Chương 7
Khoảng cuối chiều, ông ngạc nhiên vì không thấy Chantal Grippay gọi điện. Trong khi cô hẳn đã nhận thấy mình bỏ quên cái váy đen. Ông bấm số di động của cô, nhưng không ai nghe máy. Sau hồi chuông là sự im lặng. Ta đi tới rìa một vách đá nơi phía bên kia chẳng có gì khác ngoài sự trống rỗng. Ông tự hỏi liệu số điện thoại này còn hoạt động không hay Chantal Grippay đã làm mất máy. Hoặc liệu cô có còn sống.
Rồi một nỗi ngờ vực lây sang Gilles Ottolini thoáng lướt qua trong ông. Ông gõ lên bàn phím máy tính: “Hãng Sweerts, Paris”. Chẳng có hãng Sweerts nào ở Paris, khu ga Saint-Lazare hay bất kỳ quận nào hết. Tác giả mạo xưng của Kẻ rong chơi trên lưng ngựa chỉ là nhân viên ma của một hãng tưởng tượng.
Ông muốn biết liệu có Ottolini nào đấy được nêu tên ở quảng trường Graisivaudan không, nhưng trong số các tên đi kèm tám số điện thoại ở khu này, chẳng có lấy một Ottolini nào cả. Dù sao thì cái váy đen vẫn ở kia, trên lưng tràng kỷ, bằng chứng chứng tỏ ông không mơ. Ông gõ hú họa, “Silvy-Rosa. Nhà mốt. Phố Estelle. Marseille” nhưng chỉ nhận được “Sửa chữa Rosa, 18 phố Sauvage, 68100 Mulhouse”. Từ vài năm nay, ông gần như không dùng đến cái máy tính này nữa, trừ khi đột ngột cần tìm kiếm gì đó. Hiếm hoi lắm mới có người mà ông muốn tìm ra dấu vết nhưng thảy đều thoát khỏi sự cảnh giác của cái máy này. Họ trượt đi qua những mắt lưới bởi họ thuộc về một thời kỳ khác và không phải người lúc nào cũng đúng luật. Ông nhớ lại bố mình, người mà ông không biết mấy và luôn nói với ông bằng giọng dịu dàng: “Bố từng làm mười thẩm phán nản lòng.” Trong máy tính không có bất kỳ dấu vết nào của bố ông. Cũng chẳng có dấu vết của Torstel hay Perrin de Lara, những cái tên ông từng gõ trên bàn phím, vào ngày hôm trước, trước khi Chantal Grippay tới. Với trường hợp Perrin de Lara đã xảy ra hiện tượng quen thuộc: vô số tên Perrin xuất hiện trên màn hình và một đêm thôi thì không đủ để kiểm tra đến cùng danh sách. Những người ông muốn biết tin lại thường ẩn mình giữa một đám đông vô danh, hoặc phía sau một nhân vật nổi tiếng có cùng tên gọi. Khi ông gõ thẳng câu hỏi này lên bàn phím: “Jacques Perrin de Lara còn sống không? Nếu còn, hãy cho tôi địa chỉ của ông ấy”, thì máy tính không trả lời nổi, và ta cảm giác, qua vô số sợi dây kết nối máy tính với những ổ điện, như đang trải qua một ngần ngại, một bối rối nào đấy. Đôi khi, ta bị kéo vào những hướng tìm kiếm sai lệch: “Astrand” dẫn đến nhiều kết quả ở Thụy Điển, và nhiều người mang tên này tụ lại ở thành phố Göteborg.
Trời nóng, và cái tiết trời rực nắng cuối thu đầu đông ấy hẳn sẽ còn kéo dài đến tận tháng Mười một. Ông quyết định ra ngoài thay vì ngồi trong văn phòng chờ mặt trời lặn như mọi khi. Chút nữa thôi, khi quay về, ông sẽ dùng kính lúp thử giải mã bản sao các trang giấy mà hôm trước ông đã đọc quá nhanh. Nhờ vậy, có lẽ may ra ông sẽ biết được điều gì đấy về Annie Astrand. Ông thấy tiếc vì không hỏi cô những câu này lúc gặp lại cô mười lăm năm sau cái hồi ở quầy chụp ảnh tự động, nhưng ông nhanh chóng hiểu rằng mình sẽ chẳng nhận được từ cô bất kỳ câu trả lời nào.
༺༒༻
Bên ngoài, không khí còn thảnh thơi hơn cả những ngày trước. Có lẽ ông đã nhầm khi cứ đắm mình trong quá khứ xa xôi ấy. Ích gì chứ? Từ nhiều năm nay, ông đã không còn nghĩ đến nữa, tới nỗi giai đoạn ấy của cuộc đời ông rốt cuộc chỉ còn hiện ra trong ông như qua một tấm kính mờ. Tấm kính để lọt qua chút ánh sáng mơ hồ, nhưng chẳng thể thấy rõ những gương mặt hay những dáng hình. Một tấm kính trơn, một thứ màn hình bảo vệ. Có lẽ, nhờ chứng lãng quên cố ý, ông đã vĩnh viễn tránh được quá khứ ấy. Hoặc chính thời gian đã khiến sắc màu cùng những gai góc quá sắc nhọn của nó hao mòn.
Ở đó, trên vỉa hè, trong ánh sáng cuối thu êm ả mang lại cho những con phố Paris vẻ dịu dàng phi thời gian, ông lại cảm giác như mình đang bồng bềnh trôi. Cảm giác ấy, ông chỉ thấy từ hồi năm trước, và ông tự hỏi liệu có phải nó liên quan đến việc tuổi già đang tới gần. Từ hồi còn rất trẻ, ông đã trải qua những khoảnh khắc nửa tỉnh nửa mơ này, khi ấy người ta để mình dạt đi - thường là sau một đêm trắng nhưng hôm nay mọi thứ lại khác: cảm giác như đang trượt tự do xuống một con dốc, khi động cơ đã dừng. Cho đến khi nào?
Ông trượt đi, theo cơn gió nhẹ và trọng lượng cơ thể mình. Ông va phải những khách bộ hanh ngược chiều không kịp tránh mình. Ông xin lỗi. Đó không phải lỗi của ông. Thường thì ông cẩn thận hơn rất nhiều khi bước đi trên phố, sẵn sàng chuyển sang vỉa hè khác nếu nhìn thấy từ xa ai đó mà ông quen và có vẻ định bắt chuyện. Ông nhận ra rằng rất hiếm khi ta gặp được ai đó mà ta thực sự muốn gặp. Hai hay ba lần trong đời thôi phải không?
Ông sẵn sàng đi bộ đến tận phố Charonne để mang trả Chantal Grippay cái váy nhưng lại sợ gặp Gilles Ottolini. Mà thế thì sao? Như vậy càng giúp ông chắc chắn hơn về sự tồn tại mù mờ của người đàn ông ấy. Ông nhớ lại câu Chantal Grippay đã nói: “Ở hãng Sweerts họ muốn sa thải anh ấy.” Nhưng chắc cô phải biết rõ là hãng Sweerts không tồn tại. Còn cuốn sách, Kẻ rong chơi trên lưng ngựa, mà bản quyền có từ thời tiền chiến thì sao? Liệu có phải Ottolini đã mang bản thảo đến nhà xuất bản Sablier từ kiếp trước dưới một cái tên khác? Ông, Daragane, dù sao cũng xứng đáng nhận vài lời giải thích.
༺༒༻
Ông đến dưới dãy vòm cuốn ở Palais-Royal. Ông bước đi không mục đích rõ ràng. Nhưng lúc ngang qua cầu Nghệ thuật và sân Louvre, ông lại thấy mình đang đi theo hành trình quen thuộc thời thơ ấu. Ông bước dọc cái nơi mà người ta vẫn gọi là Louvre của những người bán đồ cổ, và chính tại nơi này, ông nhớ những tủ kính bày đồ Giáng sinh trong các Cửa hàng Lớn ở Louvre. Giờ đây, khi ông dừng chân giữa hành lang Beaujolais, như thể đã chạm tới đích cuộc dạo bộ, một kỷ niệm lại ùa về trong ông. Kỷ niệm ấy bị chôn vùi lâu, ở nơi sâu thăm thẳm và vắng ánh sáng, tới nỗi giờ đây với ông nó hiện ra như mới. Ông tự hỏi liệu đó có thực sự là một kỷ niệm hay một khoảnh khắc không còn thuộc về quá khứ nữa sau khi đã tách rời khỏi quá khứ ấy như một điện tử tự do: mẹ ông và ông - một trong những lần hiếm hoi đi cùng nhau - đang bước vào một cửa hàng sách và tranh, mẹ ông nói chuyện với hai người đàn ông, một người ngồi bên chiếc bàn phía cuối cửa hàng, người còn lại chống khuỷu tay vào bệ lò sưởi lát đá cẩm thạch. Guy Torstel. Jacques Perrin de Lara. Ở đó, bất động, cho đến tận cùng thời gian. Làm thế nào mà cái ngày chủ nhật mùa thu ấy, cái ngày ông từ Tremblay quay lại cùng Chantal và Paul trên ô tô của Torstel ấy, cái tên đó lại chẳng gợi lên trong ông chút gì, kể cả tấm danh thiếp nơi có ghi địa chỉ cửa hàng?
Trên ô tô, Torstel thậm chí còn ám chỉ đến “ngôi nhà quanh Paris” nơi hồi bé, ông đã gặp ông ta, nhà của Annie Astrand. Ông, Daragane, cũng từng ở lại đó, trong suốt gần một năm. Ở Saint-Leu-la-Forêt. “Tôi nhớ một đứa bé, Torstel có lần đã nói. Đứa bé ấy, chính là anh, tôi nghĩ vậy...” Và Daragane xẵng giọng đáp lời Torstel, như thể mọi chuyện chẳng liên quan gì đến mình. Chính đó là Chủ nhật mà ông bắt đầu viết Bóng đen mùa hè sau khi Torstel thả ông xuống quảng trường Graisivaudan. Và chẳng lúc nào ông nhanh trí nghĩ được đến chuyện hỏi ông ta xem liệu ông ta còn nhớ người phụ nữ sống trong ngôi nhà đó không, ngôi nhà ở Saint-Leu-la-Forêt ấy, “một cô Annie-Astrand nào đấy”. Và liệu ông ta có tình cờ hay biết giờ cô đã thế nào.
Ông ngồi trên một chiếc ghế băng trong vườn, dưới ánh mặt trời, gần dãy vòm cuốn ở hành lang Beaujolais. Hẳn ông đã đi bộ được hơn một tiếng đồng hồ mà không nhận thấy trời còn nóng hơn những ngày trước. Torstel. Perrin de Lara. Nhưng đúng là ông đã gặp Perrin de Lara lần cuối, cùng cái năm có ngày Chủ nhật ở Tremblay - khi đó ông vừa hai mươi mốt tuổi -, và cuộc gặp ấy hẳn đã rơi vào đêm đen lạnh giá của lãng quên - như lời một bài hát- nếu không có chuyện về Annie Astrand. Một chiều tối, ông có mặt trong một quán cà phê quanh khu giao cắt đại lộ Champs-Élysées, vài năm sau chỗ này đã biến thành một hiệu thuốc. Lúc đó là mười giờ. Ông tạm nghỉ trước khi tiếp tục đi bộ về phía quảng trường Graisivaudan, hay đúng hơn là về phía một căn phòng trên phố Coustou mà ông thuê trọ được ít lâu nay với giá sáu trăm franc một tháng.
Tối ấy ông không ngay lập tức nhận ra sự hiện diện của Perrin de Lara, trước mặt ông, bên hiên quán. Một mình.
Tại sao ông lại bắt chuyện với ông ta? Khi ấy, ông đã không gặp ông ta được hơn mười năm, và người đàn ông ấy chắc chắn không thể nhận ra ông. Nhưng lúc đó ông đang viết cuốn sách đầu tay, và Annie Astrand xâm chiếm tâm trí ông đến ám ảnh. Có lẽ Perrin de Lara biết điều gì đấy về cô chăng?
Ông đứng sững trước bàn ông ta, và ông ta ngẩng đầu lên. Đúng là ông ta không nhận ra ông.
“Jean Daragane.
— À... Jean hả...”
Ông ta mỉm cười với ông, một nụ cười yếu ớt, như thể bối rối vì có ai đó, vào giờ này, còn gặp mình một thân một mình ở một nơi như vậy.
“Lâu quá rồi, anh đã lớn... Anh ngồi đi Jean...”
Ông ta chỉ cho ông cái ghế đối diện. Daragane ngần ngừ thoáng chốc. Cửa kính sân hiên hé mở. Chỉ cần nói ra câu quen thuộc: “Chờ chút... tôi quay lại ngay...” là đủ. Rồi sau đó lao ra bầu không khí bên ngoài giữa màn đêm và hít một hơi thật sâu. Và thế là khỏi phải quay về với một cái bóng, ở đó, chờ đợi ngàn năm, một mình, bên sân hiên một quán cà phê.
Ông ngồi xuống. Gương mặt tựa tượng La Mã của Perrin de Lara phị ra còn những lọn tóc đã nhuốm màu muối tiêu. Ông ta mặc vest vải xanh nước biển, quá phong phanh trong tiết trời mùa này. Trước mặt ông ta, một cốc Martini đã vơi nửa, Daragane nhận ra nhờ nhìn màu.
“Còn mẹ anh? Nhiều năm rồi tôi không liên lạc gì với bà ấy... Anh biết đấy... chúng tôi như anh chị em vậy...”
Ông ta nhún vai, và mắt ông ta ánh lên vẻ tư lự.
“Tôi từng đi vắng khỏi Paris rất lâu...”
Có vẻ ông ta muốn thổ lộ với ông lý do của sự vắng mặt lâu ngày ấy. Nhưng rồi ông ta lại im lặng.
“Ông có gặp lại các bạn mình là Torstel và Bob Bugnand không?”
Perrin de Lara có vẻ ngạc nhiên khi nghe nhắc đến hai cái tên này từ miệng Daragane. Ngạc nhiên, và ngờ vực.
“Anh vẫn lưu họ trong ký ức... anh vẫn nhớ hai người đó à?...”
Ông ta nhìn Daragane chăm chăm, cái nhìn đó khiến Daragane bối rối.
“Không... tôi không còn gặp họ nữa... trẻ con đúng là có trí nhớ phi thường... Còn anh, có gì mới không?”
Daragane cảm giác như nhìn thấu nỗi cay đắng trong câu hỏi này. Nhưng có lẽ ông nhầm chăng, hoặc ở Perrin de Lara, mọi thứ chỉ đơn giản là hệ quả của một ly Martini phải uống một mình, lúc mười giờ tối mùa thu bên sân hiên một quán cà phê?
“Tôi đang thử viết một cuốn sách...”
Ông tự hỏi tại sao mình lại thú nhận với ông ta như vậy.
“À... vì cái thời anh vẫn ghen tị với Minou Drouet ấy hả?”
Daragane đã quên cái tên này. Nhưng đúng vậy, đó là cô bé cùng tuổi ông, người mà ngày xưa từng xuất bản tập thơ Cây, bạn của tôi.
“Văn chương ấy hả, khó lắm... tôi nghĩ chắc hẳn anh cũng đã nhận ra điều đó...”
Perrin de Lara bỗng lấy giọng trịnh trọng khiến Daragane ngạc nhiên. Những điều ít ỏi ông biết về ông ta cùng ký ức tuổi thơ ông vẫn giữ hẳn khiến ông nghĩ rằng người đàn ông này đúng hơn là rất lông bông phù phiếm. Một dáng hình dựa khuỷu tay vào lò sưởi lát đá cẩm thạch. Liệu ông ta có như mẹ ông và Torstel, mà có lẽ cả Bob Bugnand nữa, cùng thuộc về “câu lạc bộ Những Kén Nhộng”?
Cuối cùng ông cũng hỏi ông ta:
“Thế sau khi đi vắng lâu như vậy, ông đã quay hẳn về Paris à?”
Người kia nhún vai và liếc Daragane bằng ánh mắt kiêu ngạo, như thể ông đã tỏ ra thiếu tôn trọng ông ta.
“Tôi không hiểu anh dùng ‘quay hẳn về’ với nghĩa gì.”
Chính Daragane cũng chẳng rõ. Ông hỏi chỉ đơn giản để cho có chuyện mà nói thôi. Thế mà người đàn Ông kia lại nổi nóng... Ông muốn đứng lên rồi bảo: “Ừm, chúc ông may mắn...” và trước khi bước qua cánh cửa lắp kính ở sân hiên, chắc ông sẽ mỉm cười với ông ta và đưa tay vẫy chào, như trên bến ke sân ga. Nhưng ông kìm lại. Cần phải kiên nhẫn. Có lẽ ông ta biết điều gì đó về Annie Astrand.
“Ông từng khuyên tôi đôi điều về việc đọc...Ông còn nhớ không?”
Ông gắng lấy giọng cảm động. Mà quả vậy, suy cho cùng, chính cái bóng ma kia từng tặng cho ông, hồi ông còn nhỏ, cuốn Truyện ngụ ngôn của La Fontaine thuộc xê ri sách kinh điển có bìa xanh nhạt của Hachette. Và một thời gian sau, cũng chính người đàn ông này khuyên ông khi nào lớn thì nên đọc Fabrizio Lupo.
“Rõ là anh nhớ rất nhiều điều...”
Giọng nói đã dịu lại, và Perrin de Lara mỉm cười với ông. Nhưng nụ cười ấy hơi nhăn nhúm. Ông ta vươn người về phía Daragane:
“Tôi sẽ nói với anh... Tôi không còn nhận ra Paris nơi tôi từng sống nữa... Chỉ năm năm đi vắng là đủ... tôi cảm giác như mình đang ở một thành phố nước ngoài...”
Ông ta nghiến hàm như để ngăn không cho từ ngữ trào ra khỏi miệng trong một tràng lộn xộn. Chắc hẳn ông ta không nói chuyện với bất kỳ ai từ lâu lắm rồi.
“Mọi người chẳng ai trả lời điện thoại nữa... Tôi không biết liệu họ còn sống hay không, liệu có phải họ đã quên tôi hay họ không còn thời gian dành cho giao tiếp...”
Nụ cười trở nên rạng rỡ hơn, ánh mắt trở nên dịu dàng hơn. Có lẽ ông ta muốn giảm bớt vẻ u buồn trong những gì mình nói, một vẻ u buồn mới hòa hợp làm sao với cái sân hiên đìu hiu này, nơi ánh đèn chiếu xuống thành những vùng tranh tối tranh sáng.
Dường như ông ta hối tiếc vì đã dốc bầu tâm sự. Ông ta ngồi thẳng người lên và quay đầu về phai cửa ra vào lắp kính của sân hiên. Bất chấp khuôn mặt phị ra cùng những lọn tóc muối tiêu khiến giờ đây mái tóc ông ta mang vẻ một mái tóc giả, ông ta vẫn giữ cái vẻ bất động như tượng thường thấy ở ông ta cách đây mười năm, một trong những hình ảnh hiếm hoi về Jacques Perrin de Lara mà Daragane còn nhớ được. Và ông ta cũng có thói quen ngồi nghiêng để nói chuyện với người khác, y hệt lúc này. Hẳn ngày xưa người ta có nói với ông ta rằng nhìn nghiêng trông ông ta khá đẹp, nhưng tất cả những người nói điều ấy đều đã chết.
“Ông sống trong khu này à?” Daragane hỏi.
Lại một lần nữa, ông ta vươn người về phía ông và ngập ngừng trả lời.
“Không xa đây lắm... trong một khách sạn nhỏ ở khu Ternes...
— Ông phải cho tôi địa chỉ mới được...
— Anh thực sự muốn à?
— Vâng... Gặp lại ông hẳn tôi sẽ rất vui.”
Giờ thì ông sắp bước vào chủ đề chính. Và ông cảm thấy một nỗi sợ mơ hồ. Ông hắng giọng.
“Tôi muốn hỏi ông một thông tin...”
Giọng ông cứ đều đều. Ông nhận ra vẻ ngạc nhiên trên mặt Perrin de Lara.
“Về một người mà có lẽ ông biết... Annie Astrand...”
Ông phát âm cái tên này rất mạnh và nhấn rõ từng âm tiết, như trên điện thoại khi tiếng máy lạo xạo có nguy cơ át giọng người nói.
“Nhắc lại cho tôi cái tên đi...
— ANNIE ASTRAND.”
Ông gần như hét to cái tên và dường như ném về phía ông ta lời cầu cứu.
“Tôi từng sống khá lâu ở chỗ cô ấy, trong một ngôi nhà ở Saint-Leu-la-Forêt..”
Mấy từ ông vừa phát âm nghe rất rõ ràng và vang lên như tiếng kim loại giữa sân hiên tịch mịch, nhưng ông nghĩ điều đó chẳng ích gì.
“Vâng... tôi biết... có lần chúng tôi, cùng với mẹ anh, từng đến đó thăm anh...”
Ông ta ngừng lời, rồi không nói gì thêm về chủ đề này nữa. Đó chỉ là một ký ức xa xăm không liên quan đến ông ta. Chẳng bao giờ nên trông mong ai đó có thể giải đáp cho các câu hỏi của bạn.
Nhưng ông ta nói thêm:
“Một phụ nữ rất trẻ... kiểu vũ nữ quán rượu... Bob Bugnand và Torstel biết rõ cô ấy hơn tôi... cả mẹ anh cũng vậy... Tôi nghĩ cô ấy từng đi tù... Mà sao anh lại quan tâm đến người phụ nữ đó?
— Cô ấy rất quan trọng với tôi.
— Vậy hả... ừm, tôi rất tiếc vì không thể cho anh biết gì... Tôi có thoáng nghe chuyện về cô ấy qua mẹ anh và Bob Bugnand...”
Ông ta lấy giọng kẻ cả. Daragane tự hỏi có phải ông ta đang bắt chước ai đó từng gây ấn tượng với ông ta hồi ông ta còn thanh niên không và có phải tối tối trước tấm gương, ông ta luyện cách sao chép từng cử chỉ, từng ngữ điệu của người ấy, ai đó mà đối với ông ta, cậu trai tốt bụng có phần ngây thơ, đại diện cho hết thảy những lịch thiệp kiểu Paris.
“Điều duy nhất tôi có thể nói với anh là cô ấy từng đi tù... tôi thực sự không biết gì hơn về người phụ nữ đó...”
Người ta đã tắt đèn nê ông ở sân hiên để hai vị khách cuối cùng hiểu rằng quán cà phê sắp đóng cửa. Perrin de Lara lặng im trong cảnh tranh tối tranh sáng. Daragane nghĩ về phòng chiếu phim ở Montparnasse nơi một tối nọ ông bước vào trú mưa. Phòng không có sưởi, vài khán giả hiếm hoi vẫn mặc nguyên áo khoác. Thường thì ngồi trong rạp ông vẫn nhắm nghiền mắt. Với ông, giọng nói và âm nhạc của một bộ phim gợi nhiều hơn là hình ảnh. Một câu nói trong bộ phim tối đó quay về trong tâm trí ông, câu nói phát ra từ một giọng trầm đục, trước khi đèn được bật trở lại, và ông tưởng như chính mình đang phát ngôn: “Để đến được với em, con đường anh phải theo mới lạ kỳ làm sao.”
Ai đó vỗ vào vai ông:
“Thưa các ông, chúng tôi chuẩn bị đóng cửa... Đến lúc phải đi rồi...”
Họ băng qua đại lộ và đi bộ trong khu hoa viên nơi ban ngày người ta dựng các gian hàng bán tem. Daragane ngập ngừng không biết có nên chào từ biệt Perrin de Lara hay không. Người đàn ông này dừng lại, như thể đột nhiên một ý nghĩ lướt qua tâm trí ông ta:
“Thậm chí tôi cũng không biết tại sao cô ấy lại từng đi tù...”
Ông ta chìa tay ra, Daragane bắt bàn tay ấy.
“Hẹn sớm gặp lại, tôi hy vọng thế... Hoặc cũng có thể là mười năm nữa...”
Daragane không biết phải trả lời thế nào, ông đứng đó, trên vỉa hè, dõi mắt trông theo. Ông ta đi xa dần trong chiếc áo vest quá đỗi phong phanh. Ông ta chậm rãi bước đi dưới hàng cây, và đúng lúc chuẩn bị băng qua đại lộ Marigny, ông ta suýt mất thăng bằng, vì bị gió và một đám lá rụng thúc vào lưng.