Chương 5
Khoảng hai giờ sáng, điện thoại đổ chuông. Ông đã ngủ thiếp đi trên tràng kỷ.
“A lô... Ông Daragane ạ? Là Chantal Grippay...”
Ông ngập ngừng một lúc. Ông vừa mơ thấy gương mặt Annie Astrand, đã hơn ba mươi năm rồi chuyện này không xảy đến với ông.
“Ông đã đọc các bản sao chụp chưa?
— Rồi.
— Tôi xin lỗi vì gọi điện muộn thế này... nhưng tôi rất nóng lòng muốn biết ý kiến của ông... Ông hiểu chứ ạ?
— Có.
— Chúng ta phải gặp nhau trước khi Gilles quay về. Tôi qua nhà ông được không?
— Bây giờ ư?
— Vâng. Bây giờ.”
Ông cho cô địa chỉ, mã cửa, số tầng. Ông đã ra khỏi giấc mơ chưa? Vừa nãy gương mặt Annie Astrand ở thật gần ông... Cô ngồi bên vô lăng xe của mình, trước ngôi nhà ở Saint-Leu-la-Forêt, ông ngồi trên băng ghế sau, ngay gần cô, và cô nói chuyện với ông nhưng ông không nghe thấy âm giọng cô.
Trên bàn ông, là các bản sao chụp, lộn xộn. Ông quên bẵng mất mình đã dùng bút xanh gạch lên chúng. Và cái tên: Annie Astrand, đập ngay vào mắt, vì được khoanh bằng bút đỏ... Phải tránh không để Gilles Ottolini thấy cái này. Có nguy cơ cái vết khoanh đỏ ấy sẽ giúp anh ta lần ra đầu mối. Rồi thì bất cứ tay cớm nào cũng có thể đặt câu hỏi nếu tình cờ bắt gặp, sau khi đã chậm rãi lật giở từng trang.
“Sao ông lại gạch chân cái tên này?”
Ông đưa mắt nhìn cây duyên, lá cây giờ bất động khiến ông thấy an lòng. Cái cây ấy như một người lính gác, người duy nhất để mắt đến ông. Ông đứng bên cửa sổ nhìn ra phố. Giờ này chẳng còn xe cộ qua lại, đèn đường có sáng cũng chẳng ích gì. Ông thấy Chantal Grippay bước đi trên vỉa hè đối diện, trông cô như đang nhìn số các tòa nhà. Tay cô cầm một chiếc túi nhựa. Ông tự hỏi liệu có phải cô đi bộ từ phố Charonne tới tận đây không. Ông nghe tiếng cổng vào tòa nhà khép lại đánh rầm và tiếng chân cô bước trên cầu thang, bước chân rất chậm, như thể cô lưỡng lự không biết có nên đi lên hay không. Cô chưa nhấn chuông ông đã mở cửa khiến cô giật thót mình. Cô vẫn mặc sơ mi và quần dài màu đen. Ông thấy cô rụt rè chẳng kém gì lần đầu tiên, ở quán cà phê trên phố Arcade.
“Tôi không muốn làm phiền ông muộn thế này...”
Cô bất động trên ngưỡng cửa, vẻ biết lỗi. Ông nắm lấy cánh tay cô kéo cô vào trong. Nếu không, ông linh cảm cô sẽ quay gót bỏ đi. Trong căn phòng ông dùng làm văn phòng, ông mời cô ngồi xuống tràng kỷ, cô đặt cái túi nhựa xuống cạnh mình.
“Vậy là ông đã đọc?”
Cô hỏi ông bằng giọng lo lắng. Sao cô coi trọng chuyện này thế nhỉ?
“Tôi đã đọc, nhưng thực lòng tôi không thể giúp bạn cô điều gì. Tôi không biết mấy người đó.
— Kể cả Torstel ư?”
Cô nhìn thẳng vào mắt ông.
Cuộc hỏi cung sắp tái diễn, không ngừng, tới tận sáng. Rồi khoảng tám giờ, chuông cửa sẽ reo. Hẳn đó sẽ là Gilles Ottolini vừa từ Lyon trở về thay ca cho cô.
“Vâng, kể cả Torstel.
— Sao ông lại sử dụng cái tên đó trong một cuốn sách nếu ông không quen biết ông ta?”
Cô lấy giọng ngây thơ vờ vĩnh.
“Tôi thường xem danh bạ rồi chọn hú họa các tên.
— Vậy là ông không thể giúp Gilles sao?”
Ông đi ra tràng kỷ và ngồi xuống cạnh cô, kề mặt mình lại gần mặt cô. Lại thêm lần nữa ông nhìn thấy vết sẹo bên gò má trái.
“Anh ấy muốn ông giúp anh ấy viết... Anh ấy nghĩ rằng những gì được ghi trên mấy tờ giấy kia liên quan mật thiết tới ông...”
Lúc ấy, ông cảm giác như mọi vai trò bị đảo lộn và chỉ cần thêm chút xíu gì đó nữa thôi là cô có thể “òa vỡ”, đấy là diễn đạt theo kiểu mà ngày xưa ông từng nghe thấy ở một nơi nào đấy. Dưới ánh đèn, ông nhận thấy những quầng thâm dưới mắt cô và đôi tay run run của cô. Dường như cô nhợt nhạt hơn ban nãy khi ông mở cửa cho cô.
Trên bàn ông, có thể nhìn thấy rõ các trang giấy ông dùng bút xanh gạch đi. Nhưng lúc này thì cô không nhận ra.
“Gilles đã đọc mọi cuốn sách ông viết và tìm hiểu thông tin về ông...”
Mấy lời này khiến ông hơi lo lắng. Thật không may ông đã thu hút sự chú ý của một người hẳn từ nay sẽ chẳng buông tha ông. Cũng tương tự như một số người ta bắt gặp ánh mắt. Họ có thể đột nhiên gây sự mà không ai hiểu vì sao, hoặc đến nói chuyện với ta và rất khó để thoát khỏi họ. Đi trên phố ông vẫn luôn cố cúi gằm mặt.
“Vả lại ở Sweerts người ta đang tính sa thải anh ấy... Anh ấy lại sắp thất nghiệp trở lại...”
Daragane sửng sốt trước giọng nói chán nản của cô. Ông ngỡ như nhận thấy ở thái độ chán nản ấy sự phẫn nộ đỉnh điểm, thậm chí cả một chút coi thường nữa.
“Anh ấy nghĩ ông sẽ giúp anh ấy... Anh ấy cảm giác như đã quen ông từ rất lâu rồi... Anh ấy biết rất nhiều về ông...”
Rõ ràng cô muốn nói nhiều hơn. Đã sắp đến cái giờ khắc trong đêm khi mà mọi thứ mặt nạ đều rách toạc và người ta để mặc mình đi đến bờ thổ lộ tâm tư.
“Cô uống cái gì nhé?
— Ồ vâng... cái gì đó mạnh vào... Tôi cần một cú trời giáng...”
Daragane ngạc nhiên vì ở tuổi này mà cô lại sử dụng lối diễn đạt lỗi thời ấy. Lâu lắm rồi ông không nghe thấy mấy từ “cú trời giáng”. Có lẽ ngày xưa Annie Astrand từng dùng. Cô thường đan siết hai bàn tay vào nhau như thể tìm cách kìm giữ sự run rẩy của chúng.
Trong tủ bếp, ông chỉ tìm được một chai vodka đã vơi một nửa mà ông tự hỏi ai có thể để nó ở đó. Cô ra đi văng ngồi, hai chân duỗi dài, lưng dựa vào chiếc gối tựa to bản màu cam.
“Xin lỗi nhưng tôi thấy hơi mệt...”
Cô uống một ngụm. Rồi thêm một ngụm nữa.
“Ổn hơn rồi. Khủng khiếp quá, cái thể loại dạ tiệc này...”
Cô nhìn Daragane, vẻ muốn lấy ông làm nhân chứng. Ông ngần ngừ một lúc rồi hỏi cô:
“Dạ tiệc nào?
— Dạ tiệc mà từ đó tôi đến đây...”
Rồi, giọng khô khốc:
“Tôi được trả tiền để đến những ‘buổi dạ tiệc’ ấy... đó là tại Gilles... Anh ấy cần tiền...”
Cô cúi đầu. Dường như cô hối tiếc vì đã nói ra những điều vừa rồi. Cô quay sang phía Daragane đang ngồi đối diện cô trên chiếc ghế đẩu nhung xanh.
“Người cần ông giúp không phải là anh ấy... mà là tôi...”
Cô mỉm cười với ông, một nụ cười có thể nói là tội nghiệp hoặc nhợt nhạt.
“Dù sao tôi cũng là một đứa con gái trung thực... Thế nên tôi phải nhắc ông cảnh giác với Gilles...”
Cô đổi tư thế rồi ra ngồi bên mép tràng kỷ để thực sự đối diện ông.
“Anh ấy đã biết được nhiều điều về ông... nhờ người bạn cảnh sát đó... Nên anh ấy tìm cách tiếp cận ông...”
Mệt ư? Daragane không hiểu cô đang nói gì nữa. “Nhiều điều” mà người kia biết về ông thông qua cảnh sát có thể là những gì? Dù sao mấy trang giấy trong “hồ sơ” cũng không chứng tỏ được gì cho lắm. Và ông không biết hầu hết những cái tên được nêu ra. Trừ mẹ ông, Torstel, Bugnand và Perrin de Lara. Nhưng từ xa xưa lắm rồi... Họ từng đóng vai trò chẳng mấy quan trọng trong đời ông... Những vai diễn phụ, đã biến mất từ lâu. Dĩ nhiên Annie Astrand cũng được kể đến. Gần như thế. Hầu như không thế nhìn rõ tên cô, nó bị nhấn chìm giữa những cái tên khác. Chưa kể còn có lỗi chính tả nữa: Astran.
"Cô không phải lo cho tôi, Daragane nói. Tôi chẳng sợ ai cả. Mấy kẻ tống tiền lại càng không.”
Cô có vẻ ngạc nhiên khi ông dùng từ này: kẻ tống tiền, nhưng mọi chuyện giống như thể đó là một điều hiển nhiên mà cô không nghĩ tới.
"Lúc nào tôi cũng tự hỏi có phải anh ấy đánh cắp cuốn sổ địa chỉ của ông không...”
Cô mỉm cười, còn Daragane thì nghĩ cô muốn nói đùa.
“Đôi khi Gilles làm tôi sợ... Chính vì thế mà tôi ở lại bên anh ấy... Chúng tôi quen nhau từ lâu lắm rồi...”
Giọng nói càng lúc càng trở nên khàn khàn, và ông sợ là màn tâm sự này sẽ kéo dài đến tận sáng. Liệu ông có thể duy trì sự tập trung và lắng nghe tới cùng?
“Anh ấy đi Lyon không phải vì công việc đâu, mà đế chơi bạc đấy...
— Sòng bạc Charbonnières à?”
Câu nói buột ra khỏi miệng ông rất nhanh, ông ngạc nhiên vì cái từ “Charbonnières” vốn ông đã quên nay lại hồi sinh từ quá khứ. Mỗi lần đến Charbonnières chơi bạc, Paul và những người khác thường đi vào đầu giờ chiều thứ Sáu rồi trở về Paris vào thứ Hai. Nên ông có gần ba ngày ở cùng Chantal trong căn phòng trên quảng trường Graisivaudan.
“Vâng, anh ấy đến sòng bạc Charbonnières. Anh ấy quen một tay hồ li ở đó... Anh ấy thường từ Charbonnières trở về với số tiền nhiều hơn thông lệ.
— Cô không đi cùng anh ta à?
— Chẳng bao giờ cả. Trừ hồi đầu, lúc chúng tôi mới quen nhau... Tôi chờ anh ấy hàng giờ ở câu lạc bộ Gaillon... Có một phòng chờ dành cho phụ nữ...”
Daragane hiểu có đúng không nhỉ? “Gaillon” - cũng giống như “Charbonnières” - là cái tên xưa kia từng rất quen thuộc với ông. Chantal thường bất ngờ đến gặp ông trong căn phòng trên quảng trường Graisivaudan và nói: “Paul đang ở câu lạc bộ Gaillon... Mình có thể ở bên nhau buổi tối... Thậm chí cả đêm cũng được...”
Vậy ra câu lạc bộ Gaillon vẫn còn đó sao? Hoặc chỉ trừ khi rất nhiều năm sau, gần những giờ phút cuối đời, những từ tầm thường ta từng nghe thuở thanh xuân ấy bỗng trở lại như một điệp khúc hay một lời ấp úng?
“Khi còn một mình ở Paris, tôi hay được mời tham gia những buổi dạ tiệc hơi đặc biệt... Tôi nhận lời vì Gilles... Lúc nào anh ấy cũng cần tiền... Và giờ thì mọi chuyện sẽ tệ hơn vì anh ấy sắp thất nghiệp...” Nhưng sao ông lại bước vào đời tư của Gilles Ottolini và cô Chantal Grippay này như thế chứ? Ngày xưa, những cuộc gặp gỡ mới diễn ra rất đột ngột và trực diện - hai người va phải nhau trên phố tựa như trò xe điện đụng trong tuổi thơ ông. Đây thì mọi thứ diễn ra thật êm ái, một cuốn sổ địa chỉ bị mất, những giọng nói qua điện thoại, một cuộc hẹn ở quán cà phê... Phải, tất cả mang vẻ nhẹ nhàng của một giấc mơ. Các trang trong “hồ sơ” cũng gây cho ông cảm giác kỳ lạ: do vài cái tên, nhất là tên của Annie Astrand, và do cả đống từ ngữ không cách dòng chồng chất lên nhau kia, bỗng nhiên ông thấy như đang chứng kiến vài chi tiết cuộc đời mình, nhưng được phản chiếu trên một tấm gương méo mó, những chi tiết rời rạc vẫn đeo đuổi ta mỗi đêm ốm sốt.
“Mai anh ấy sẽ ở Charbonnières về... tầm buổi trưa... Anh ấy sẽ lại bám riết lấy ông... Đừng nói với anh ấy chuyện chúng ta gặp nhau.”
Daragane tự hỏi liệu cô có thành thật không và biết đâu cô lại chẳng cho Ottolini biết việc cô ghé thăm ông, đêm nay. Trừ phi chính Ottolini là người giao cô nhiệm vụ này. Dù sao ông cũng tin chắc mình có thể thoát khỏi họ trong nay mai như ông từng thoát khỏi rất nhiều người trong suốt cuộc đời mình.
“Tóm lại, ông nói giọng vui vẻ, anh chị là một cặp gian manh.”
Cô có vẻ sửng sốt trước những lời này. Ông cảm thấy hối tiếc ngay lập tức. Cô khom lưng xuống và trong thoáng chốc ông cứ ngỡ cô đang khóc nức nở. Ông nghiêng người về phía cô, nhưng cô tránh ánh mắt ông.
“Tất cả, là do Gilles... Tôi, tôi chẳng can hệ gì...”
Rồi, sau một lúc ngập ngừng:
“Ông hãy coi chừng anh ấy... Anh ấy muốn ngày nào cũng gặp ông đấy... Anh ấy sẽ không lúc nào để ông yên đâu... Đó là một kẻ...”
—... dai như đỉa?
— Phải. Cực kỳ dai.”
Dường như cô gán cho phẩm chất này một ý nghĩa đáng lo ngại hơn ông tưởng lúc đầu.
“Tôi không rõ anh ấy biết gì về ông... Có thể là vài điều trong hồ sơ... Tôi không đọc... Anh ấy sẽ dùng chúng như phương tiện gây áp lực...”
Cô nói mấy từ cuối không được tự nhiên cho lắm. Chắc chắn là Gilles Ottolini đã nói với cô về “phương tiện gây áp lực”.
“Anh ấy muốn ông giúp anh ấy viết một cuốn sách... Đấy là những gì anh ấy bảo tôi...
— Cô chắc anh ta không muốn gì khác chứ?”
Cô lưỡng lự, một lúc.
“Chắc.
— Đòi tiền tôi chẳng hạn?
— Cũng có thể... Mấy tay bạc thì cần tiền rồi... Phải, dĩ nhiên anh ấy sẽ đòi tiền ông...”
Hẳn họ đã tranh luận chuyện này với nhau sau cuộc gặp trên phố Arcade. Hẳn họ đang trong bước đường cùng - lối diễn đạt Chantal vẫn dùng hồi xưa mỗi lần nói về Paul. Nhưng gã kia vẫn nuôi hy vọng thoát ra được nhờ mấy vụ đặt cược theo lối tăng dần.
“Chẳng mấy mà anh ấy thậm chí sẽ không trả nổi tiền thuê phòng, trên quảng trường Graisivaudan...”
Phải, tiền thuê nhà chắc chắn đã tăng trong bốn mươi lăm năm qua, trên quảng trường Graisivaudan. Daragane sống bất hợp pháp ở căn phòng đó, nhờ một người bạn được chủ nhà gửi chìa khóa. Trong căn phòng, có một cái điện thoại bị khóa phần quay số để không ai có thể sử dụng. Dẫu vậy ông vẫn quay được một vài số.
“Tôi cũng vậy, ông nói, tôi cũng từng sống trên quảng trường Graisivaudan...”
Cô ngạc nhiên nhìn ông, như thể cô phát hiện ra mối liên kết giữa họ. Ông định nói thêm là cô gái thường đến gặp ông trong căn phòng đó cũng tên là Chantal. Nhưng ích gì chứ? Cô nói:
“Vậy có khi lại đúng là căn phòng Gilles đang ở cũng nên... Một phòng áp mái... Đầu tiên là đi thang máy, sau đó thì men theo một cầu thang bộ nhỏ...”
Mà cũng phải, đâu có thang máy đi lên tầng trên cùng - là một hành lang có các phòng nối tiếp nhau, trên cửa mỗi phòng có một con số bị mờ mất phân nửa. Phòng của ông là số 5. Ông còn nhớ vì Paul thường tìm cách giải thích với ông một trong mấy mánh đặt theo lối tăng dần “quanh số năm bình vôi” của anh ta.
“Tôi cũng có một người bạn chơi đua ngựa, và chơi cả ở sòng bạc Charbonnières...”
Cô có vẻ yên tâm trước những lời nói này và yếu ớt mỉm cười với ông. Hẳn cô nghĩ họ thuộc về cùng một thế giới dù cách biệt nhau vài chục tuổi. Nhưng thế giới nào chứ?
“Vậy cô vừa trở về từ một trong mấy buổi dạ tiệc đó à?”
Ông lại hối tiếc ngay lập tức vì đã hỏi cô như thế. Nhưng rõ ràng cô cảm thấy tin tưởng:
“Vâng... Một cặp đôi tổ chức mấy buổi dạ tiệc thuộc dạng hơi đặc biệt tại căn hộ của họ... Gilles từng làm lái xe cho họ một thời gian... Thi thoảng họ gọi điện cho tôi để mời tôi... Chính Gilles là người muốn tôi đến... Họ trả tôi tiền... Tôi không thể làm khác được...”
Ông nghe cô nói mà không dám ngắt lời. Có lẽ cô đang không nói với ông và đã quên mất sự hiện diện của ông. Hẳn đã muộn lắm rồi. Năm giờ sáng chăng? Ngày mới sắp ló dạng và sẽ xua đi bóng đêm. Ông sẽ lại chỉ có một mình trong phòng sau một giấc mơ tồi tệ. Không, ông chưa bao giờ đánh mất cuốn sổ địa chỉ đó. Cả Gilles Ottolini lẫn Joséphine Grippay người tự gọi mình là Chantal đều chưa bao giờ tồn tại.
“Giờ thì cả ông nữa, ông cũng sẽ rất khó mà thoát được khỏi Gilles... Anh ấy sẽ chẳng buông tha ông đâu... Có thể anh ấy sẽ đợi ông trước cửa tòa nhà...”
Là lời đe dọa hay lời cảnh báo? Trong các giấc mơ, Daragane nghĩ, ta chẳng thể biết mình sẽ bằng lòng với cái gì. Một giấc mơ ư? Rồi ta sẽ thấy, khi ngày mới đến. Thế nhưng, ở đây, trước mặt ông, cô chẳng có vẻ gì là một bóng ma cả. Ông không dám khẳng định trong mơ người ta có nghe thấy các giọng nói không, nhưng ông đang nghe thấy rất rõ cái giọng khàn khàn của Chantal Grippay.
“Tôi khuyên ông một điều: đừng trả lời điện thoại của anh ấy nữa...”
Cô nghiêng người về phía ông, thì thầm với ông như thể Gilles Ottolini đứng ngay sau cửa.
“Ông nên gửi tin nhắn cho tôi vào điện thoại di động... Khi nào không ở cùng anh ấy, tôi sẽ gọi cho ông... Tôi sẽ cho ông hay anh ấy định làm gì... Như vậy ông có thể tránh được anh ấy...”
Rõ ràng cô gái này có vẻ hết sức ân cần, nhưng Daragane những muốn giải thích với cô rằng ông có thể tự mình xoay xở. Trong đời ông đã từng gặp những Ottolini khác. Ông biết rất nhiều các tòa nhà có hai lối ra ở Paris, nhờ chúng mà ông thoát khỏi mọi người. Và để họ tin là ông đi vắng, ông thường tắt đèn nhà mình, do hai cửa sổ cùng nhìn ra phố.
“Tôi đã cho ông mượn một cuốn sách và Gilles là tác giả của nó... Kẻ rong chơi trên lưng ngựa...”
Ông đã quên bẵng sự tồn tại của cuốn sách. Ông để nó trong tập hồ sơ bìa các tông màu da cam, khi lấy ra đống tài liệu sao chụp.
“Không phải thế đâu... Gilles khiến người ta tưởng anh ấy viết cuốn sách vì tác giả cuốn sách cùng họ với anh ấy... nhưng không phải cùng tên... Hơn nữa, tác giả đó chết rồi...”
Cô lục cái túi nhựa đặt bên cạnh mình trên tràng kỷ. Cô lấy từ đó ra chiếc váy xa tanh màu đen có hai con chim én vàng mà Daragane từng thấy trong phòng cô trên phố Charonne.
“Tôi để quên giày cao gót ở nhà mấy người kia rồi...
— Tôi biết cái váy này, Daragane nói.
— Mỗi lần tôi đến dự dạ tiệc nhà họ là họ lại muốn tôi mặc nó.
— Cái váy thật kỳ cục...
— Tôi tìm thấy nó dưới đáy cái tủ tường cũ trong phòng tôi... Đằng sau có một cái mác.”
Cô chìa cái váy cho ông, trên mác có dòng chữ: “Silvy-Rosa. Nhà mốt. Phố Estelle. Marseille.”
“Có lẽ kiếp trước cô từng mặc nó...”
Ông nhắc lại câu chiều hôm qua đã nói với cô, trong căn phòng trên phố Charonne.
“Ông nghĩ thế à?
— Cảm giác thế... tại mác áo trông cổ xưa quá...”
Đến lượt cô cũng nhìn mác áo bằng vẻ ngờ vực. Rồi cô đặt cái váy xuống, bên cạnh mình, trên tràng kỷ.
“Cô chờ đã... tôi quay lại ngay...”
Ông ra khỏi văn phòng để kiểm tra xem điện bếp có bật không. Cửa sổ bếp nhìn ra phố. Đúng là điện bếp có bật. Ông tắt đi rồi đứng sững bên cửa sổ. Ban nãy, ông đã tưởng tượng ra cảnh Ottolini đứng chầu chực ngoài kia. Những suy nghĩ kiểu này thường nảy sinh trong ta lúc khuya muộn, khi ta không ngủ, những suy nghĩ mà thuở ấu thơ ta vẫn có để hù dọa chính mình. Chẳng có ai hết. Nhưng anh ta có thể nấp sau đài phun nước hoặc ở bên phải, sau một cái cây trên quảng trường lắm chứ.
Ông đứng bất động hồi lâu, thẳng đơ, hai tay khoanh lại. Ông chẳng thấy ai trên phố. Không có chiếc xe nào chạy qua. Nếu mở cửa sổ, hẳn ông sẽ nghe thấy tiếng nước róc rách từ đài phun và ông sẽ tự hỏi phải chẳng mình đang ở Roma chứ không phải ở Paris. Roma, nơi mà từ đó, ngày xưa, ông từng nhận được một tấm bưu thiếp của Annie Astrand, dấu hiệu sống cuối cùng cô gửi đến ông.
Khi ông quay trở lại văn phòng, cô đã nằm dài trên tràng kỷ, mặc trên người cái váy xa tanh màu đen kỳ quặc có hai con chim én vàng. Ông bối rối một lúc. Có phải cô đã mặc sẵn cái váy này lúc ông mở cửa cho cô không? Đâu phải. Áo sơ mi và quần dài màu đen của cô đang cuộn tròn vứt trên sàn cạnh đôi giày lười đó thôi. Mắt cô nhắm nghiền, hơi thở cô đều đều. Cô đang giả vờ ngủ chăng?
༺༒༻
Cô rời đi vào khoảng buổi trưa và Daragane còn lại một mình, như mọi khi, trong văn phòng ông. Cô sợ Gilles Ottolini đã quay về. Thi thoảng từ sòng bạc Charbonnières, anh ta vẫn bắt tàu rất sớm về Paris vào sáng thứ Hai. Qua cửa sổ, ông thấy cô đi xa dần trong bộ đồ áo sơ mi và quần dài màu đen. Cô không cầm theo túi nhựa. Cô đã bỏ quên nó trên tràng kỷ cùng chiếc váy. Mất một lúc lâu Daragane mới tìm được tấm danh thiếp cô đưa cho ông, tấm danh thiếp in trên giấy ngả vàng. Nhưng số cầm tay không có ai nhấc. Chắc cuối cùng cô cũng sẽ gọi cho ông thôi, ngay khi cô nhận ra mình để quên chiếc váy.
Ông lấy chiếc váy ra khỏi túi xách và đọc lại mác: “Silvy-Rosa. Nhà mốt. Phố Estelle. Marseille.” Điều này gợi nhắc ông chuyện gì đó, dù Marseille là thành phố xa lạ với ông. Ông từng đọc thấy địa chỉ này rồi, hoặc nghe nhắc đến tên. Hồi ông còn trẻ hơn, thứ bí ẩn nhìn bề ngoài có vẻ vô nghĩa ấy có thể làm mất của ông vài ngày trời khăng khăng cố đi tìm đáp án. Dù là một chi tiết nhỏ xíu, ông cũng sẽ cảm thấy lo lắng và hụt hẫng nếu không kết nối được nó với tổng thể, tựa như miếng ghép hình bị mất. Đôi khi là một câu nói hay một câu thơ mà ông muốn tìm ra tác giả, đôi khi, chỉ đơn giản là một cái tên. “Silvy-Rosa. Nhà mốt. Phố Estelle. Marseille.” Ông nhắm mắt lại và cố gắng tập trung. Một từ lướt qua tâm trí ông, dường như gắn với cái mác áo ấy: “Người phụ nữ Trung Hoa”. Chắc ông phải kiên nhẫn lặn ngụp sâu hơn nữa để phát hiện ra mối liên hệ giữa “Silvy-Rosa” Và “Người phụ nữ Trung Hoa”, nhưng từ vài năm nay ông đã chẳng còn sức đâu mà lao theo thứ kỳ tích ấy. Không, ông già quá rồi, ông vẫn thích trôi nổi trên bể mặt hơn... “Người phụ nữ Trung Hoa”... Phải chăng là do mái tóc đen và đôi mắt hơi xếch của cô Chantal Grippay kia?
Ông ngồi xuống bàn. Đêm qua, cô không nhìn thấy đống giấy lộn xộn và những nét gạch xóa bằng bút chì xanh. Ông mở tập hồ sơ bìa các tông đặt gần điện thoại và lấy cuốn sách trong đó ra. Ông bắt đầu lật giở từng trang Kẻ rong chơi trên lưng ngựa. Đó là bản in lại gần đây của một tác phẩm có bản quyền từ thời tiền chiến. Sao Gilles Ottolini lại dám cả gan, hay ngây thơ, mạo danh tác giả nhỉ? Ông gấp sách lại và đưa mắt nhìn đống giấy trước mặt mình. Trong lần đọc đầu tiên, ông đã nhảy cóc mấy trang vì chữ ri rít quá.
Một lần nữa từ ngữ lại nhảy nhót. Rõ ràng ông thấy ở đó có các chi tiết khác liên quan đến Annie Astrand, nhưng ông quá mệt nên không muốn tìm hiểu. Ông sẽ xem sau, vào buổi chiều, khi đầu óc thảnh thơi. Trừ phi ông quyết định xé đống giấy đi, từng trang một. Phải, ông sẽ xem xét sau.
Đúng lúc xếp “hồ sơ” vào bìa các tông, mắt ông đụng phải bức ảnh đứa trẻ mà ông đã quên bẵng. Ông đọc, ở mặt sau bức ảnh: “3 ảnh chụp tự động. Trẻ không rõ danh tính. Lục soát và bắt giữ Astrand, Annie. Cửa khẩu Vintimille. Thứ Hai ngày 21 tháng Bảy năm 1952.” Đúng vậy, đây là bản phóng to của một bức ảnh chụp tự động, như chiều hôm qua ông đã nghĩ trong căn phòng trên phố Charonne.
Ông không thể rời mắt khỏi bức ảnh và tự hỏi tại sao mình lại quên nó giữa đống giấy trong “hồ sơ”. Liệu đó có phải cái gì đấy làm phiền ông, một thứ vật chứng theo ngôn ngữ pháp luật, mà ông, Daragane, những muốn gạt khỏi ký ức mình? Ông cảm thấy như bị chóng mặt, chân tóc giần giật đau. Đứa trẻ ấy, đứa trẻ mà hàng chục năm trôi qua xa xôi tới độ sắp biến nó thành một người xa lạ, ông buộc phải thừa nhận nó chính là ông.