CHƯƠNG 20
Khi được hai nữ tướng phò về đến căn cứ Bồ Điền, Triệu Bà Vương vẫn còn ở trong trạng thái hôn mê. Mấy vị thầy thuốc quanh vùng liền được mời đến để lo việc chạy chữa. Bệnh Bà Vương có giảm nhưng rất chậm. Trong cơn mê Bà Vương cứ luôn miệng mắng chửi bọn Tàu Ngô gian ác bẩn thỉu. Hai nữ tướng Hải Đường và Hướng Dương phải thay nhau săn sóc cho Bà. Một vị thầy thuốc bảo:
-Uất khí trong người bệnh xông lên quá mạnh, nhất thời khó mà chế ngự được. Phải chữa từ từ, phải có người biết dùng lời dịu ngọt để vuốt ve, an ủi làm cho bệnh nhân cảm thấy an bình, thoải mái bệnh mới dễ thuyên giảm. Kỵ nhất là đừng gợi đến những chuyện không vui làm người bệnh có thể bị khích động.
Khi bốc thuốc và dặn dò hai nữ tướng về cách thức sử dụng, vị thầy thuốc này xúc động nói:
-Triệu Bà Vương là bậc anh thư siêu phàm, tôi vô cùng khâm phục. Nhị vị cô nương cũng là bậc nữ lưu anh kiệt hiếm hoi trên đời. Tôi có đứa con gái tên An Nhi mười lăm tuổi cũng quen việc thuốc thang, tôi muốn đưa nó vào đây trước giúp hai cô nương về việc thuốc thang, sau để nó học hỏi hai cô nương, nhị vị có ưng thuận không?
Hướng Dương đáp:
-Chúng tôi xin cám ơn thầy, nhưng việc này phải thỉnh ý Bà Vương chứ chúng tôi không thể tự quyết định.
Sau đó không thấy ai nhắc lại lời đề nghị của vị thầy thuốc nữa. Hải Đường và Hướng Dương tuân theo lời thầy thuốc, vừa chăm sóc thuốc thang vừa tìm cách khuyên nhủ, an ủi làm cho Bà Vương khuây khỏa. Họ giấu biệt chuyện nghĩa quân đã thua trận khắp nơi và đang co cụm về cố giữ lấy căn cứ Bồ Điền.
Sau khi dùng mưu kế của Kim Biên thắng lớn ở trận Long Hưng, Lục Dận đã triệt để khai thác cái thế đánh chẻ tre, dốc toàn quân đánh như vũ bão vào các đồn lũy của nghĩa quân. Để làm cho Triệu Bà Vương và hai nữ tướng Hải Đường, Hướng Dương không dám xuất trận, Lục Dận đã cho phép quân lính Tàu Ngô tự do lõa lồ khi lâm chiến. Bọn lính Tàu Ngô được thể bắt chước nhau cứ trần truồng mà ra trận ngày càng đông.
Nghĩa quân của Triệu Bà Vương sau trận thua ở căn cứ Long Hưng đã xuống tinh thần rất nhiều. Một số thủ lãnh nghĩa quân từng bị Kim Biên dùng tiền bạc, chức tước để dụ dỗ, mua chuộc trước còn dùng dằng chưa dứt khoát, nay thấy Triệu Bà Vương đã thất thế, liền trở mặt quay về hợp tác với Lục Dận, dắt đường cho quân Tàu Ngô đánh lại nghĩa quân. Những đơn vị nghĩa quân trung thành hoàn toàn bị đẩy vào thế bị động, tan rã lần.
Chẳng bao lâu sau Lục Dận đã tập trung trên năm ngàn quân về bao vây căn cứ Bồ Điền. Biết Triệu Bà Vương rất được lòng nghĩa quân, bên cạnh Bà lại còn nhiều dũng tướng sẵn sàng liều chết chống giữ nên Lục Dận không muốn thí quân. Ông ta chủ trương cứ bao vây căn cứ thật kỹ cho đến khi trong căn cứ cạn lương chắc chắn nghĩa quân sẽ tự rối loạn. Ông ta biết lúc đó không cần đánh ông ta cũng sẽ thắng dễ dàng.
Thấy vòng vây quân Tàu Ngô ngày càng xiết chặt, các tướng trong căn cứ nhiều lần bất ngờ đem quân đánh ra nhưng không lần nào thành công. Quân Tàu Ngô thấy thế càng dể ngươi nên hàng ngày chúng hay rủ nhau lõa thể nằm lăn lóc chung quanh căn cứ để khiêu khích. Tướng sĩ cũng như quân lính bên trong thấy vậy đều uất giận thấu xương nhưng đành phải nhịn nhục.
Tình thế nghĩa quân đã nguy ngập đến vậy mà Triệu Bà Vương vẫn không hề hay biết. Buổi sáng ấy Triệu Bà Vương bỗng tỉnh táo hỏi hai nữ tướng Hải Đường và Hướng Dương:
-Sau khi thua trận ở căn cứ Long Hưng chắc hẳn quân ta phải rút về quận Cửu Chân?
Nữ tướng Hải Đường đáp:
-Thưa đúng. Quân ta phải rút về giữ quận Cửu Chân!
Bà Vương lại hỏi:
-Bọn Tàu Ngô không đánh Cửu Chân sao?
Hải Đường mau miệng:
-Thưa có đánh, nhưng quân ta đã cầm chân được chúng!
Bà Vương có vẻ mừng, hỏi lại:
-Chúng còn dùng cái trò đê tiện như trước đây không?
-Thưa không!
-Thế bây giờ ta đang ở đâu đây?
-Thưa, ở căn cứ Bồ Điền!
-Ở Bồ Điền thì yên tâm đấy. Nhưng bên ngoài chắc các tướng vất vả lắm. Các vị ấy tuy là đàn ông nhưng võ nghệ không thể so bì với hai em được. Ta nhớ ông thầy thuốc có nói muốn cho đứa con gái An Nhi vào đây để săn sóc ta phải không? Nay bệnh ta đã khá rồi, hãy cho An Nhi vào đây săn sóc ta đi! Hai em nên ra ngoài giúp các tướng một tay!
Hai nữ tướng đều bối rối không biết trả lời ra sao. May lúc đó vị thầy thuốc cũng vừa đến nên cả hai vội lảng ra để thầy thăm bệnh. Có lẽ lần này Bà Vương nói chuyện hơi lâu nên mệt người. Khi thầy thuốc khám mạch cho Bà xong thì Bà cũng rơi trở lại giấc ngủ mê man. Vị thầy thuốc nói với hai nữ tướng:
-Uất khí trong người Bà Vương vẫn còn xung quá. Bệnh có thuyên giảm nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng nguy hiểm. Nhớ phải tuyệt đối giữ gìn đừng để Bà Vương phải lo sợ, buồn bực hay nổi giận.
Vị thầy thuốc vừa đi khỏi, Hải Đường rớm nước mắt nói với Hướng Dương:
-Tội nghiệp Bà Vương! Vì Bà Vương quá tinh khiết, đầy thánh tính, không chịu nổi sự bợn nhơ nên mới ra nông nỗi này! Mình vẫn mong Bà Vương chóng bình phục để cứu vãn tình thế, nhưng bây giờ bệnh Bà Vương vẫn chưa giảm mà vòng vây căn cứ Bồ Điền ngày càng xiết chặt thật nguy quá. Cứ theo đà này trước sau chúng ta cũng chết hết vì bọn Tàu Ngô thôi! Khổ nỗi bọn Tàu Ngô vẫn tiếp tục áp dụng cái trò đê tiện bỉ ổi đó giữa mặt trận khiến dù Bà Vương có lành bệnh chắc cũng phải bó tay. Tôi thấy cần phải chấm dứt cảnh đó mới được! Hôm nay tôi quyết liều mình để trừ những tên dâm ô bẩn thỉu ấy một lần cho chúng chừa. Chị gắng ở lại bảo vệ Bà Vương nhé!
Hướng Dương xúc động nói:
-Chị đã quyết hi sinh như vậy lẽ nào tôi lại không? Để tôi giúp chị một tay! Hai ta phải hợp sức với nhau liều chết trừ tiệt một lần không cho một tên Tàu Ngô nào còn dám giở cái trò bỉ ổi ấy ra nữa! Mình phải nhờ An Nhi vào đây săn sóc Bà Vương thay chúng ta mới được!
Hải Đường khẩn khoản giải thích:
-Không nên, chị có việc khác! Bà Vương rất cần một người bảo vệ trong những giờ phút nghiêm trọng này. Ngoài chị ra không ai có thể giúp Bà Vương được đâu! Chị không thể khinh xuất để Bà Vương chịu nhục thêm một lần nữa! Tôi đi đây!
Không để Hướng Dương kịp nói thêm, Hải Đường mặc áo giáp nhảy lên ngựa phóng ra ngoài đi tìm tướng Ngô Quân. Hướng Dương chỉ còn biết nói vói theo:
-Hải Đường, chị đã quyết định vậy thì chị cứ đi! Tôi sẽ bảo vệ Bà Vương tới cùng! Chúc chị thành công!
Thấy Hải Đường cỡi ngựa mặc giáp đến tìm mình, Ngô Quân ngạc nhiên hỏi:
-Hiền muội định ra trận hay làm gì đấy?
Hải Đường buồn rầu nói:
-Em đến đây để từ giã anh. Bà Vương với em tình nghĩa thầy trò rất nặng. Nay thấy Bà Vương dở chết dở sống chỉ vì cái đòn nham hiểm bẩn thỉu của bọn Tàu Ngô, em không còn chịu được nữa! Em quyết liều thân để trừng trị những tên dâm tặc bẩn thỉu này. Nếu còn gặp lại thân mẫu của em, anh hãy xin người tha thứ cho em cái tội bất hiếu!
Nghe Hải Đường nói vậy Ngô Quân khen:
-Việc em định làm thật chính đáng, thật nghĩa khí! Anh hoàn toàn hoan nghênh. Nhưng hãy từ từ, anh sẽ giúp em một tay! Anh cũng rất đội ơn Bà Vương đã biến cải đời anh từ một tướng cướp núi trở thành một thủ lãnh nghĩa quân yêu nước! Anh cũng rất căm hận bọn Tàu Ngô đã dùng một đòn quá bẩn thỉu để hạ Bà Vương. Chúng ta phải hợp sức rửa nhục cho Bà Vương! Phải tàn sát cho hết những tên Tàu Ngô lõa lồ bẩn thỉu để chúng chừa hẳn cái thói khốn nạn ấy! Uất hận quá rồi, đằng nào cũng chết là cùng! Chúng ta phải hi sinh trước người khác mới bắt chước hi sinh theo.
Hải Đường tươi nét mặt:
-Cám ơn anh. Vậy là em không đến nỗi cô đơn!
Ngô Quân nói với đám nghĩa quân dưới quyền:
-Hôm nay cô nương Hải Đường đã quyết lòng liều chết giết bọn Tàu Ngô để đền ơn Triệu Bà Vương, để đáp nghĩa với non sông, dân tộc! Việc làm này đầy nghĩa khí, rất chính đáng nên ta cũng tình nguyện theo giúp cô nương một tay. Có ai chịu đi theo chúng ta không?
Ngô Quân hỏi đi hỏi lai ba lần. Ban đầu có hơn hai mươi nghĩa quân tình nguyện cùng ra trận. Sau đó con số dần tăng tới hai mươi chín người. Khi thấy không còn ai tình nguyện nữa Ngô Quân liền tập họp nhóm này lại, sai đầu bếp dọn cho họ bữa cơm cuối cùng. Nhân dịp này Hải Đường xin phép Ngô Quân nói với họ đôi lời:
-Thưa các anh em, con người ở đời ai cũng phải qua một lần chết. Hơn thua nhau là ý nghĩa của mỗi cái chết. Hiện nay vòng đai của bọn Tàu Ngô quanh căn cứ Bồ Điền này mỗi ngày mỗi xiết chặt hơn. Vì lương thực trong căn cứ có hạn, nếu cứ cố thủ mãi, dù chúng ta không chết vì gươm đao của giặc thì cũng sẽ chết vì đói. Vậy tại sao chúng ta không chọn một cái chết có ý nghĩa? Triệu Bà Vương là người thầy, người ơn đã dẫn dắt chúng ta từ chỗ tối tăm đến chỗ sáng sủa, đã vạch rõ cho chúng ta thấy lý tưởng của cuộc sống như thế nào. Nay Bà Vương vì việc nước mà mắc phải nạn lớn chúng ta đâu có thể làm ngơ? Chúng ta phải đền đáp tấm ân tình lớn lao của Bà Vương. Hôm nay chúng ta là những chiến sĩ quyết tử, phải diệt trừ cho được bọn lính Tàu Ngô dâm đãng bẩn thỉu. Với những tên giặc khác ta có thể bỏ qua nhưng những tên cố tình đưa hình hài lõa lồ ra trận ta phải giết kỳ hết! Có như vậy bọn chúng mới khiếp sợ mà chừa hẳn cái thói dơ bẩn đó. Hôm nay chúng ta ra trận chỉ có mục đích diệt quân Tàu Ngô để đáp ơn Bà Vương! Các anh em có đồng ý như vậy không?
Đám nghĩa quân cảm tử đồng loạt hô lớn:
-Diệt quân Tàu Ngô, đáp ơn Bà Vương!
-Diệt quân Tàu Ngô, đáp ơn Bà Vương!
-Diệt quân Tàu Ngô, đáp ơn Bà Vương!
Tiếp đó Ngô Quân sai mở kho chiến cụ cho những chiến sĩ này lựa những chiếc áo giáp vừa ý nhất và những vũ khí sắc bén vừa tay để ra trận. Chuẩn bị xong Ngô Quân nói với người coi cửa thành:
-Chúng ta đi đây dù thắng hay bại cũng không có ai trở lại nữa. Ông mở cửa thành cho chúng ta ra xong phải lập tức đóng lại ngay đừng để bọn Tàu Ngô thừa thế lọt vào! Hãy truyền lệnh ta bảo quân sĩ phải gắng giữ thành lũy.
Thế rồi Ngô Quân cùng Hải Đường phóng ngựa đi trước, hai mươi chín chiến sĩ nối bước theo sau. Vì cuộc xuất phát của nghĩa quân quá bất ngờ, một số lính Tàu Ngô đang nằm chơi rải rác chưa kịp ngồi dậy đã bị Ngô Quân và Hải Đường giết tại chỗ. Hai người lại tiếp tục phóng ngựa như bay cứ tìm những tên thân thể trần truồng mà giết. Trong chốc lát mấy chục tên Tàu Ngô lõa thể đã đền tội. Mặc cho hàng trăm tên lính Tàu Ngô khác tỏa ra chống cự nhưng đám nghĩa quân cảm tử vẫn bất chấp, một mực tiếp tục truy diệt những tên lính lõa thể nào họ thấy được. Cuối cùng thì đội quân của tướng Ngô Quân bị vây gọn và bị tiêu diệt sau khi họ đã đổi được hơn hai trăm mạng lính Tàu Ngô trong đó hầu hết là lính lõa thể.
Trong căn cứ Bồ Điền dù mất hết hai thủ lãnh quan trọng và một số nghĩa quân nhưng cũng chẳng ai dám để tang công khai vì sợ Triệu Bà Vương biết. Khó ăn nói nhất là Hướng Dương mỗi khi Bà Vương hỏi đến Hải Đường.
Tình thế nghĩa quân ngày càng rối ren thêm. Lương thực trong căn cứ mỗi ngày mỗi cạn, quân sĩ phải giảm khẩu phần rất nhiều. Một số nghĩa quân chịu gian khổ không nổi sinh ra bệnh hoạn, một số khác lại tìm cách bỏ trốn ra ngoài.
Trong khi đó bệnh Triệu Bà Vương vẫn tiếp tục kéo dài. Một hôm hai tướng Trần Vân và Lý Huấn bí mật cho mời Hương Dương đến để bàn việc. Trần Vân nói:
-Sức khỏe của Bà Vương hiện giờ thế nào?
Hướng Dương đáp:
-Chưa được khá. Hằng ngày Bà Vương chỉ ngồi dậy được vài chập.
Trần Vân nói với giọng lo lắng:
-Tình thế trong căn cứ đã đến lúc bi quan nhất. Chúng ta có thể liều chết để đánh một trận sống chết với chúng nhưng còn Bà Vương đó biết làm sao? Hai chúng tôi đã bàn nhau không thể để Bà Vương bị nhục thêm một lần nữa. Cô nương cũng đồng ý điều đó chứ?
Hướng Dương rớm lệ gật đầu:
-Hai vị bàn như vậy là rất phải. Chúng ta không thể để Bà Vương bị nhục thêm một lần nữa. Nhưng vòng vây quân giặc dày đặc như vậy chúng ta làm sao đưa Bà Vương đi đâu được?
Trần Vân nói:
-Chúng tôi đã nghĩ ra cách. Chỉ cần cô nương đã đồng ý là có thể thực hiện được!
Hướng Dương như chợt nhớ ra điều gì, hỏi lại:
-Lúc này bọn chúng còn giở cái trò bẩn thỉu ấy ra nữa không?
Trần Vân nói:
-Không, từ khi xảy ra trận đánh cảm tử của Ngô Quân và cô nương Hải Đường không còn một tên nào dám bày cái trò bỉ ổi đó ra nữa!
-Thế cũng đỡ lo cho Bà Vương phần nào. Xin hai ông cho biết chúng ta sẽ phải hành động ra sao?
Lý Huấn giải thích:
-Tình thế đã bắt buộc chúng ta phải làm gấp việc này không thể diên trì. Cô nương phải giả vờ hẹn với Bà Vương một buổi đi chơi rừng. Khi Bà Vương đồng ý xong cô nương phải báo cho hai chúng tôi biết ngay để hành động. Chúng tôi sẽ chia quân hai đường đánh mạnh vào quân Tàu Ngô. Đương nhiên chúng phải dồn quân về để tiêu diệt chúng tôi. Như vậy là lực lượng của chúng trấn giữ mặt hướng ra núi Tùng sẽ thưa bớt. Đó là cơ hội để cô nương hộ tống Bà Vương thoát ra ngả này!
Hướng Dương rơi nước mắt, giọng uất nghẹn:
-Vậy là hai ông đành hi sinh trước?
Lý Huấn nói:
-Đừng lo cho chúng tôi. Miễn sao cho Bà Vương thoát khỏi tay chúng là chúng tôi mừng rồi! Cô nương gắng thuyết phục được Bà Vương sớm chừng nào tốt chừng nấy.
Hướng Dương thưa:
-Thưa vâng, tôi sẽ cố gắng.
Buổi chiều, sau khi cho Bà Vương uống thuốc xong Hướng Dương khen:
-Hôm nay trông Bà Vương có vẻ khỏe.
-Cũng khá hơn mấy hôm trước.
Hướng Dương làm ra vẻ tươi cười:
-Lâu nay không cỡi voi ra trận Bà Vương có buồn không?
-Làm sao không buồn được em? Ta rất mong được chóng khỏe để ra trận lắm chứ!
-Chắc con voi của Bà Vương nghỉ lâu ngày nó cũng buồn. Ngày mai Bà Vương ngự voi ra rừng chơi một vòng cho đỡ chán nhé!
Triệu Bà Vương lộ vẻ mừng nói:
-Ừ, cũng gắng đi thử một vòng xem sao!
Hướng Dương hớn hở nói:
-Vậy thì em chuẩn bị nhé. Ngày mai sau khi Bà Vương uống thuốc buổi sáng xong mình sẽ đi!
Triệu Bà Vương nói:
-Nếu có Hải Đường về cùng đi chắc vui hơn. Mấy ngày rồi không thấy mặt Hải Đường ta cũng nhớ nhớ.
Hướng Dương nói không ngập ngừng:
-Dạ, Hải Đường đang trấn giữ một vị trí khá quan trọng. Chị ấy không thể rời chỗ đó lâu được!
Khi đã định được ngày giờ hộ tống Bà Vương lên núi Tùng, Hướng Dương liền sai người báo cho hai tướng Trần Vân và Lý Huấn biết để phối hợp hành động.
Sáng hôm sau Hướng Dương đã chuẩn bị sẵn mọi thứ cho cuộc xuất hành. Khi được đỡ lên lưng voi, Bà Vương nhìn quanh rồi ngạc nhiên hỏi Hướng Dương đang cỡi ngựa đứng gần đó:
-Đi dạo một vòng cho vui thôi sao em chuẩn bị quân lính đội ngũ chỉnh tề như sắp ra trận vậy?
Hướng Dương cố giấu vẻ xúc động:
-Cũng cho ra vẻ một tí chứ thưa Bà Vương!
Giữa lúc ấy bỗng tiếng reo hò ở đâu vang lên, Bà Vương hỏi:
-Em nghe tiếng reo hò không? Hình như có chuyện gì?
Hướng Dương bình tĩnh đáp:
-Chắc là các tướng đang cho quân sĩ tập dượt đó!
Nói xong, Hướng Dương vung kiếm lên hô lớn:
-Xuất phát!
Tên nài Xuân Lộc nghe lệnh liền thúc voi bước tới. Hướng Dương cũng cho ngựa bước song song bên cạnh. Đội quân khoảng một trăm gươm giáo rỡ ràng vội rẽ làm hai hàng hộ tống hai bên. Đi được một quãng mọi người bỗng thấy một toán lính Tàu Ngô kéo ra chận đường. Hướng Dương quay lại đám quân nhà thét lớn:
-Để ta thanh toán bọn Tàu Ngô này cho! Anh em gắng đưa Bà Vương về núi Tùng!
Thế rồi Hướng Dương múa kiếm xông vào đám lính Tàu Ngô điên cuồng đâm chém. Con voi Bà Vương cỡi hình như cũng ngứa nghề rống lên một tiếng. Bọn giặc hoảng sợ tránh ra đổ dồn lại vây Hướng Dương. Thế là đoàn người kia cứ tiếp tục tiến về phía trước. Bà Vương thấy vậy ngạc nhiên kêu:
-Dừng lại! Sao không phụ với Hướng Dương giết giặc mà định bỏ đi đâu đây?
Khi đó tên nài Xuân Lộc mới lên tiếng:
-Việc gấp rồi, xin Bà Vương cứ đi rồi con sẽ thưa chuyện sau!
Bà Vương quắc mắt hỏi Xuân Lộc:
-Em định phản ta sao? Thế này là thế nào? Nếu em muốn giết ta thì cứ giết tại đây đi. Ta sẽ không đi đâu nữa!
Xuân Lộc bỗng khóc oà:
-Xin Bà Vương bình tĩnh, con không đời nào dám phản Bà Vương đâu! Nhưng chúng ta không còn đường về! Giờ này chắc quân Tàu Ngô đã chiếm căn cứ Bồ Điền rồi. Chính hai tướng Trần Vân và Lý Huấn đã cố đánh một trận sống chết nhằm thu hút quân giặc tập trung lại đó để rảnh đường cho chúng ta thoát thân đấy!
Nghe Xuân Lộc nói xong, Bà Vương hiểu ngay, Bà rơi nước mắt nói:
-Và bây giờ thì Hướng Dương cũng liều chết cản giặc cho chúng ta đi?
Xuân Lộc nói:
-Thưa Bà Vương, đúng vậy. Hướng Dương cô nương đã dặn trước mọi người phải đưa cho được Bà Vương lên núi Tùng!
-Vậy sao? Ta không ngờ lại lâm vào tình trạng này! Thế em có biết tướng Ngô Quân và Hải Đường giờ ở đâu không?
-Thưa, cả hai người đều đã tử trận!
Bà Vương kêu lên:
-Quả thật trời hại ta rồi!
Thế rồi Bà Vương lịm đi trên bành voi. Vì sợ quân Tàu Ngô đuổi theo, đoàn người không dám ngừng nghỉ để săn sóc Bà Vương. Xuân Lộc ngồi ở đầu voi chỉ biết thỉnh thoảng quay lại trông chừng. Khi đoàn người lên tới núi Tùng thì Bà Vương cũng vừa tỉnh lại. Đám nghĩa quân dựng tạm một cái chòi lợp lá cho Bà Vương nghỉ.
Đêm ấy Bà Vương không chợp mắt được. Bà cứ nằm thao thức đợi Hướng Dương nhưng mãi tới sáng vẫn không thấy bóng Hương Dương đâu…
Khi mặt trời đã lên cao, nài Xuân Lộc mang cháo và thuốc đến nhưng Bà Vương không uống. Bà nói muốn dạo quanh núi một chốc cho khuây khỏa. Xuân Lộc cùng mấy nghĩa quân chiều ý dẫn Bà đi quanh một vòng. Khi đến một bờ dốc, Bà Vương ngắm dòng nước chảy quanh những mỏm đá ở phía dưới một lúc rồi khen:
-Phong cảnh ở đây sao đẹp quá thế này!
Rồi bất ngờ Bà quay lại khoát tay nói:
-Thôi, xin vĩnh biệt tất cả!
Mọi người hoảng hốt toan cản Bà lại thì thân thể Bà Vương đã gieo xuống hố thẳm.
Trong lúc mọi người chưa biết làm gì thì con voi của Bà Vương ré lên một tràng dài rồi lao thẳng vào rừng sâu… Một số nghĩa quân đã cố gắng leo xuống hố mang thi thể của Bà Vương lên để chôn cất. Sau đó, một số đã bỏ đi, một số khác ở lại coi sóc mộ Bà Vương vài ngày rồi rủ nhau gieo mình xuống hố mà chết cả.
Lúc bấy giờ Triệu Bà Vương chỉ mới hai mươi ba tuổi!
Cảm kích tinh thần hi sinh vì nước vì dân của Bà Vương, nhiều nơi dân chúng đã tự động đóng góp tiền của để lập đền thờ Bà.
Theo truyền thuyết dân gian, sau khi đã phá được căn cứ Bồ Điền, Thứ sử Lục Dận thông báo sẽ thưởng lớn cho ai bắt sống hoặc giết được Triệu Bà Vương. Khi biết được Triệu Bà Vương đã chạy lên núi Tùng, Lục Dận liền thân hành đem quân đuổi theo. Lục Dận quyết lòng phải bắt sống hoặc chém cho được thủ cấp của Triệu Bà Vương để dâng về Kiến Nghiệp. Thế nhưng khi Lục Dận vừa lên núi Tùng thì trời đất bỗng u ám rồi một cơn gió ào ào lạnh buốt thổi đến làm y rùng mình. Đám quân sĩ đi theo Lục Dận bỗng hoảng hốt kêu la xô đẩy nhau tháo chạy. Lục Dận nổi giận toan mở miệng quở trách bỗng y thấy một nữ tướng mặc giáp vàng oai phong như thiên thần cỡi trên đầu một con voi trắng khổng lồ, hai bên có hai nữ tướng cỡi ngựa, từ trên mây đang sà xuống… Kinh hãi quá, Lục Dận vội nhảy xuống ngựa quì lạy lia lịa:
-Kính lạy Bà Vương và chư thần, bản quan chỉ là kẻ vâng mệnh sai khiến của thiên tử mà đến đây chứ không có lòng dám xúc phạm đến Bà Vương và chư thần. Cúi xin Bà Vương và chư thần bớt cơn thịnh nộ!
Lục Dận khấn xong thì gió bỗng lặng và bầu trời cũng trong sáng trở lại. Lục Dận mừng quá vội lên ngựa sãi xuống chân núi họp quân sĩ lại rồi truyền lệnh:
-Triệu Bà Vương đã thành thần rồi, chúng ta rút lui thôi!
Gần 300 năm sau, năm Giáp Tý (544), khi vua Lý Nam Đế đã giành lại được nước, ngài khen Bà là bậc anh thư kiệt xuất, cho sửa lại miếu thờ và sắc phong cho Bà làm “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân”.
- HẾT -