← Quay lại trang sách

Chương 11

Trong văn phòng của mình, ông quyết định cắm lại dây điện thoại và máy trả lời tự động phòng khi Chantal Grippay tìm cách gặp ông. Nhưng chắc Gilles Ottolini khi từ sòng bạc Charbonnières trở về đã không rời cô nửa bước. Cô phải lấy lại cái váy đen có hình chim én. Nó vẫn vắt ở đó, trên lưng tràng kỷ, như những món đồ không muốn rời bỏ ta và sẽ theo chân ta suốt cả cuộc đời. Cũng như vậy với chiếc Volkswagen màu xanh lơ thuở thanh niên mà sau vài năm ông đã phải rũ bỏ ấy. Thế nhưng mỗi lần thay đổi nơi ở, ông vẫn như thấy nó đỗ trước tòa nhà của mình - và chuyện đó kéo dài rất lâu. Nó trung thành với ông và theo ông đến bất kỳ nơi nào ông tới. Nhưng ông đã làm mất chìa khóa. Rồi một ngày kia, nó biến mất, có lẽ ở một trong mấy nghĩa địa ô tô, quá cửa ô Italy, nơi người ta bắt đầu vẽ xa lộ phương Nam.

Ông những muốn tìm lại “Trở về Saint-Leu-la-Forêt ”, chương đầu tiên trong cuốn sách đầu tiên của mình nhưng tìm kiếm hẳn là vô ích. Đêm ấy, lúc ngắm tán lá cây duyên trong sân tòa nhà bên cạnh, ông tự nhủ hẳn mình đã xé vụn chương đó. Ông tin chắc như vậy.

Ông cũng đã xóa bỏ chương thứ hai: “Quảng trường Blanche”, được viết ngay sau “Trở về Saint-Leu-la-Forêt”. Thế là ông phải làm lại tất cả từ đầu với cảm giác nặng nề khi phải sửa chữa bước khởi đầu sai lầm. Nhưng những kỷ niệm duy nhất ông còn giữ lại về cuốn tiểu thuyết đầu tiên ấy lại chính là hai chương sách bị hủy đóng vai trò trụ cột cho toàn bộ phần còn lại, hay đúng hơn là khung đỡ đã bị tháo đi khi cuốn sách hoàn thành.

Ông đã viết hai mươi trang “Quảng trường Blanche” trong một căn phòng ở số 11 phố Coustou, một khách sạn cũ. Ông lại một lần nữa sống ở khu Montmartre hạ, mười lăm năm sau khi phát hiện ra nơi này nhờ Annie. Quả thực họ đã dạt vào đó khi rời Saint-Leu-la-Forêt. Chính vì vậy, ông nghĩ sẽ dễ dàng viết được một cuốn sách hơn nếu quay về đứng những nơi ông từng biết đến cùng cô.

Bấy lâu nay hẳn chúng đã thay hình đổi dạng, nhưng ông vẫn gần như nhận ra chúng. Bốn mươi năm sau, vào thế kỷ 21, một buổi chiều, ông tình cờ đi taxi ngang qua khu phố. Xe dừng lại vì tắc đường, ở góc giao giữa đại lộ Clichy và phố Coustou. Suốt nhiều phút đồng hồ, ông không nhận ra gì, như thể ông bị mắc chứng quên và chỉ còn là một khách lạ trong chính thành phố của mình. Nhưng với ông điều đó nào đâu quan trọng. Theo dòng năm tháng, mặt tiền các tòa nhà và các ngã tư đã trở thành nội cảnh cuối cùng cũng phủ khắp Paris hiện tại quá nhẵn nhụi và trơ ì. Đằng kia phía bên phải, ông ngỡ như nhìn thấy biển hiệu của ga ra phố Coustou và sẵn lòng yêu cầu người lái xe thả ông ở đó để ông có thể trở về căn phòng cũ, sau bốn mươi năm.

Hồi ấy, ở tầng phía trên tầng của anh, người ta bắt đầu việc sửa sang biến các phòng khách sạn cũ thành các studio. Để viết cuốn sách mà không phải nghe thấy tiếng búa gõ vào tường, anh thường lánh mình trong một quán cà phê trên phố Puget giao với phố Coustou nơi cửa sổ phòng anh nhìn xuống.

Buổi chiều, chẳng có khách nào ghé qua cái nơi mang tên Aero này, một quán bar thì đúng hơn là một quán cà phê, nếu nhìn vào gỗ lát tường sáng màu, trần nhà có ô lõm, mặt tiền cũng ốp gỗ sáng màu và kính ghép màu bọc sáo gỗ. Một người đàn ông tóc nâu chừng bốn mươi tuổi thường đứng sau quầy đọc báo. Có lúc trong buổi chiều, ông ta biến mất trong một cái cầu thang nhỏ. Hôm đầu, Daragane gọi ông ta để thanh toán mà không được. Rồi anh cũng quen dần với những lần vắng mặt của ông ta và để lại trên bàn một tờ năm franc.

Phải mất vài ngày người đàn ông ấy mới nói chuyện với anh. Còn trước đó ông ta đã cố ý lờ anh đi. Mỗi lần Daragane gọi cà phê, dường như ông ta không nghe thấy, nên Daragane rất ngạc nhiên khi cuối cùng ông ta cũng bật máy pha cà phê. Ông ta đi tới, đặt tách cà phê lên bàn mà không buồn nhìn anh lấy một cái. Daragane ngồi tận cuối phòng, như thể muốn làm cho mình bị lãng quên.

Một chiều, khi vừa sửa xong một trang bản thảo thì anh nghe thấy một giọng trầm:

“Anh đang tính toán à?”

Anh ngẩng đầu lên. Ớ đó, sau quầy, người đàn ông kia đang mỉm cười với anh.

“Anh đến vào giờ xấu rồi... Buổi chiều ở đây như hoang mạc.”

Ông ta đi về phía bàn anh, vẫn với nụ cười mỉa mai ấy.

“Anh cho phép chứ?”

Ông ta kéo ghế và ngồi xuống đối diện anh.

“Chính xác thì anh viết gì vậy?”

Daragane ngần ngừ không biết có nên trả lời không.

“Một cuốn tiểu thuyết trinh thám.”

Người đàn ông kia lắc đầu và nhìn anh chăm chú bằng ánh mắt nặng nề.

“Tôi sống trong tòa nhà nơi góc phố, nhưng họ đang sửa sang, ồn ào quá không làm việc được.

— Khách sạn Puget cũ ấy hả? Đối diện ga ra phải không?

— Đúng rồi, Daragane đáp. Còn ông, ông ở đây lâu chưa?”

Anh có thói quen lái cuộc trò chuyện để tránh nói về mình. Cách của anh là trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi khác.

“Tôi luôn ở khu này. Trước đây tôi cai quản một khách sạn, phía dưới kia một chút, phố Laferrière...”

Cái từ Laferrière đó khiến tim anh xao xuyến. Khi anh cùng Annie rời Saint-Leu-la-Forêt để đến khu phố này, hai người họ đã ở trong một căn phòng trên phố Laferrière. Đôi khi cô đi vắng và đưa anh chìa khóa dự phòng. “Nếu em đi chơi thì đừng có để mình bị lạc.” Trên một tờ giấy gấp làm tư anh vẫn giữ trong túi, cô viết: “6, phố Laferrière”, bằng nét chữ to.

“Tôi từng quen một phụ nữ sống ở đó, Daragane đều đều giọng nói. Annie Astrand.”

Người đàn ông nhìn anh với vẻ ngạc nhiên.

“Thế hẳn là hồi đó anh còn rất bé. Cũng phải khoảng hai mươi năm rồi.

— Đúng hơn là mười lăm năm.

— Tôi biết Pierre, anh trai cô ấy. Anh ta sống ở phố Laferrière. Anh ta quản lý cái ga ra bên cạnh... nhưng lâu rồi tôi không nhận được tin anh ta nữa.

— Ông còn nhớ cô ấy không?

— Một chút... Cô ấy rời đây khi còn rất trẻ. Theo những gì Pierre kể với tôi thì cô ấy được một bà cai quản một hộp đêm trên phố Ponthieu bảo trợ...”

Daragane tự hỏi không biết ông ta có nhầm Annie với người phụ nữ khác không. Thế nhưng một người bạn của cô, Colette, vẫn thường tới Saint-Leu-la-Forêt và một ngày nọ, họ đã lái ô tô đưa Colette về Paris tới một con phố gần hoa viên Champs-Élysées nơi có chợ tem. Phố Ponthieu ư? Hai cô gái đã đi vào một tòa nhà. Còn anh ngồi lại ô tô đợi Annie trên băng ghế sau.

“Ông không biết cô ấy đã ra sao ư?”

Người đàn ông nhìn anh với vẻ nghi ngờ.

“Không. Mà tại sao? Cô ấy đúng là bạn anh chứ?

— Hồi bé tôi từng quen cô ấy.

— À thế lại khác... Thế thì nói được...”

Ông ta mỉm cười trở lại và ghé người về phía Daragane.

“Có lần Pierre giải thích với tôi là cô ấy gặp phiền toái và đã từng đi tù.”

༺༒༻

Ông ta nói với anh đúng câu Perrin de Lara đã nói, vào một tối tháng trước khi anh gặp ông ta ngồi một mình trên hiên một quán cà phê. “Cô ấy từng đi tù.” Hai người đàn ông mỗi người một giọng khác nhau: ở Perrin de Lara là giọng giữ khoảng cách có phần khinh bỉ, như thể Daragane buộc ông ta nói về một người không cùng giới với mình; còn ở người đàn ông kia là vẻ gì đó thân mật, bởi ông ta quen “Pierre anh trai cô ấy” và đối với ông ta “đi tù” dường như là cái gì đó rất bình thường. Có phải là do một vài khách của Ông ta, ông ta giải thích với Daragane, vẫn đến quán “sau mười một giờ tối”?

Anh nghĩ hẳn Annie sẽ cho anh vài lời giải thích nếu cô vẫn còn sống. Về sau, khi cuốn sách của anh được xuất bản và anh có dịp gặp lại cô, anh lại chẳng hỏi câu nào về chủ đề đó cả. Hẳn cô sẽ không trả lời. Anh lại càng không gợi nhắc căn phòng trên phố Laferrière, cũng chẳng nói đến tờ giấy gập tư nơi cô viết địa chỉ của họ. Tờ giấy ấy, anh làm thất lạc rồi. Mà dù anh có giữ được nó bên mình suốt mười lăm năm và chìa ra cho cô thì chắc cô cũng sẽ nói: “Nhưng Jean bé bỏng của tôi ơi, đó đâu phải chữ tôi.”

Người đàn ông ở quán Aero không biết tại sao cô đi tù. “Pierre anh trai cô ấy” không nói bất cứ chi tiết nào. Nhưng Daragane nhớ hôm trước ngày họ rời Saint-Leu-la-Forêt, cô có vẻ rất căng thẳng. Thậm chí cô còn quên đến trường đón anh lúc bốn rưỡi và anh phải tự mình đi về nhà. Điều đó không thực sự khiến anh lo sợ. Cũng dễ thôi, chỉ cần đi thẳng theo con phố. Annie đang gọi điện trong phòng khách. Cò giơ tay ra hiệu cho anh và tiếp tục nói chuyện điện thoại. Buổi tối, cô dẫn anh sang phòng cô, anh nhìn cô sắp đầy quần áo vào va li. Anh sợ cô bỏ anh lại một mình trong nhà. Nhưng cô nói với anh rằng ngày mai hai người họ sẽ đi Paris.

Đêm đến, anh nghe thấy nhiều giọng nói trong phòng Annie. Anh nhận ra giọng Roger Vincent. Một lúc sau, tiếng động cơ của chiếc ô tô Mỹ đi xa dần rồi tắt hẳn. Anh sợ phải nghe thấy tiếng ô tô của cô khởi động. Và anh ngủ thiếp đi.

༺༒༻

Một buổi trời chập choạng, lúc rời quán Aero sau khi viết được hai trang sách - việc sửa sang trong khách sạn cũ tạm ngừng vào khoảng sáu giờ chiều anh tự hỏi liệu có phải những lần dạo bộ cách nay mười lăm năm mỗi buổi Annie đi vắng đã dẫn anh tới tận đấy không. Những lần ấy không nhiều nhặn gì lắm, và trong ký ức của anh còn ngắn ngủi hơn. Liệu Annie có thực sự để một đứa trẻ đi lang thang trong khu phố này? Địa chỉ chính tay cô viết trên tờ giấy gập tư - một chi tiết anh không thể bịa ra được - chính là bằng chứng.

Anh nhớ đã đi theo một con phố, đến cuối thì thấy Moulin-Rouge. Anh không dám đi xa quá dải đất cao trên đại lộ vì sợ lạc. Tóm lại, hồi ấy chỉ cần đi vài bước nữa thôi là anh sẽ ở đứng nơi giờ đây anh đang ở. Và ý nghĩ đó làm nảy sinh trong anh một cảm giác thật kỳ quặc, như thể thời gian đã bị loại trừ. Cách đây mười lăm năm, anh thường đi dạo một mình, ngay gần chỗ này, dưới ánh mặt trời tháng Bảy, còn giờ đang là tháng Mười hai. Lần nào anh ra khỏi quán Aero trời cũng đã tối. Nhưng với anh, đột nhiên mùa và năm hòa làm một. Anh quyết định đi bộ đến tận phố Laferrière - đúng hành trình ngày xưa -, thẳng một mạch, luôn thẳng một mạch. Những con phố dốc, và anh càng đi xuống thì càng tin chắc mình đang quay ngược thời gian. Dưới chân phố Fontaine, bóng tối sẽ sáng dần, ngày sẽ rạng và lại một lần nữa mặt trời tháng Bảy sẽ tỏa nắng. Annie không chỉ viết địa chỉ lên tờ giấy gập làm tư, mà cả mấy từ này: ĐỂ EM KHỎI LẠC TRONG KHU PHỐ, bằng nét chữ to, nét chữ theo kiểu cổ mà ở trường Saint-Leu-la-Forêt người ta không còn dạy nữa.

Dốc phố Notre-Dame-de-Lorette cũng dựng đứng như con phố trước đó. Chỉ cần buông mình trượt đi. Xuống dưới một chút. Ở bên trái. Có một lần duy nhất, hai người họ về phòng khi trời đã về đêm. Đó là hôm trước ngày bắt tàu ra đi. Cô đặt một tay lên đầu hay gáy anh gì đó, một cử chỉ che chở để chắc chắn rằng anh vẫn đang bước đi bên cô. Họ quay về từ khách sạn Terrass phía bên kia cây cầu nằm bên trên nghĩa địa. Họ đã vào khách sạn ấy, và anh nhận ra Roger Vincent, ngồi trên chiếc ghế bành cuối sảnh. Họ ngồi cùng ông ta. Annie và Roger Vincent nói chuyện với nhau. Họ quên bẵng sự hiện diện của anh. Anh nghe mà không hiểu họ nói gì. Họ nói quá nhỏ. Có lúc, Roger Vincent nhắc đi nhắc lại điều này: Annie phải “bắt tàu” và phải “để ô tô lại ga ra”. Cô không đồng ý, nhưng cuối cùng cũng nói: “Được rồi, anh có lý, như vậy thận trọng hơn.” Roger Vintcent quay về phía anh và mỉm cười với anh. “Này, cho em đấy,” Rồi chìa cho anh một tấm bìa xanh nước biển, bảo anh mở ra. “Hộ chiếu của em.” Anh nhận ra mình trên ảnh, một trong những bức họ đã chụp ở quầy tự động, ánh sáng ở đó gắt quá khiến anh bị nháy mắt. Ngay trang đầu anh có thể đọc thấy tên và ngày tháng năm sinh của mình, nhưng họ thì khác, đó là họ của Annie: ASTRAND. Roger Vincent nói với anh bằng giọng nghiêm trang rằng anh phải mang họ của “người đi cùng mình”, và với anh giải thích thế là đủ.

Lúc quay về, Annie và anh bước đi trên dải đất nhô cao giữa đại lộ. Qua Moulin-Rouge, họ men theo một con phố nhỏ, ở bên trái, cuối phố là mặt tiền một ga ra. Họ băng qua một nhà kho tỏa mùi bóng tối và mùi xăng. Phía tít cuối là một căn phòng lắp kính. Một người đàn ông trẻ tuổi ngồi sau bàn, đây cũng là người đàn ông thi thoảng lại đến Saint-Leu-la-Forêt và một chiều đã đưa anh tới rạp xiếc Médrano. Họ nói về ô tô của Annie, cái ô tô dang đỗ đằng kia, cạnh bức tường.

Anh ra khỏi ga ra với cô, trời đã về đêm và anh muốn đọc mấy chữ trên biển hiệu sáng đèn: “Ga ra Lớn Quảng trường Blanche”, mấy chữ mà mười lăm năm sau anh dã đọc lại khi nghiêng người qua cửa sổ phòng mình ở số 11 phố Coustou. Chúng hắt lên bức tường đối diện giường anh những tia phản chiếu hình lưới mắt cáo, khi anh tắt đèn và cố tìm cách ngủ. Anh đi nằm sớm, vì bảy giờ sáng người ta đã bắt đấu việc sửa sang. Đêm nào ngủ không ngon anh thường rất khó viết. Trong giấc ngủ chập chờn, anh nghe thấy giọng Annie, mỗi lúc một xa xôi, và anh chỉ hiểu một mẩu câu: “... ĐỂ EM KHỎI LẠC TRONG KHU PHỐ...”

Khi tỉnh giấc, trong căn phòng ấy, anh nhận ra mình phải mất mười lăm năm mới đi qua được con phố.

༺༒༻

Cái buổi chiều ấy của năm ngoái, ngày 4 tháng Mười hai năm 2012 - ông đã ghi lại vào sổ -, tắc đường còn kéo dài và ông đã yêu cầu lái xe rẽ phải vào phố Coustou. Ông đã nhầm khi tưởng thấy từ xa biển hiệu ga ra, vì ga ra đã biến mất. Tương tự với mặt tiền bằng gỗ màu đen của Hư Không, trên cùng vỉa hè. Hai bên đường, mặt tiền các tòa nhà dường như rất mới mẻ, như được phủ một lớp trát hay bọc một lớp giấy bóng kính có thứ màu trắng xóa sạch đi những vết nứt và vệt bẩn từ quá khứ. Và đằng sau, sâu trong kia, hẳn người ta đã làm thủ thuật nhồi da để lấp đấy khoảng trống. Phố Puget, một bức tường trắng thay cho gỗ lát tường và kính màu ở quấn Aero, thứ màu trắng trung tính của lãng quên. Cả ông nữa, hơn bốn mươi năm qua, cũng dã quệt một mầu trắng lên cái thời ông viết cuốn sách đầu tiên và lên cái mùa hè ông vẫn một mình đi dạo với tờ giấy gập làm tư trong túi: ĐỂ EM KHỎI LẠC TRONG KHU PHỐ.

༺༒༻

Đêm ấy, lúc rời ga ra, Annie và cậu, họ không phải đổi vỉa hè. Chắc chắn họ đã đi qua trước Hư Không.

Mười lăm năm sau, Hư Không vẫn tồn tại. Anh chưa bao giờ muốn bước chân vào đó. Anh sợ chao đảo trong một cái hố đen. Vả lại với anh, dường như chẳng có ai bước qua ngưỡng cửa ấy. Anh hỏi chủ quán Aero ở đó họ diễn thể loại gì, - “tôi nghĩ em gái Pierre khởi nghiệp ở đó năm mười sáu tuổi. Có vẻ tất cả khách đều ngồi trong bóng tối, cùng các vũ nữ nhào lộn, các nữ diễn viên xiếc và đám vũ nữ thoát y mặt như đầu lâu”. Đêm ấy, liệu Annie có thoáng nhìn về phía cửa ra vào cái nơi cô “khởi nghiệp” không?

Cô cầm tay cậu, lúc băng qua đại lộ. Lần đầu tiên cậu thấy Paris về đêm. Họ không xuống phố Fontaine, con phố cậu quen đi theo mỗi lần dạo chơi một mình vào ban ngày. Cô dắt cậu đi dọc dải đất nhô cao. Mười lăm năm sau, cậu cũng tản bộ trên dải đất ấy, vào mùa đông, phía sau những lán gỗ hội chợ người ta dựng lên nhân Giáng sinh và cậu không sao rời mắt khỏi đám đèn nê ông mang thứ ánh sáng trắng như gửi đến cậu lời mời gọi cùng những tín hiệu morse mỗi lúc một yếu đi. Như thể chúng rực sáng lần cuối và vẫn thuộc về cái mùa hè khi mà cậu quay lại khu phố cùng Annie. Họ đã ở đó bao lâu nhỉ? Hàng tháng, hàng năm, hệt những giấc mơ dường như rất dài và vì đột ngột tỉnh giấc mà ta nhận ra chúng mới chỉ bắt đầu được vài giây?

Tới tận phố Laferrière, cậu vẫn cảm thấy tay cô ôm siết lấy gáy mình. Cậu vẫn là đứa trẻ có thể sẽ chuồn đi mất và khiến mình bị đè nát. Dưới chân cầu thang, cô đưa ngón trỏ lên môi để ra hiệu với cậu rằng cần phải lặng lẽ đi lên.

༺༒༻

Đêm ấy, cậu thức giấc nhiều lần. Cậu ngủ cùng phòng với Annie trên một cái đi văng còn cô nằm trên giường rộng. Hai va li của họ đặt dưới chân giường, va li của Annie bằng da còn va li của cậu, nhỏ hơn, bằng sắt trắng; Giữa đêm cô tỉnh dậy và rời phòng. Cậu nghe thấy tiếng cô nói chuyện trong phòng bên cạnh với một người đàn ông hẳn là anh trai cô, người ở ga ra. Cuối cùng cậu ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau, từ rất sớm, cô đã vuốt ve trán đánh thức cậu và họ ăn sáng cùng anh trai cô. Ba người ngồi quanh một chiếc bàn, cô lục trong túi xách của mình vì sợ làm mất tấm bìa xanh nước biển Roger Vincent đã mang đến hôm trước ở sảnh khách sạn, “hộ chiếu” của cậu, dưới tên “Jean Astrand”. Nhưng không, nó vẫn nằm trong túi. Sau này, khi ở trong căn phòng trên phố Coustou, cậu sẽ tự hỏi cậu làm mất nó lúc nào, cái tấm hộ chiếu giả đó. Chắc là lúc bắt đầu tuổi thiếu niên, hồi cậu bị trả về sau năm thứ nhất nội trú.

Anh trai Annie đã lái xe đưa họ đến ga Lyon. Vì đông người nên rất khó đi bộ trên vỉa hè trước cửa ga và bên trong sảnh lớn. Anh trai Annie xách va li. Annie bảo đó là ngày đầu tiên của kỳ nghỉ dài. Annie chờ ở một quầy để lấy vé tàu còn cậu đứng lại với anh trai cô lúc đó đã đặt hai cái va li xuống. Phải chú ý không để mọi người va vào mình và xe chở hàng của những người khuân vác không lăn bánh lên chân mình. Họ bị muộn, họ phải chạy đến tận ke, cô nắm cổ tay cậu rất chặt để cậu không bị lạc giữa đám đông, còn anh trai cô xách đống va li chạy theo họ. Họ lên một trong những toa đầu, anh trai Annie đứng phía sau họ. Hành lang đầy người. Anh trai Annie đặt hai cái va li ở lối vào toa rồi ôm hôn cô. Sau đó anh ta mỉm cười với cậu và nói vào tai cậu: “Nhớ nhé... Giờ em tên là Jean Astrand... Astrand.” Anh ta có vừa đủ thời gian bước xuống ke và giơ tay vẫy họ. Tàu bắt đầu lướt đi. Trong một khoang còn một chỗ trống. “Em ngồi đó đi, Annie bảo cậu. Tôi ở hành lang được rồi.” Cậu không muốn rời cô, cô nắm vai cậu kéo đi. Cậu sợ cô bỏ mình lại, nhưng chỗ cậu ngồi ở ngay lồi vào khoang nến cậu có thể dõi theo cô. Cô không cử dộng, đứng im trong hành lang, thi thoảng lại quay đầu lại cười với cậu. Cô châm một điếu thuốc bằng chiếc bật lửa bạc, cô tì trán vào cửa kính và chắc là đang ngắm cảnh. Cậu cúi mặt để không bắt gặp ánh mắt các hành khách khác cùng khoang. Cậu sợ họ hỏi cậu, như người lớn vẫn làm vậy khi thấy trẻ con chỉ có một mình. Cậu những muốn đứng lên hỏi Annie xem hai cái va li của họ còn ở nguyên chỗ cũ, ở đầu toa, hay không và liệu có sợ bị ai lấy cắp không. Cố mở cửa khoang, cúi người xuống phía cậu thì thầm: “Chúng ta sẽ sang toa nhà hàng. Như vậy tối có thể ngồi cùng em.” Cậu thấy dường như hành khách trong khoang đang quan sát hai người họ. Những hình ảnh nối tiếp nhau một cách đứt quãng, tựa như một cuộn phim mà các tấm phim đã cũ mòn. Họ đi dọc hành lang các toa, cố nắm cổ cậu. Cậu thấy sợ khi từ toa này sang toa kia phải đi qua cầu nối, chỗ lắc mạnh tới nỗi họ có nguy cơ bị ngã. Cô siết chặt cánh tay cậu để cậu không mất thăng bằng. Họ ngồi đối diện nhau, bên một chiếc bàn trong toa nhà hàng. May thay họ có bàn riêng cho hai người, mà hầu như cũng chẳng còn ai ở các bàn khác. Khác hẳn với tất cả những toa họ vừa đi qua, nơi hành lang và các khoang chật ních người. Cô đưa tay lên má cậu và bảo cậu rằng họ sẽ ngồi bên bàn này lâu chừng nào có thể và nếu không có ai làm phiền thì sẽ ngồi đến cuối cuộc hành trình. Còn cậu, điều khiến cậu lo lắng là hai cái va li họ để lại đằng kia, ở đầu một toa khác. Cậu tự hỏi họ có mất chúng không hay liệu có ai dó đã đánh cắp chúng. Chắc cậu đã đọc một truyện thuộc thể loại này từ một trong mấy cuốn sách trong xê ri Thư viện xanh mà Roger Vincent có lần mang cho cậu ở Saint-Leu-la-Forêt. Và hẳn là vì thế mà một giấc mơ cứ đeo đuổi cậu suốt đời: những chiếc va li ta để lạc mất trên một chuyến tàu, hoặc con tàu ra đi cùng đống va li của ta còn ta đứng lại trên ke. Nếu có thể nhớ hết những giấc mơ thì ngày nay chắc cậu phải có hàng trăm hàng trăm chiếc va li bị mất.

“Em đừng lo, Jean bé bỏng của tôi ạ”, Annie mỉm cười nói. Những lời ấy trấn an cậu. Sau bữa trưa họ vẫn ngồi nguyên chỗ cũ. Chẳng có thêm ai trong toa nhà hàng. Tàu dừng ở một ga lớn. Cậu hỏi cô đã tới nơi chưa. Vẫn chưa, Annie đáp. Cô giải thích chắc phải sáu giờ chiều rồi vì cứ vào giờ đó là tàu tới thành phố này. Vài năm sau, cậu sẽ thường xuyên đi đúng chuyến tàu này và sẽ biết tên thành phố nơi họ đến vào mùa đông lúc chập tối. Lyon. Cô lấy từ túi xách ra một bộ bài và muốn dạy cậu lối đánh bài một người, nhưng cậu chẳng hiểu gì.

Trước đó cậu chưa bao giờ đi xa như vậy. Chẳng ai đến làm phiền họ cả. “Họ quên chúng ta rồi,” Annie nói. Và ký ức còn lại trong cậu về tất cả những điều đó cũng đã bị sự lãng quên gặm nhấm, trừ một vài hình ảnh cụ thể hơn khi cuộn phim trượt đi và cuối cùng bị kẹt lại đúng chỗ một trong những hình ảnh ấy. Annie lục trong túi xách và chìa cho cậu tấm thẻ xanh nước biển - hộ chiếu của cậu - để cậu nhớ cái họ mới của mình. Vài ngày nữa họ sẽ “vượt biên” để đến một đất nước khác, trong một thành phố có tên là “Roma”. “Nhớ kỹ cái tên nhé: Roma. Thề với em là Ở Roma họ sẽ không thể tìm ra chúng ta. Tôi có bạn ở đó.” Cậu không hiểu rõ lắm những gì cô nói, nhưng vì cô phá lên cười nên cậu cũng cười theo. Cô lại chơi thêm một ván theo kiểu chơi một người, cậu nhìn cô xếp các quân bài thành từng hàng trên bàn. Tàu còn dừng một lần nữa ở một ga lớn, cậu lại hỏi cô họ đã tới nơi chưa. Chưa. Cô đưa cậu bộ bài, cậu thích thú phân chúng ra theo màu. Bích. Rô. Tép. Cơ. Cô bảo cậu đã đến lúc đi lấy va li. Họ lại đi qua hành lang các toa theo hướng ngược lại, và khi thì cô nắm cổ cậu, khi lại nắm cánh tay cậu. Các hành lang và các khoang trống trơn. Cô nói tất cả các hành khách đều đã xuống trước họ. Một con tàu ma. Họ tìm thấy va li vẫn ở chỗ cũ, ngay đầu toa. Đêm đã buông, họ đứng trên bến ke vắng của một nhà ga nhỏ. Họ men theo một lối đi chạy dọc đường sắt. Cô dừng lại trước một cái cửa lõm sâu vào một bức tường bao và lấy từ túi xách ra một chiếc chìa khóa. Họ xuôi xuống một con đường trong bóng tối. Một ngôi nhà lớn màu trắng có cửa sổ sáng đèn. Họ bước vào một cản phòng sáng rực, nền lát gạch đen trắng. Nhưng trong ký ức cậu, ngôi nhà ấy bị hòa làm một với ngôi nhà ở Saint-Leu-la-Forêt, chắc vì thời gian cậu ở đó cùng Annie quá ít. Vậy nên, căn phòng nơi cậu ngủ dường như cũng giống với căn phòng ở Saint-Leu-la-Forêt.

Hai mươi năm sau, anh đến Côte d’Azur và ngỡ như mình nhận ra cái ga nhỏ cùng lối đi họ đá men theo giữa đường sắt và những bức tường bao quanh các ngôi nhà. Èze-sur-Mer. Thậm chí anh còn từng đặt câu hỏi cho một người đàn ông tóc muối tiêu quản lý một nhà hàng trên biển. “Hẳn đó là biệt thự cổ Embiricos ở mũi Estel...” Hết sức ngẫu nhiên, anh ghi lại cái tên ấy, nhưng khi người đàn ông nói thêm: “Một ông nào đó tên là Vincent đã mua nó hồi chiến tranh. Rồi nó bị tạm giữ và giờ họ biến nó thành khách sạn” thì anh cảm thấy sợ. Không, anh sẽ không quay lại các nơi chốn để nhận ra chúng. Anh sợ rằng nỗi u sâu, vốn vẫn bị chôn vùi cho tới tận lúc đó, sẽ lan truyền qua tháng năm tựa như lần theo một dây cháy chậm.

Họ chẳng bao giờ ra biển. Buổi chiều, họ ở lại trong vườn, từ đó có thể nhìn thấy biển. Có một chiếc ô tô trong ga ra của ngôi nhà, to hơn chiếc ở Saint-Leu-la-Forêt. Buổi tối, cô đưa cậu đi ăn ở nhà hàng. Họ đi theo đường Corniche. Với chiếc ô tô này, cô bảo cậu, họ sẽ “vượt biên” và đến tận “Roma”. Ngày cuối cùng, cô thường xuyên ra khỏi vườn để gọi điện và có vẻ lo lắng. Họ ngồi đối diện nhau dưới mái hiên, cậu nhìn cô chơi một ván theo kiểu chơi một người. Cô nghiêng đầu và nhăn trán. Cô có vẻ suy nghĩ rất nhiều trước khi đặt một quân bài tiếp sau các quân khác, nhưng cậu nhận thấy một giọt nước mắt lần trên má cô, nhỏ tới nỗi chỉ nhìn được loáng thoáng, hệt như ngày hôm ấy, ở Saint-Leu-la-Forêt, khi cậu ngồi trên ô tô cạnh cô. Đến đêm, cô gọi điện trong phòng bên cạnh, cậu chỉ nghe thấy âm giọng cô chứ không nghe thấy lời nói. Buổi sáng, cậu thức giấc vì những tia nắng chiếu vào phòng cậu qua ri đô và in những vệt màu cam lên tường. Thoạt tiên, gần như chẳng có gì, chỉ là tiếng lốp lạo xạo trên sỏi, tiếng động cơ đi xa dần rồi phải mất thêm một lúc nữa ta mới nhận ra trong nhà chẳng còn ai khác ngoài ta.

HẾT