← Quay lại trang sách

LỜI MỞ ĐẦU

Nước Tàu là một đại đế quốc đã có mặt trên trái đất từ thời cổ đại và tiếp tục bành trướng to lớn mãi cho đến ngày nay. Hàng ngàn nước nhỏ chung quanh nước Tàu đã lần lượt bị người Tàu xâm chiếm và đồng hóa. Nước nào đã bị nước Tàu cai trị một lần dù thời gian cai trị ngắn hay dài, nếu chưa bị “mất tích” cũng bị người Tàu coi là “đất cũ”, là “một phần lãnh thổ của Trung Quốc”.

Trong chính sách đồng hóa của người Tàu, ngoài việc sử dụng trình độ văn hóa cao để chinh phục đối tượng, họ còn sử dụng luôn cả chính sách xuyên tạc những hình tượng tốt đẹp trong quá khứ của các nước bị họ cai trị. Qua sách vở của người Tàu, những hình tượng tốt đẹp này đã biến thành quỉ quái, lố bịch, dã man, mọi rợ… Mục đích của việc làm này là đầu độc trí óc lớp hậu duệ: Với dân Tàu, đó là cách nuôi dưỡng tinh thần chủ nhân, tinh thần đại hán. Với dân bị trị, đó là cách gieo rắc tinh thần tự ti, chán nản để họ chối bỏ cội nguồn mà hướng về văn hóa Tàu.

Mỗi lần chiếm được một nước, ngoài việc vơ vét những tài vật quí giá của nước này đem về Tàu, người Tàu còn tích cực làm các việc như sau:

- Lùng kiếm nhân tài: học giả, nhà sáng chế, thầy địa lý, thầy thuốc, kiến trúc sư, thợ khéo, chiêm tinh gia, lực sĩ v.v… Tất cả những kẻ có danh trong các hạng này đều bị đem về phục vụ ở kinh đô nước Tàu và coi đó như là những tinh hoa của Tàu.

- Lùng soát vơ vét các loại sách vở do người bản xứ trước tác. Những sách giá trị cao họ đem về Tàu giữ làm tài liệu để rồi biến chế lại thành của họ. Những sách thấy không cần thiết họ đem đốt sạch khiến dân bản xứ không còn cái gốc để tra cứu.

Tất nhiên về sau, khi muốn tìm hiểu về cội nguồn lịch sử, văn hóa của mình, dân bản xứ chỉ còn biết dựa vào… sách Tàu!

Những viên tướng giỏi của nước Cao Ly (Triều Tiên) từng đánh cho nước Tàu bao phen liểng xiểng như Cáp Tô Văn, Ô Tất Khải, qua sách vở của Tàu, họ đều bị biến thành những tên quỉ sứ mặt xanh nanh vàng vô nhân tính. Hai Bà Trưng của Việt Nam người Tàu cũng biến thành những nữ tặc mặt đen như lọ chảo.

Nhờ chính sách thâm độc này mà nước Tàu đã lần lượt nuốt sạch cả khối “Bách Việt”, chỉ còn sót vỏn vẹn một nước Việt Nam!

Chuyện dân tộc Việt đã nổi lên giành lại được nền độc lập sau ngót một ngàn năm bị người Tàu đô hộ là một chuyện quá phi thường! Không những đã giành lại được độc lập, dân tộc Việt còn ngang nhiên phát triển lớn mạnh ngay bên cạnh nước Tàu tham lam ấy! Nếu không phải là điều đã thật sự xảy ra mà cả thế giới đều thấy thì nói ra khó ai tin được. Đó là một điều mà mọi người Việt chúng ta đều có quyền tự hào!

Nhờ đâu mà dân tộc Việt đủ khả năng gìn giữ và nuôi dưỡng tinh thần độc lập, ý chí tự chủ sắt đá ấy qua suốt cả ngàn năm tối tăm dưới sức đồng hóa mãnh liệt của Hán tộc?

Đó không phải chỉ do công lao của những vị anh hùng danh tiếng như hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ v.v… mà còn do sự góp sức của toàn dân đấu tranh dưới mọi hình thức, khi công khai, khi âm ỉ nhưng liên tục không lúc nào ngưng.

Đây là một dẫn chứng về tinh thần đấu tranh liên tục của toàn dân Việt:

Sau khi Phục Ba Tướng quân Mã Viện nhà Đông Hán đã đánh bại Hai Bà Trưng để tái lập cuộc đô hộ của người Tàu trên đất Việt, y đã cho dựng một cột đồng trụ để ghi công. Trên cột đồng này Mã Viện cho khắc sáu chữ lớn: Đồng Trụ Chiết – Giao Chỉ Diệt, nghĩa là cột đồng gẫy thì người Giao Chỉ mất nòi. Sáu chữ này người Việt đương thời cho là có ý nghĩa như một lời nguyền.

Vì sợ cột đồng gẫy thì nòi giống mình sẽ mất nên dân Việt phải tìm mọi cách để giữ cho cột đồng nói trên khỏi gẫy. Dân Việt đã vận động ngầm với nhau, ai đi ngang qua cột đồng ấy cũng lượm một viên sỏi ném vào chân cột. Trải qua nhiều thế hệ dân Việt vẫn tiếp tục làm công việc ấy. Kết quả là bao lớp sỏi đá đã lấp kín cột đồng lúc nào không hay. Thậm chí người ta không còn biết nơi dựng cột đồng ở đâu nữa. Đến đời Đường viên tướng phù thủy Cao Biền cho tìm lại cột đồng ấy để làm gì đó không biết nhưng tìm không ra.

Một điểm đặc biệt nữa là cuộc khởi nghĩa chống Tàu đầu tiên (năm 40 TL) của dân Việt lại do hai người đàn bà lãnh đạo: Hai Bà Trưng. Hai trăm năm sau một cuộc khởi nghĩa chống Tàu khác lại diễn ra (năm 248 TL), cũng do một người đàn bà lãnh đạo: Bà Triệu Thị Trinh.

Như vậy là trong bước đầu khi đất nước bị giặc Tàu đô hộ, người phụ nữ Việt Nam đã tỏ ra năng động, can đảm vùng dậy giành độc lập trước cả các đấng trượng phu!

Đó là những vụ nổi dậy quá lớn làm rúng động cả triều đình nước Tàu khiến họ phải ghi vào chính sử của họ! Chắc hẳn còn nhiều vụ nổi dậy do giới phụ nữ Việt Nam lãnh đạo khác nữa nhưng ở tầm cỡ nhỏ hơn nên người Tàu không chép lại mà thôi. Đây không phải sự phỏng đoán liều, vì thực tế, trong công cuộc đấu tranh giải trừ hiểm họa Bắc thuộc hiện nay chúng ta thấy giới phụ nữ đã tham gia không ít!

Đáng tiếc là những sách sử do người Việt chép trước kia đã bị người Tàu tịch thu đem đốt hết. Vụ đốt sách của người Việt lớn nhất đã xảy ra vào đầu thế kỷ 15 do viên Tổng binh Trương Phụ thực hiện sau khi y đã diệt xong nhà Hồ (1407).

Chính sách thủ tiêu chứng tích để dễ bề xuyên tạc nguồn gốc và tinh thần đấu tranh của dân Việt mà người Tàu đã thực hiện gây rất nhiều khó khăn cho những sử gia của ta. Một số sự kiện lịch sử quá mơ hồ không có tài liệu để sưu khảo, họ chỉ còn biết cách chép theo sử của người Tàu! Ngay cả bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là một bộ sử được viết bởi những sử gia danh tiếng qua nhiều đời, được coi là bộ sử có giá trị đáng tin cậy nhất của nước ta mà nay đọc lại chúng ta cũng gặp những đoạn đáng buồn:

“Nhâm Tuất, 722, (Đường Huyền Tôn, Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10). Tướng giặc là Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn. Vua Đường sai nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc và Đô hộ là Nguyên Sở Khách đánh dẹp yên được”.

Mai Thúc Loan chỉ là “giặc” đối với chính quyền đô hộ Tàu chứ đâu phải là giặc của dân Việt? Người Việt viết sử Việt mà rinh nguyên chữ “Tướng giặc là Mai Thúc Loan…” từ Đường thư về theo là một sự thiếu cẩn thận!

Rất nhiều trường hợp các sử gia Tàu vì mục đích phục vụ lợi ích của triều đại họ, hoặc một số văn nhân Tàu nặng lòng kỳ thị các dân tộc khác đã cố tình bóp méo, xuyên tạc hình tượng những nhân vật mà các dân tộc này tôn thờ, yêu chuộng.

Vị anh thư Triệu Thị Trinh của dân tộc Việt là một nạn nhân điển hình của chính sách xuyên tạc bôi bác ấy! Người Tàu – nhất là chính quyền đô hộ Tàu – rất thù ghét người đàn bà đã dám nổi dậy chống lại họ, đã làm họ điêu đứng một thời gian khiến vua Đông Ngô là Tôn Quyền phải cử danh tướng Lục Dận sang đàn áp. Viên tướng này đã phải vất vả lắm mới thành công được!

Về tên gọi, người Tàu gán cho Bà Triệu một cái tên mang tính mỉa mai, khinh miệt: Triệu Ẩu. Âm Ẩu theo chữ Hán có nghiã là đánh lộn, mửa, bà già, mụ. Chữ Triệu Ẩu người Tàu dùng trong sách vở có thể dịch ra là “Mụ Triệu”. Thế nhưng hầu hết sách sử nước ta đã bắt chước theo người Tàu, cứ dùng cái tên không đẹp đó cho vị anh thư của dân tộc mình. Mãi đến giữa thế kỷ 20 mới có một số sử gia, trong đó có sử gia Trần Trọng Kim, đã cảnh tỉnh, đã phân tích cái dụng ý của người Tàu, không dùng tên Triệu Ẩu nữa mà gọi lại cái tên thật của Bà là Triệu Thị Trinh.

Về bản thân Bà Triệu, người Tàu vẽ nên một hình ảnh rất khó coi: vú dài ba thước! Sách Giao Chỉ Chí của Tàu chép:

“Trong núi ở quận Cửu Chân có người con gái họ Triệu, vú dài ba thước, không lấy chồng, họp đảng cướp bóc các quận, huyện, thường mặc áo ngắn màu vàng, chân đi giày mũi cong, ngồi đầu voi mà chiến đấu, sau chết làm thần”.

Sách “Thái Bình Hoàn Vũ Ký” của Nhạc Sử đời Tống cũng chép sự tích Bà Triệu tương tự như thế.

Thế là các sử gia và một số thi văn gia của ta cứ tin, cứ sơn vẽ lại cái hình ảnh dị hợm “vú dài ba thước” đó qua tác phẩm của mình. Trong số lầm lẫn này có cả các bậc vua chúa, công hầu nữa mới đáng buồn!

Chúng ta không thể trách sự tin lầm của các bậc tiền nhân vì thời bấy giờ ảnh hưởng văn hóa của người Tàu đối với nước ta còn quá đậm, nó đã quay như một guồng máy, các bậc tiền nhân ta thật khó tách ra ngoài được! Thế nhưng bây giờ đã nhận chân được điều vô lý đó rồi tại sao chúng ta không sửa đổi?

Để trả lại hình ảnh thật hơn của một bậc anh thư đã hi sinh cả cuộc đời cho lẽ sống của dân tộc, quyết đưa dân tộc Lạc Việt thoát khỏi ách nô lệ của người Tàu vào thế kỷ thứ 3, tôi đã sưu tầm một số truyền thuyết dân gian nói về bậc anh thư ấy, xây dựng thành một thiên tiểu thuyết lịch sử. Xin mượn câu thơ “ĐẦU VOI PHẤT NGỌN CỜ VÀNG” ở đoạn viết về Bà Triệu trong tập sử thi Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của hai ông Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái để làm tựa đề.

Rất mong thiên tiểu thuyết lịch sử ĐẦU VOI PHẤT NGỌN CỜ VÀNG này sẽ đóng góp được phần nào trong việc hóa giải những hình ảnh sai lầm về bậc anh thư dân tộc Triệu Thị Trinh do người Tàu cố ý vẽ ra! Đồng thời cũng để nêu cao tinh thần tranh đấu quật cường của người phụ nữ Việt Nam trước nạn nước như hiện nay.

Sacramento, ngày 1 tháng 1 năm 2014

Ngô Viết Trọng