Chương 4
Lúc trở về nhà, ông tự hỏi liệu có phải mình vừa mơ. Chắc chắn là do thời tiết giao mùa và cái nóng ngột ngạt.
Cô đã kéo ông đến tận một cửa hàng văn phòng phẩm trên đại lộ Voltaire, phía cuối cửa hàng có một cái máy sao chụp. Mấy tờ giấy đánh máy mỏng giống loại giấy ngày xưa người ta vẫn dùng để gửi thư “qua đường hàng không”.
Họ ra khỏi cửa hàng và dạo một lát trên đại lộ. Cứ như thể cô không muốn rời ông. Có lẽ cô sợ khi chia tay rồi ông sẽ không cho cô hay tin về ông nữa và Gilles Ottolini sẽ chẳng đời nào biết tay Torstel bí ẩn kia là ai. Nhưng ông cũng vậy, cũng sẵn sàng ở lại bên cô bởi viễn cảnh phải một thân một mình quay về căn hộ khiến ông sợ hãi.
“Nếu tối nay ông đọc tập hồ sơ, có thể nó sẽ giúp ông hồi phục trí nhớ...” rồi cô chỉ vào tập hồ sơ bìa các tông màu cam ông đang cầm trên tay, tập hồ sơ đã được sao chụp. Thậm chí cô còn cho sao chụp cả bức ảnh đứa trẻ. “Đêm nay, lúc nào ông gọi cho tôi cũng được... Chiều mai Gilles mới về... Tôi rất muốn biết ông nghĩ gì về toàn bộ chuyện này...”
Dứt lời, cô lấy từ ví ra một tấm danh thiếp mang tên Chantal Grippay, kèm địa chỉ, 118 phố Charonne, và số điện thoại di động.
“Giờ thì tôi phải về... Gilles sẽ lại gọi cho tôi mà tôi để di động ở nhà rồi...”
Họ quay lại đi bộ về hướng phố Charonne. Không ai trong hai người lên tiếng. Họ chẳng cần nói. Cô có vẻ đã thấy việc họ sánh bước bên nhau là lẽ đương nhiên, còn Daragane thì nghĩ rằng nếu ông khoác tay cô chắc cô cũng để kệ, như thể họ quen nhau từ lâu lắm rồi. Họ chia tay trước cầu thang dẫn xuống bến tàu điện ngầm Charonne.
Giờ đây, trong văn phòng của mình, ông đang ngồi lật giở từng trang “hồ sơ”, nhưng ông không muốn đọc ngay tức khắc.
Thoạt tiên là bởi chúng được đánh máy mà không cách dòng nên cái khối ký tự dày đặc chồng lấn lên nhau ấy khiến ông chưa gì đã nản lòng. Thứ nữa là bởi tay Torstel kia, rốt cuộc ông cũng đã nhận dạng được. Từ Tremblay trở về, cái hôm Chủ nhật mùa thu ấy, người đàn ông muốn đưa từng người họ về tận nhà. Nhưng Chantal và Paul xuống ở Montparnasse. Từ đó, tàu điện ngầm đi thẳng tới nhà họ. Ông ở lại ô tô bởi người đàn ông nói ông ta sống không xa quảng trường Graisivaudan lắm, đó là cái quảng trường có căn phòng của ông, Daragane.
Họ im lặng suốt phần lớn cuộc hành trình. Cuối cùng người đàn ông cất lời:
“Tôi đến ngôi nhà quanh Paris đó phải hai hay ba lần gì đấy... Là mẹ anh đưa tôi tới...”
Daragane không đáp lời. Quả thực ông đang tránh nghĩ đến giai đoạn xa xôi ấy của đời mình. Và mẹ ông, thậm chí ông cũng chẳng rõ bà còn sống hay không.
Người kia dừng xe ngay quảng trường Graisivaudan.
“Cho tôi gửi lời hỏi thăm mẹ anh... Chúng tôi lạc tin nhau đã lâu lắm rồi... Chúng tôi từng cùng bạn bè tham gia một thứ giống như câu lạc bộ... câu lạc bộ Những Kén Nhộng... Anh cầm đi, lỡ chẳng may bà ấy tìm cách gặp tôi...”
Ông ta chìa cho ông một tấm danh thiếp, trên đó có ghi “Guy Torstel” và - như ông còn nhớ - một địa chỉ nơi làm việc - một hiệu sách ở Palais-Royal. Và một số điện thoại nữa. Sau dó thì Daragane làm mất tấm danh thiếp. Nhưng dù sao ông cũng đã chép lại tên và số điện thoại - tại sao nhỉ? - vào cuốn sổ địa chỉ hồi dó.
Ông ngồi xuống bàn. Dưới tập giấy trong “hồ sơ”, ông nhìn thấy bản sao trang 47 cuốn tiểu thuyết của ông, Bóng đen mùa hè, chỗ chắc là có nhắc đến tay Torstel kia. Cái tên được gạch chân, chắc bởi Gilles Ottolini. Ông đọc: “Hành lang Beaujolais, có một hiệu sách, sau lớp cửa kính trưng bày các tác phẩm nghệ thuật. Anh bước vào. Một phụ nữ tóc nâu ngồi bên bàn.
“'Tôi muốn nói chuyện với ông Morihien.
“- Ông Morihien đi vắng, cô đáp lời. Nhưng ông muốn nói chuyện với ông Torstel không?’ ”
Tất cả chỉ có vậy. Chẳng nhiều nhặn gì. Cái tên chỉ xuất hiện ở trang 47 cuốn tiểu thuyết. Và đêm ấy, ông thực sự không lấy đâu ra can đảm mà kiếm tìm nó giữa các trang giấy đánh máy không cách dòng. Torstel. Một cái kim dưới đáy bể.
Ông nhớ trên tấm danh thiếp đã mất có địa chỉ một hiệu sách, ở Palais-Royal. Và có lẽ số điện thoại cũng là điện thoại của hiệu sách. Nhưng sau hơn bốn mươi lăm năm, hai chi tiết nghèo nàn ấy hẳn không đủ để giúp ông theo dấu một người đàn ông giờ chỉ còn là một cái tên.
Ông nằm dài trên tràng kỷ và nhắm mắt lại. Ông quyết định ép mình gắng gượng, dù chỉ trong tích tắc, quay ngược dòng thời gian. Cuốn tiểu thuyết, Bóng đen mùa hè ông bắt đầu viết nó vào mùa thu, chính cái mùa thu ông đi đến Tremblay vào một ngày Chủ nhật ấy. Ông nhớ mình đã viết trang đầu tiên của cuốn sách vào tối Chủ nhật đó trong căn phòng trên quảng trường Graisivaudan. Vài giờ trước đấy, khi ô tô của Torstel đi dọc kè Marne rồi băng qua rừng Vincennes, ông thực sự cảm thấy mùa thu trĩu nặng trên ông: sương mù, mùi đất ẩm ướt, những lối đi ngập lá rụng. Kể từ đó, từ “Tremblay” vĩnh viễn gắn với mùa thu ấy trong ông.
Và cả cái tên Torstel mà ngày xưa ông đã dùng trong cuốn tiểu thuyết nữa. Đơn giản chỉ vì âm vang của nó. Đó là những gì Torstel gợi lên trong ông. Không cần phải kiếm tìm xa xôi. Đó là tất cả những gì ông có thể nói. Hẳn Gilles Ottolini thất vọng lắm. Kệ thôi. Suy cho cùng, ông đâu có nghĩa vụ phải giải thích cho anh ta bất cứ điều gì. Chuyện đâu có liên quan đến anh ta.
Gần mười một giờ đêm. Khi ở nhà một mình, vào giờ này, ông thường cảm thấy điều mà người ta vẫn gọi là “mất tinh thần”. Những khi ấy, ông thường đến một quán cà phê ở quanh đó, mở cửa rất muộn về đêm. Ánh sáng chói gắt, tiếng huyên náo ồn ào, người đến kẻ đi, những cuộc chuyện trò mà ông có ảo giác như mình cũng tham gia, tất cả giúp ông trong thoáng chốc vượt qua cảm giác mất tinh thần. Nhưng ít lâu nay, ông không cần phương thuốc ấy nữa. Ông chỉ cần nhìn ngắm cái cây trong sân tòa nhà bên cạnh qua cửa sổ văn phòng của mình là đủ, lá của cái cây ấy trụ được lâu hơn những cây khác, đến tận tháng Mười một. Người ta bảo với ông đấy là một cây duyên, hay một cây dương rung lá, ông cũng không biết nữa. Ông tiếc tất cả những năm đã qua, những năm ông không chú ý mấy đến cỏ cây hoa lá. Ông, người chẳng đọc gì khác nữa ngoài cuốn Lịch sử tự nhiên của Buffon, đột nhiên lại nhớ ra một đoạn trong Hồi ký của một nữ triết gia Pháp. Người này từng rất choáng trước điều mà một phụ nữ nói trong chiến tranh: “Các người muốn gì nào, chiến tranh đâu có thay đổi được mối quan hệ giữa tôi với một cọng cỏ.” Chắc hẳn bà ta cho là người phụ nữ kia phù phiếm hoặc lãnh đạm. Nhưng với ông, Daragane, câu nói lại mang ý nghĩa khác: trong những thời kỳ tai ương hay suy sụp tinh thần, chẳng có phương cách nào khác ngoài việc kiếm tìm một điểm cố định mà giữ cân bằng và không ngã nhào. Ánh mắt ta dừng lại ở một cọng cỏ, một cái cây, những cánh hoa, như thể ta bám mình vào một cái phao. Cây duyên - hay cây dương rung lá - bên ngoài khung cửa sổ nhà ông khiến ông an lòng. Và dù đã gần mười một giờ đêm rồi, ông vẫn cảm thấy vững dạ nhờ sự hiện diện thầm lặng của nó. Thế nên càng phải kết thúc nhanh mọi chuyện và đọc cho xong đống giấy đánh máy kia. Ông phải miễn cưỡng thừa nhận một điều: giọng nói và vẻ ngoài của Gilles Ottolini thoạt tiên tựa như của kẻ tống tiền. Ông những muốn phá tan định kiến đó. Nhưng liệu ông có thực sự làm nổi không?
Ông gỡ cái ghim kẹp đống giấy ra. Giấy của bản sao chụp không giống giấy bản gốc. Chantal Grippay sao chụp đến đâu, ông nhớ từng tờ giấy mỏng và trong suốt đến đó. Chúng gợi nhắc ông nghĩ tới loại giấy viết thư gửi “qua đường hàng không”. Nhưng cũng không hoàn toàn chính xác. Đúng hơn thì chúng có cùng độ trong với loại giấy pơ luya vẫn được dùng trong các cuộc hỏi cung của cảnh sát. Mà Chantal Grippay cũng đã chẳng bảo ông là gì: “Gilles xin được thông tin từ phía cảnh sát...”
Ông nhìn tán lá cây trước mặt mình lần cuối, rồi bắt đầu đọc.
Các ký tự nhỏ xíu, như thể được đánh bằng loại máy chữ xách tay giờ không tìm đâu ra nữa. Daragane cảm giác mình đang ngụp lặn giữa một nồi nước lèo đặc sệt khó tiêu hóa. Thi thoảng ông nhảy dòng để rồi phải đọc lại, dùng ngón trỏ lần theo từng câu chữ. Đây đúng hơn là một bản báo cáo thuần nhất, gồm những đoạn ghi chép hết sức ngắn gọn được chắp nối lại với nhau vô cùng lộn xộn, liên quan đến vụ ám sát một cô Colette Laurent nào đó.
Các đoạn ghi chép này mô tả lại hành trình của cô. Từ tỉnh lên Paris khi còn rất trẻ. Làm việc trong một hộp đêm trên phố Ponthieu. Thuê phòng ở một khách sạn, khu Odéon. Cô thường giao du với sinh viên Trường Mỹ thuật. Danh sách những người bị hỏi cung và những người hẳn là cô có thể quen biết ở hộp đêm, danh sách sinh viên Mỹ thuật. Xác được tìm thấy trong một phòng khách sạn, quận XV. Hỏi cung chủ khách sạn.
Vậy ra đây là tin rao vặt khiến Ottolini quan tâm? Ông ngừng đọc. Colette Laurent. Cái tốn có vẻ vô hại này bỗng làm nảy sinh trong ông một vọng âm, nhưng vọng âm ấy quá trầm nên khó mà xác định nổi. Hình như ông đã đọc được một mốc thời gian: năm 1951, nhưng ông không đủ can đảm kiểm tra lại giữa đống từ ngữ đè nén lên nhau gây cảm giác nghẹt thở kia.
1951. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua từ bấy tới nay, và nhân chứng của tin rao vặt này, mà thậm chí cả kẻ sát nhân nữa, cũng không còn tồn tại. Gilles Ottolini đã đến quá muộn. Rồi cái kẻ nhúng mũi vào việc chẳng liên quan gì đến mình ấy sẽ thất vọng. Daragane thấy hối tiếc vì đã khoác lên anh ta nét tính cách thô thiển như vậy. Còn phải đọc vài trang nữa. Ông vẫn cảm thấy cùng nỗi căng thẳng và e sợ từng xâm chiếm mình khi mở “hồ sơ”.
Ông nhìn ngắm một hồi tán lá cây duyên khẽ xào xạc, như thể cái cây đang thở trong giấc ngủ. Phải, cái cây này là bạn ông, và ông nhớ ra nhan đề một tập thơ của một cô bé tám tuổi: Cây, bạn của tôi. Ông ghen tị với cô bé ấy, bởi ông cùng lứa tuổi với cô và hồi ấy ông cũng sáng tác thơ. Đó là vào quãng thời gian nào nhỉ? Một năm nào đấy trong tuổi thơ ông cũng xa xưa như năm 1951, cái năm Colette Laurent bị ám sát.
Lại một lần nữa những con chữ nhỏ xíu không cách dòng nhảy múa trước mắt ông. Ông vẫn di ngón tay trỏ để không lẫn dòng. Rốt cuộc cũng xuất hiện cái tên Guy Torstel. Cái tên gắn với ba tên khác, ông giật mình vì nhận ra tên mẹ ông trong số đó. Hai tên kia là Bob Bugnand và Jacques Perrin de Lara. Ông vẫn hơi láng máng nhớ họ, điều này giúp ông quay ngược về thời kỳ xa xôi khi cô bé cùng tuổi ông xuất bản tập Cây, bạn của tôi. Người thứ nhất, Bugnand, có dáng thể thao và vận đồ màu be. Một gã tóc nâu, ông nghĩ thế; người còn lại, một gã mặt to như tượng La Mã, đứng chống khuỷu tay vào lò sưởi lát đá cẩm thạch, nói chuyện trong tự thế lịch thiệp. Ký ức tuổi thơ thường là những chi tiết nhỏ được nhặt ra từ những điều vô nghĩa. Liệu mấy cái tên kia có thu hút sự chú ý của Ottolini không và anh ta có thiết lập được mối liên hệ giữa họ và ông, Daragane? Không, chắc chắn là không. Trước hết vì mẹ ông đâu có cùng họ với ông. Hai người kia, Bugnand và Perrin de Lara, đã biến mất từ thời tám hoánh nào rồi, khi ấy Ottolini còn quá nhỏ để có thể cảm thấy gợi lên điều gì đó từ họ.
Càng đọc, ông càng có cảm giác “hồ sơ” này là một thứ tả pí lù trộn lẫn mọi mảnh vụn của hai cuộc điều tra khác nhau không được tiến hành cùng năm, bởi lúc này nó lại chỉ sang năm 1952. Tuy nhiên giữa những đoạn ghi chép năm 1951 liên quan đến vụ ám sát Colette Laurent và những đoạn xuất hiện trên hai trang cuối, ông nghĩ mình phát hiện ra một mối dây liên hệ mong manh: “Colette Laurent” thường lui tới “một ngôi nhà ở Saint-Leu-la-Forêt” nơi sinh sống của “một cô Annie Astrand nào đó”. Ngôi nhà có vẻ nằm dưới sự giám sát của cảnh sát - nhưng vì sao chứ? Trong số những cái tên được kể ra, có Torstel, tên mẹ ông, Bugnand và Perrin de Lara. Hai tên khác ông không biết. Roger Vincent và nhất là tên người phụ nữ sống trong ngôi nhà ở Saint-Leu-la-Forêt, “một cô Annie Astrand nào đó”.
Ông những muốn sắp xếp lại mấy đoạn ghi chép lộn xộn kia, nhưng việc đó vượt quá sức ông. Vả lại, đêm hôm khuya khoắt thế này, người ta dễ nảy sinh những ý nghĩ kỳ cục: mục tiêu nhắm đến trong đầu Gilles Ottolini khi anh ta tập hợp toàn bộ đống thông tin này không phải là cái tin rao vặt cũ kỹ kia, mà chính là ông, Daragane. Dĩ nhiên Ottolini không tìm được góc ngắm, anh ta dò dẫm, anh ta lạc lối trên những nẻo đường tắt, anh ta bất lực không sao đi vào được hồng tâm. Ông cảm giác anh ta lởn vởn quanh ông để kiếm một lối vào. Có lẽ anh ta tập hợp mọi chi tiết tản mát ấy vì hy vọng Daragane sẽ phản ứng không với chi tiết nọ thì với chi tiết kia, như cảnh sát vẫn thường bắt đầu một cuộc hỏi cung bằng những lời vô nghĩa hòng khiến kẻ tình nghi lơ là cảnh giác. Để rồi khi kẻ đó tưởng mình đã an toàn, họ liền đột ngột tung ra câu hỏi chính yếu.
Mắt ông lại tìm đến tán lá cây duyên bên kia cửa kính, ông cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ như vậy. Ông đang mất bình tĩnh. Mấy trang giấy ông vừa đọc chỉ là một bản nháp vụng về, một đống chi tiết chồng chất che đi mất điều cốt yếu. Cái tên duy nhất khiến ông bối rối và tạo ra sức hút với ông: Annie Astrand. Nhưng gần như không đọc nổi cái tên đó giữa đống từ ngữ không cách dòng lấn lướt lên nhau. Annie Astrand. Một giọng phát ra xa xôi giữa đêm khuya muộn mà ta tự nhủ hẳn nó hướng đến ta để truyền cho ta một thông điệp nào đấy. Một hôm, ai đó khẳng định với ông rằng giọng những người từng thiết thân với ta trong quá khứ, ta thường quên rất nhanh. Thế nhưng, nếu hôm nay, trên phố, có nghe thấy giọng Annie Astrand cất lên sau lưng mình, chắc chắn ông sẽ nhận ra ngay.
Khi nào gặp lại Ottolini, ông sẽ phải cảnh giác không để anh ta chú ý đến cái tên này: Annie Astrand, nhưng ông cũng không chắc có gặp lại anh ta không nữa. Cùng lắm thì ông sẽ viết vài dòng thật ngắn ngủi để cung cấp cho anh ta mấy tin sơ sài về Guy Torstel. Một người đàn ông trông coi hiệu sách, ở hành lang Beaujolais, ven hoa viên Palais-Royal. Mà đúng là ông chỉ gặp người đó có một lần, cách đây gần năm mươi năm, một tối Chủ nhật mùa thu ở Tremblay. Thậm chí ông cũng có thể tử tế đến độ cung cấp cho anh ta thêm mấy chi tiết về hai người khác, Bugnand và Perrin de Lara. Bạn của mẹ ông, chắc kiểu như Guy Torstel. Cái năm mà ông đọc tuyển thơ Cây, bạn của tôi và ghen tị với cô bé tác giả cùng tuổi mình ấy, Bugnand và Perrin de Lara - cũng có thể cả Torstel nữa - luôn mang trong túi một cuốn sách, tựa như sách kinh lễ, một cuốn sách dường như họ rất trân trọng. Ông vẫn nhớ nhan đề: Fabrizio Lupo. Một hôm, Perrin de Lara nói với ông bằng giọng nghiêm trọng: “Cả cậu nữa, khi nào lớn, cậu cũng sẽ đọc Fabrizio Lupo”, một trong những câu nói sẽ mãi còn là bí ẩn đến tận cuối đời ta, chỉ vì vang âm của nó. Sau này, ông có đi tìm cuốn sách, nhưng không may chẳng tìm được bản in nào và vì thế mà chưa bao giờ ông đọc Fabrizio Lupo cả. Chắc ông không cần gợi nhắc những ký ức vụn vặt đó. Triển vọng khả dĩ nhất là hẳn cuối cùng ông cũng sẽ thoát khỏi Gilles Ottolini. Thoát khỏi những hồi chuông điện thoại mà ông hẳn sẽ chẳng trả lời. Thoát khỏi những bức thư, mà một số hẳn là thư đảm bảo. Phiền toái nhất là Ottolini sẽ đến chôn chân trước cửa tòa nhà, và vì không biết mã cửa nên anh ta sẽ đợi ai đó đẩy cổng ra để chuồn vào theo. Anh ta sẽ bấm chuông cửa nhà ông. Chắc phải ngắt cả chuông cửa nữa. Mỗi lần rời khỏi nhà, có khi ông sẽ lại chạm mặt Gilles Ottolini đang tìm cách tiếp cận ông và đi theo ông trên phố. Ông sẽ chẳng có cách nào khác ngoài việc vào đồn cảnh sát gần nhất trốn né. Nhưng mấy tay cớm sẽ chẳng đời nào coi trọng những lời giải thích của ông.
Đã gần một giờ sáng, ông tự nhủ vào giờ này, trong tĩnh mịch và cô đơn, ta có âu lo thái quá thì cũng chẳng ích gì hết. Ông dần lấy lại bình tĩnh, và thậm chí ông còn cười như điên khi nghĩ đến khuôn mặt Ottolini, một khuôn mặt tóp tới nỗi có đứng đối diện anh ta thì người ta vẫn tưởng là đang nhìn nghiêng.
Đống giấy đánh máy nằm rải rác trên bàn ông. Ông cầm chiếc bút chì một đầu xanh một đầu đỏ vẫn dùng để chữa bản thảo lên. Đọc tới đâu ông dùng đầu xanh gạch tới đó bằng những nét to và dùng đầu đỏ khoanh tròn cái tên: ANNIE ASTRAND.