← Quay lại trang sách

Chương 34

Nỗi đời cơ cực đi qua vô thường

Có gì anh phải vấn vương...

Trần Đình về dưới gốc ngọc lan, anh chưa đủ năng lượng để tái sinh, nhưng anh vương vấn trần gian, anh còn nhớ ngày ở chiến khu, cậu lính trẻ đọc một bài thơ trước ngôi mộ của một đồng đội:

... Bỗng dưng lòng tôi xót xa

Nỗi đời cơ cực đi qua vô thường

Có gì anh phải vấn vương

Tôi lê bước mỏi, đoạn trường vui chi?

Lạy anh, anh hãy về đi

Theo làn mây trắng thiên di nỗi buồn...

Bài thơ không hay lắm, nhưng từ khi anh bước vào thế giới song song anh luôn nhớ đến.

- Anh xanh quá!

Mỗi lần gặp anh, ni cô Diệu Lan lại nói câu ấy. Anh nhìn nàng bằng đôi mắt sâu thẳm:

- Anh sẽ chờ em tái sinh.

Diệu Lan cúi đầu:

- Em không biết sau này em có muốn trở lại trần gian đầy khổ lụy này nữa không?

- Anh đã gặp Tư Ngồng ở thế giới song song.

Nghe anh nói, Diệu Lan biết Tư Ngồng đã giã từ thế giới vật chất, cô không ngạc nhiên, thời gian trong chùa cô ngộ lẽ sinh tử ở đời. Chết! Đôi khi là sự giải thoát. Tư Ngồng không còn ai, cô phải về làm đám tang cho ông. Dù cô biết cơ quan, chính quyền sẽ làm, nhưng vẫn phải có mặt Lan, trên danh nghĩa Lan vẫn là vợ Tư Ngồng.

Tiếng gõ mõ đều đặn vang lên trong chùa. Ánh trăng sáng sau khi đám mây bay qua.

- Anh đi nhé.

Bóng Trần Đình tan vào hư không, Diệu Lan trở lại chùa. Cô đến phòng sư bà, sư bà nhập thiền, tay cầm tràng hạt, sư bà khẽ mấp máy nhưng cô nghe rõ tiếng nói của sư bà, tiếng nói rõ như được rót từ hư không:

- Con hãy về lo đám tang cho ông ấy. Con nhớ cất lưỡi dao và hãy chôn lưỡi dao theo cho ông ấy.

- Thưa thầy con không hiểu?

Sư bà im lặng, mắt nhắm nghiền, Diệu Lan lạy sư bà và rời chùa đi về phía vườn bưởi. Cô lặng lẽ đi dưới ánh trăng bàng bạc phản chiếu trên dòng sông, ánh trăng vỡ vụn trên cù lao, chập chờn trên các vườn cây, không gian thinh lặng. Lan nhớ những ngày cùng Tư Ngồng chiến đấu, nhớ những ngày vợ chồng mới về cù lao. Thằng Thắng quặt quẹo sau cơn sốt, cũng hớn hở cười với các cô gái vẫy cờ chào đoàn quân chiến thắng.

Bà Năm Trầu đón họ từ đầu ngõ, bà ôm Tư Ngồng, ràn rụa nước mắt, bà đưa tay sờ khắp người ông, kéo khăn rằn lau mặt, bà mếu máo:

- Phước đức tổ tiên! Mày vẫn nguyên dẹn, tội nghiệp mẹ mày.

- Chúng con đã về với cù lao rồi, má đừng lo, hết chiến tranh rồi, hết chết chóc rồi má ơi!

Tư Ngồng ôm vai vợ và các con đến trước mặt bà Năm Trầu:

- Giới thiệu với má, vợ và con trai của con.

Bà Năm Trầu choàng tay ôm mẹ con Lan vào lòng:

- Mồ tổ cha bây, dậy là dợ con đàng hoàng rồi, mẹ mày cứ lo bà không kịp cưới dợ cho mày để mày có con nối dõi tông đường.

Thằng con trai của Tư Ngồng, đưa tay sờ miệng bà Năm Trầu, vừa ngây ngô cười vừa nói:

- Máu! Máu! Hê hê…

- Không phải đâu cháu, là trầu đó.

- Máu! Máu! Hê hê...

Bà Năm Trầu đưa mắt nhìn Lan, Tư Ngồng giật con trai trao cho Lan:

- Thôi qua với mẹ đi đừng quấy bà.

- Máu! Máu! Hê hê...

Bà Năm Trầu nắm tay Lan dắt qua cổng:

- Thôi dô nhà đi, tao giao lại cho tụi bây, coi như đã làm trọn lời hứa dới mẹ mây.

Ngôi nhà ba gian hình chữ đinh, hai mươi cây cột to như cột đình, trính, kèo, rui, mè chạm trổ đầu rồng với nhiều họa tiết công phu, mái lợp ngói âm dương, ngôi nhà dường như đã có mặt trên cù lao hàng trăm năm trước và chủ nhân của nó là một người giàu có.

Lan khẽ khàng thắp nén nhang trên bàn thờ có tấm hình người đàn bà khá đẹp, gương mặt đài các và quý phái, chiếc áo dài kín cổ, ba vòng chuỗi ngọc trai xanh muốt, có vẻ như chụp từ rất lâu. Cô đưa mắt nhìn quanh như muốn hỏi: “Bàn thờ các cụ ở đâu?”

Bà Năm Trầu như hiểu ý Lan, bà chỉ lên gác:

- Chỗ này tao làm tạm để hương khói cho bà già, chờ tụi bây dề, còn bàn thờ tổ tiên ở trên gác ấy.

*

Tư Ngồng hừng hực lao vào công cuộc xây dựng lại đất nước. Lan xin ra quân ở nhà chăm sóc vườn bưởi lớn ven sông. Vốn trước đây vườn bưởi này của mẹ Tư Ngồng, khi ông đi chiến đấu, bà mất, bà con cù lao chôn bà trong vườn. Bà Năm Trầu chăm sóc vườn bưởi cho đến ngày Tư Ngồng trở về. Thời thơ ấu, Lan ở vùng ruộng chót mũi cù lao, cha cô nghèo, mùa nông nhàn ông qua sông đốn củi hoặc làm thuê trong vườn bưởi. Nhiều lần, ông dẫn Lan theo, cô ngây ngất trước vườn bưởi trĩu quả, hít lấy hít để mùi hương hoa bưởi. Lan lon ton đi nhặt hoa bưởi về nấu nước hoa, để xức lên mái tóc vàng hoe của mình. Lan không ngờ có ngày cô sở hữu mảnh vườn mà cả đời cha cô không thể nào có được. Cô thấy ngày xưa mình giận cha, bỏ đi thật là vô lý. Ông khổ cả đời. Ngày ở trong chiến khu nhận tin cha của cô đã chết trong cô quạnh và đau buồn, cô khóc hết nước mắt, đành mang tội bất hiếu không về được. Bà Năm Trầu và bà con lối xóm đã chôn cha bên mũi nhọn của cù lao, nơi suốt đời ông lam lũ kiếm sống. Cô làm bàn thờ nhỏ trong giao thông hào rồi cùng chồng quỳ lạy, xé miếng vải mùng trắng làm khăn tang. Hình ảnh người cha lầm lì ngồi hút thuốc trong căn chòi lá bên sông, đôi mắt ráo hoảnh nhìn cô ra đi ám ảnh cô mãi. Cha! Tại sao cha không giữ con lại? Cha biết không? Ngày ấy nếu cha đưa tay ra có lẽ con sẽ không vào rừng, nhưng cha không làm thế. Ngày đó con còn nhỏ quá. Khi con trở về trong tư thế của người chiến thắng thì cha đã ra đi!

Tư Ngồng đi biền biệt như thời còn chiến tranh, cô lầm lũi chăm sóc vườn bưởi. Gốc nông dân “chân lấm tay bùn” từ nhỏ, có được miếng đất là mơ ước ngàn đời nay của người nông dân. Cô hùng hục lao động như những người dân cù lao, vườn bưởi xanh um. Vài tuần, Tư Ngồng tạt qua nhà đưa cho cô mấy lượng vàng rồi tất tả ra đi. Cô không đụng tới vàng của ông mang về, cô cất hết vào tủ của ông. Khi nào cần thì ông mở ra để lấy. Thằng Thắng càng ngày càng man dại và điên loạn, người đầy lông lá và mụn cóc, nhưng nó vẫn ăn uống và khỏe mạnh. Tư Ngồng không ngó tới thằng Thắng, mỗi lần nó chạy lại ôm chân, ông đá nó văng ra như trái banh. Nghe tiếng con khóc, Lan bỏ cuốc chạy vào ôm con vỗ về. Từ đó về sau, mỗi lần thấy cha, thằng Thắng chạy lại nép vào lòng mẹ. Lan khóc hết nước mắt. Lan đưa con đi khắp nơi nhưng tất cả bác sĩ đều phán câu: “Nhiễm chất độc da cam, không chữa được!” Từ lâu, Lan không để Tư Ngồng chạm vào người. Đêm nằm ôm con với những giấc mơ về những đứa trẻ không hình hài. Nhiều hôm Lan nghe Tư Ngồng bật dậy hét lên:

- Hãy giết nó đi, đồ nghiệt chủng!

Thằng Thắng rúm người lại rúc vào lòng mẹ. Mỗi lần nhà có khách, cô nhốt nó xuống nhà dưới. Càng ngày Tư Ngồng càng đổi khác, ông xa lạ đến nỗi cô không còn ý thức ông là chồng cô, Tư Ngồng là ông chủ, Lan là người ở, cái ranh giới ấy dần dần hình thành.

Bên hông khu vườn là dãy nhà tập thể của các cô giáo trường tiểu học. Thằng Thắng thường tha thẩn ra đó chơi. Đôi lúc các cô giáo còn cho nó kẹo. Thằng Thắng càng lớn càng giống con vượn người. Thắng chỉ quanh quẩn trong vườn nên Lan cũng đỡ lo lắng. Buổi sáng, đầu mùa hoa bưởi nở, đang làm thì cô nghe tiếng rú của các cô giáo ngoài góc vườn, Lan bỏ cuốc chạy ra. Một cô giáo đang ngất xỉu, các cô khác xúm lại bắt gió. Thằng Thắng đang nhai ngấu nghiến miếng vải mùng, mà các cô vừa giặt phơi lên dây sào, bên tường rào nhà Lan.

Thấy mẹ, thằng Thắng vọt chạy, miệng la lớn:

- Hú hú... Giết, giết, giết!

- Thắng! Thắng! Đứng lại mẹ đây!

- Hú, hú... Giết, giết!

Thắng chạy ra cổng gặp Tư Ngồng về, ông và anh tài xế quật Thắng xuống trói lại. Lan ôm con khóc nức nở. Cô nhốt Thắng vào nhà kho và từ đó thằng Thắng ăn tất cả các loại vải mà nó có trong tay. Nó xé cả áo quần. Cuối cùng, Tư Ngồng làm cái lồng sắt nhốt nó lại sau khi nó xé toang con chó trong nhà kho. Mỗi lần nhìn thấy nó là ông rít bên tai Lan:

- Giết nó đi! Đồ nghiệt chủng!

Thời gian trôi qua, thời bao cấp cũng qua, cuộc sống khá dần lên, Tư Ngồng thay đổi. Ông trở thành cán bộ cấp cao. Bà con lối xóm xầm xì về ông và họ xa lánh dần mẹ con cô. Ngay má Năm Trầu và chị Ba Thược là những người đã từng thương yêu mẹ con cô, cũng xa lánh. Cô bị cầm tù ngay trong ngôi nhà của mình, cầm tù ngay trong làng quê của mình. Lan thấy mình không khác gì Thắng, có điều nhà tù của cô rộng hơn, lớn hơn. Cuộc chiến tàn bạo đã để lại những vết thương khủng khiếp trên đất nước, để lại dấu ấn độc ác trên cuộc đời của những sinh linh bé bỏng. Hậu quả của nó còn tàn bạo hơn những vụ thảm sát trong chiến tranh.

Lan lầm lũi bước đi dưới ánh trăng giữa những con đường mòn trắng lạnh, dưới mùi hương ngào ngạt của hoa bưởi, cô trĩu nặng với những nỗi buồn quá khứ. Thời gian tu hành trên chùa chưa giúp cô thoát khỏi những ám ảnh khốc liệt của cuộc chiến để lại. Cô đi qua làng Nồi Đất, dãy nồi đất phơi bên vệ đường như những cái đầu người vừa bị chặt, lăn lóc. Lan khẽ rùng mình nhớ lại câu chuyện của cha về làng nổi trên cù lao:

“Nghe cha ông truyền lại ngày xưa khi các cư dân vùng Ngũ Quảng vào đây lập nghiệp, các cụ tạo ra các sản phẩm từ đất để phục vụ cho cuộc sống. Nhưng nồi làm ra, nung không chịu chín. Các cụ rủ nhau lên núi Châu Thới cầu xin, đêm ấy cụ tiên chỉ nằm mơ thấy một vị thần đầu đội nồi đất, mặt đỏ như lửa hiện về đứng trước lò nung, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất. Giật mình tỉnh dậy, cụ truyền cho dân làng cách dùng bổi đốt bên dưới lấy lửa ngọn, đổ than bên trên để nung. Mẻ nổi đầu tiên đỏ tươi rất đẹp, từ đó về sau, mỗi khi đốt lò thợ lò đều cúng tổ.”

Có thời gian, cô không tin chuyện thần linh, nhưng bây giờ thì Lan đã hiểu thần linh cũng tồn tại song song với loài người.

Nhìn những cái nồi đất, cô chợt nhớ, trên bàn thờ trên căn gác âm u, Tư Ngồng bày nhiều nồi đất. Ông ta không cúng bằng hoa quả mà cúng bằng nồi đất. Ngày đầu Lan tò mò hỏi:

- Sao không cúng hoa quả mà cúng nồi đất?

Tư Ngồng nạt:

- Đàn bà biết gì mà hỏi, chuyện bí mật của dòng họ.

Lâu lâu, Lan thấy chồng mở cái tủ thờ lấy vật gì đó giấu trong cái nồi đất ra ngắm nghía.

Lan bước đi giữa dãy nồi đất, dưới ánh trăng bàng bạc và vỡ vụn. Thằng Thắng đã ra đi vào đêm trăng như thế này...

Thằng Thắng chết dưới con mắt của mẹ nó, chứ nó không biết nó chết. Nó thấy nó nhẹ nhàng và tự do, nó đi qua cái cũi sắt mà không có gì cản trở. Nó bay trên các ngọn cây bưởi. Nó nhìn thấy mẹ nó ôm xác của con vượn người, khóc ngất:

- Thắng ơi, Thắng sao con bỏ mẹ?

Mẹ gọi tên nó. Nó không nghĩ cái xác người gớm ghiếc mà mẹ nó ôm trong tay chính là nó. Thằng Thắng rong chơi thỏa thích trên cù lao, mà trước đây nó không được tự do. Nó bay qua khu nhà tập thể của các cô giáo. Khu nhà vẫn tồi tàn như hàng chục năm trước. Nó nhìn thấy cô giáo trẻ tắm trong buồng tắm, che tạm bằng mấy tấm tôn cũ. Từ trên cao nó thấy rõ thân thể trắng trẻo, bầu ngực căng tròn, hai đầu vú đỏ hồng. Cô giáo tự xoa ngực mình. Hắn khẽ chạm vào người cô, cô vẫn không biết, cô không nhìn thấy nó, Thắng âu yếm cô. Lần đầu tiên hắn vuốt ve thân thể phụ nữ, hắn không cảm thấy phần bụng dưới của hắn căng cứng như trước đây. Mọi thứ chỉ còn cảm giác. Dường như cô giáo biết có người vuốt ve, cô rùng mình và dội nước liên tục. Nước loang loáng dưới ánh trăng...