài trở lại, vì sao chuyện phá ngục, nhiều đồng chí ta bị bắn chết mà anh vẫn thoát?
- Anh hỏi thế là hỏi khó cho tôi, làm sao tôi giải thích được, có lẽ một phần do may mắn, một phần do tôi nhanh nhẹn.
- Câu trả lời của anh cho thấy anh vừa thiếu lập trường quan điểm, vừa kiêu ngạo. May mắn là sao, là nhờ trời, anh đã học duy vật biện chứng chưa? Còn anh nhanh nhẹn là ý anh giỏi hơn các đồng chí khác à?
- Ông đừng chụp mũ tôi!
Trần Đình thay đổi cách xưng hô.
- Anh hãy bình tĩnh, chúng ta làm việc vì đất nước, chứ không phải vì tư thù cá nhân, tôi với anh cùng đứng chung chiến hào, tôi chụp mũ anh làm gì? Anh giải thích như thế nào về việc anh đã giết Hương Nhu?
- Hắn là một kẻ tàn ác, hắn đã giết chết mẹ tôi.
- Ai ra lệnh anh xử bắn ông ta?
- Chính tôi.
- Anh không coi đó là hành động vô tổ chức sao?
Im lặng.
- Đó là chưa kể ngày trước anh hủ hóa với vợ của ông ta.
- Chuyện đó xảy ra trước khi tôi tham gia cách mạng.
- Vậy vì sao anh bị địch bắt? Anh đang chiến đấu hay đang làm gì? Chuyện quan hệ của anh với nhiều phụ nữ nơi anh chiến đấu là trước hay sau khi anh tham gia cách mạng?
- Đó là chuyện tình cảm cá nhân, không ảnh hưởng gì đến tổ chức.
- Anh nghĩ vậy là sai, việc làm của anh gây mất lòng tin trong nhân dân.
- Nhân dân đã từng coi tôi là một anh hùng.
- Anh lại rơi vào chủ nghĩa cá nhân.
- Không có cá nhân sao có tập thể?
- Thật tệ, anh lệch lạc quá, tôi không tranh cãi với anh, anh giải thích thế nào về cậu lính đào ngũ của anh?
- Gã tú tài một ở miền Trung vào mà các anh gán cho tôi ấy à. Tôi biết hắn rất tệ không huấn luyện được, lập trường của hắn rất ầu ơ, chuyện hắn đào ngũ không liên quan đến tôi.
- Hắn đã để lại bức thư tố cáo anh.
- Trần Đình lại chồm lên:
- Hắn?
- Đúng vậy, nhưng chúng tôi đã xác minh những điều hắn viết, anh có nhớ vụ thảm sát ở cù lao và vụ máy bay ném bom ở Vĩnh Thanh không?
- Bọn chúng thật man rợ.
- Anh có biết trước hậu quả của chuyện ấy không?
- Nhiệm vụ của người lính là tiêu diệt kẻ thù, tôi không quan tâm hậu quả.
- Anh không biết rằng nhiệm vụ của cách mạng là chiến đấu để bảo vệ hạnh phúc của nhân dân à? Mọi việc làm của người lính phải nghĩ đến dân.
- Hừ! Các ông chỉ giỏi lý thuyết, các ông hãy thử đối diện với chúng, chẳng lẽ chúng mang dân ra dọa, chúng ta phải đầu hàng?
- Nhưng chúng ta có thể tính toán để tránh thiệt hại cho dân, anh có biết anh ăn hạt gạo của ai để chiến đấu không?
- Im lặng.
- Trần Đình! Tất cả tội ác anh gây ra làm thiệt hại đến hình ảnh người cách mạng là rất lớn, có thể anh sẽ bị xử bắn.
- Có thể tôi sai, nhưng tôi không đầu hàng giặc.
- Anh không có gì để chứng minh cho điều ấy?
- Tôi đầu hàng thì tôi về đây làm gì?
- Anh được bọn địch thả về để phá hoại căn cứ.
- Tao không hiểu sao tổ chức lại dùng loại người cơ hội và ngu ngốc như mày?
- Loạn ngôn, trói anh ta lại, chờ cấp trên thành lập tòa án để xét xử cái tội làm gián điệp.
Trần Đình đưa tay cho người lính trói. Mặt trời chiến khu đã lên cao, những đốm sáng lổ đổ trên mặt lá khô, bầy bồ chao bay đi, hàng ngàn loại chim đua nhau líu lo. Khung cảnh thật đẹp và thanh bình. Trần Đình đã từng nằm đong đưa trên võng hàng buổi liền nghe tiếng chim hót, sau mỗi trận đánh, thiên nhiên đã nuôi dưỡng tâm hồn người lính. Nhiều ngày cả đơn vị không có hột muối, mọi người vẫn vui vẻ sống và chiến đấu. Anh không tin rằng từ đây anh không còn cơ hội để nghe tiếng rừng, để thở hơi thở của rừng và chiến đấu với cái oai phong dũng mãnh của rừng. Trần Đình bị trói vào gốc bằng lăng đang mùa trổ bông tím ngát. Nắng bắt đầu hừng hực trên cánh rừng, nắng tràn qua các tàn cây rọi lên mặt anh. Trần Đình bình thản dõi theo những mắt lá đung đưa trên cơ thể của cặp vượn đang âu yếm nhau trên ngọn cây. Trần Đình nghe người nóng hừng hực, anh xấu hổ bởi đòi hỏi khó chịu của thể xác ngay lúc anh có thể phải giã từ cuộc sống. Bên kia bụi trung quân, một phụ nữ lén nhìn anh gạt nước mắt...
*Trần Đình nhắm mắt, tuổi thơ buồn bã lần lượt hiện về. Anh không phải được sinh ra ở cù lao Dao. Nơi anh sống nằm phía bên kia sông, làng Vĩnh Thanh là nơi trồng mía, lúa và những cánh rừng cao su bạt ngàn nổi tiếng. Cụ tổ Trần Việt luôn nhắc nhở con cháu quê hương chính của mình là ở cù lao Dao, vùng đất màu mỡ nằm giữa hai nhánh sông của dòng Thanh Long hùng vĩ. Đó là con sông kiêu hãnh và thiêng liêng. Cụ tổ muốn con cháu trở về nơi “chôn nhau cắt rốn” để làm ăn lương thiện, nhưng dòng máu kiêu hùng cứ truyền lại từ đời này qua đời khác và đời nào cũng có người vùng lên chống lại những bất công của xã hội. Không chính quyền nào có thể chấp nhận cái kiểu ngang ngạnh ấy, nên họ luôn bị coi là kẻ cướp, cho đến lúc cách mạng về thì ông nội anh, một kẻ cướp khét tiếng vùng sơn cước đã thành một anh hùng cứu nước. Cha anh sinh ra giữa rừng già, nhưng ông lặng lẽ quay về Vĩnh Thanh sống cuộc đời hiền lành của nông dân. Sự an nhàn không thể có trong một đất nước bị nô lệ!
Rừng cao su mùa thay lá, cành cây vươn lên bầu trời đầy ắp ánh trăng, như hàng ngàn đôi tay gây khẳng khiu của những công nhân cùng khổ, đưa lên kêu trời dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Ông Doanh nhìn cậu con trai Trần Đình, giọt máu cuối cùng của dòng họ đang nằm co quắp trong căn chòi trống huơ trống hoác, giữa rừng cao su lạnh lẽo. Gió lùa từng đợt tung lá cao su khô xào xạc, ánh trăng rọi qua mái lá loang trên mặt thằng bé. Mấy cái niêu đất chỏng chơ đựng đầy ánh trăng. Ông thấy thương con trai quá đỗi, mới từng tí tuổi đầu mà đã phải vất vả. Pháp về ủi đất Vĩnh Thanh làm cao su, ông xin làm công nhân, tưởng rằng cuộc đời khá hơn, nhưng ông đã lầm, đời sống của công nhân chẳng khá hơn gì so với những người nông dân.
Gần đến ngày cướp chính quyền, không khí trong các đồn điền sôi sục hẳn lên. Ông Doanh cùng các anh em công nhân đã sẵn sàng đánh Pháp, đuổi Nhật. Ông kéo chiếc chiếu đắp lên người thằng bé, rồi cầm cây tầm vông rón rén ra cửa. Đình nằm yên để cha âu yếm, khi ông đưa tay sờ lên mặt, cậu muốn hôn lên bàn tay chai sạn của cha, cậu cắn môi rướm máu. Mấy hôm nay cha đi vắng luôn. Cha đi rồi, hai mẹ con ngồi thu lu ngóng ra rừng cao su. Đoàng...
Đo...àn...g... Một loạt súng nổ phía mà cha vừa đi. Mẹ ôm mặt khóc. Đúng như linh cảm của me, cha bị Pháp bắn. Đêm ấy, mẹ đưa Trần Đình vượt sông trở về cù lao như ước nguyện của dòng họ. Hai mẹ con vào làm thuê cho gia đình của địa chủ Trần Thượng Nhu. Nhờ siêng năng chăm chỉ, hai mẹ con được gia đình ông Nhu thương và cho ở nhờ trong khu vườn rộng của họ.
*“Tôi mệt mỏi âm thầm rảo bước trên con đường rừng mấp mô, hun hút và tối tăm. Bỗng bầu trời đen kịt, đất nghiêng hẳn trút tôi vùn vụt, tôi lạc vào khu rừng âm u, rộ lên những tiếng hú dài. Những bóng người đen đúa từ các cành cây bám theo các sợi dây rừng, thoăn thoắt bay đến trước mặt. Không nói không rằng, họ phóng những ngọn lao bằng tre rừng vạt nhọn về phía tôi, những ngọn lao xuyên qua người đau nhói, nhưng không chảy máu. Họ hành động như thể tôi là con thú chứ không phải con người. Những tiếng hú mỗi lúc càng thê lương và ma quái hơn. Những bóng đen trần trụi ngày càng đông, chúng bám những sợi dây rừng đuổi theo. Tôi chạy, mặt đất chao đảo, bầu trời tăm tối, lũ người rừng vẫn nườm nượp đuổi sau lưng, họ cười khùng khục miệng đỏ như máu..."
Trần Đình đã kể lại cho nhà thơ khi gặp anh ở thế giới song song câu chuyện trên đây.
Ông đã thấy mình như vậy. Sau khi vượt qua khu rừng âm u, ông đã đến được vùng đất thoạt nhìn như cù lao Dao, nhưng lại thẳng đứng theo dòng sông chảy từ trời xuống. Không giống như khi ông còn sống, cù lao quá rực rỡ, có rừng cây trái, tòa lâu đài và những đứa trẻ bay lượn với đôi cánh thủy tinh. Ông già tiên tri giải thích cho nhà thơ rằng:
- Mỗi linh hồn đến với thế giới song song bằng nhiều con đường khác nhau tùy theo tiền kiếp của họ.