← Quay lại trang sách

Chương 10

Khoảng mười một giờ tối, điện thoại trong phòng làm việc của ông đổ chuông, nhưng ông không nhấc máy và chờ đầu bên kia để lại tin nhắn thoại. Một tiếng thở, ban đầu còn đều đặn, rồi càng lúc càng đứt quãng, và một giọng nói xa xăm khiến ông tự hỏi đó là giọng nữ hay giọng nam. Một tiếng rên. Rồi tiếng thở tiếp tục, hai giọng nói hòa trộn vào nhau và thầm thì khiến ông không thể nghe rõ được các từ. Rốt cuộc ông ngắt máy trả lời tự động và rút dây cắm điện thoại. Đó là ai nhỉ? Chantal Grippay? Gilles Ottolini? Hay cả hai cùng lúc?

Cuối cùng ông quyết định tranh thủ đêm tối tĩnh mịch để đọc thêm lần cuối toàn bộ đống giấy trong “hồ sơ”. Nhưng vừa mới bắt đầu ông đã thấy một cảm giác khó chịu: câu cú chồng chéo lên nhau, câu sau đột ngột xuất hiện phủ đè lên câu trước rồi biến mất chẳng để ông kịp giải mã. Ông đang ngồi trước một bản nguyên cáo đã bị tẩy chữ để viết chữ mới lên, ở đó các chữ liền kề trộn lẫn vào nhau như trong một bản in chồng và ngọ ngoậy không khác gì đám vi khuẩn nhìn qua kính hiển vi. Ông nghĩ đó là do mình mệt, và nhắm mắt lại.

Khi mở mắt ra, ông đọc trúng bản sao chụp lại đoạn có tên Guy Torstel trong Bóng đen mùa hè. Ngoài chương về quầy chụp ảnh tự động - một chương ông đánh cắp từ đời thực -, ông chẳng còn chút ký ức gì về cuốn sách đầu tay của mình. Ký ức duy nhất ông còn lưu giữ là ký ức về hai mươi trang đầu mà sau này ông hủy bỏ. Trong tâm trí ông, hai mươi trang ấy là khởi đầu của cuốn sách trước khi ông chối bỏ chúng. Ông từng định đặt tên cho chương đầu này là “Trở về Saint-Leu-la-Forêt”. Liệu có phải hai mươi trang kia đã vĩnh viễn ngủ yên trong một cái thùng các tông hay một cái va li cũ kỹ? Hay ông đã xé chúng đi? Ồng cũng không biết nữa.

Trước khi viết chúng, anh từng muốn đến Saint-Leu-la-Forêt lần cuối, sau mười lăm năm. Đó không phải một cuộc hành hương, mà đúng hơn là một chuyến thăm viếng hẳn sẽ giúp anh viết được phần đầu cuốn sách. Và chuyến “trở về Saint-Leu-la-Forêt” ấy, anh đã không nhắc đến với Annie Astrand, vài tháng sau, vào cái tối anh gặp lại cô sau khi cuốn sách xuất bản. Anh sợ cô sẽ lại nhún vai bảo anh: “Nhưng Jean bé bỏng của tôi, cái ý nghĩ quay trở về đó mới kỳ cục làm sao...”

Một chiều, vài ngày sau khi gặp Torstel ở trường đua, anh đã đi xe đến cửa ô Asnières. Hồi ấy vùng ngoại ô đã thay đổi. Liệu đó có phải hành trình Annie Astrand vẫn theo mỗi lần cô lái xe từ Paris về? Ô tô đi dưới đường sắt gần ga Ermont. Thế nhưng hành trình già hơn bốn mươi năm ấy, giờ đây anh tự hỏi liệu có phải mình đã tưởng tượng ra không. Tưởng tượng ra hẳn để biến nó thành một chương trong cuốn tiểu thuyết gây ra nơi anh bao bối rối. Anh ngược lên Phố Lớn ở Saint-Leu và băng qua quảng trường có đài phun nước... Một màn sương vàng bồng bềnh trôi, anh tự hỏi không biết có phải màn sương ấy bay ra từ rừng. Phố Ermitage, anh tin chắc vào thời Annie Astrand phần lớn các ngôi nhà chưa được xây, thay vào đó là cây cối hai bên đường với tán lá đan thành vòm. Anh có đang thực sự ở Saint-Leu? Anh tin đã nhận ra phần ngôi nhà nhìn xuống phố và cái cổng lớn nơi Annie thường đỗ xe. Nhưng phía xa hơn, bức tường bao đã biến mất, thay chỗ nó là một tòa nhà dài bằng bê tông.

Ở phía đối diện, với rào sắt quây quanh là một ngôi nhà hai tầng có cửa sổ lồi và mặt tiền phủ dây thường xuân. Một tấm biển bằng đồng gắn trên hàng rào sắt: “Bác sĩ Louis Voustraat”. Anh nhớ một sáng tan học, Annie đã đưa anh đến nhà bác sĩ này, và một chiều tối, bác sĩ này đã đích thân đến nhà khám cho anh trong phòng của anh vì anh bị ốm.

Anh ngần ngừ một lúc, ở đó, giữa phố, rồi hạ quyết tâm. Anh đẩy thanh chắn mở vào một khu vườn nhỏ và bước lên các bậc thềm. Anh nhấn chuông rồi đứng đợi. Qua cánh cửa hé mở, anh thấy một người đàn ông cao lớn, tóc bạc cắt ngắn, mắt xanh lơ. Ông không nhận ra anh.

“Bác sĩ Voustraat phải không?”

Người này tỏ cử chỉ ngạc nhiên, như thể Daragane vừa kéo ông ra khỏi giấc ngủ.

“Hôm nay không thăm khám. Tôi chỉ muốn nói chuyện với ông thôi.

— Chuyện gì thưa anh?”

Không chút nghi ngờ trong câu hỏi này. Giọng nói dễ mến với âm giọng có gì đó khiến người nghe yên lòng.

“Tôi đang viết một cuốn sách về Saint-Leu-la-Forêt... Tôi muốn hỏi ông vài câu.”

Daragane sợ sệt tới nỗi anh cảm giác như mình đã ấp úng khi phát ngôn câu này. Người đàn ông nhìn anh mỉm cười:

“Mời anh vào.”

Ông dẫn anh vào một cản phòng nơi lửa lò sưởi đang cháy và chỉ cho anh một cái ghế bành đối diện cửa sổ lồi. Ông ngồi xuống cạnh anh trên chiếc ghế bành giống chiếc anh đang ngồi và cũng phủ cùng thứ vải Scotland như vậy.

“Thế ai gợi ý cho anh đến gặp tôi, chính tôi vậy?”

Giọng ông trầm và dịu dàng tới nỗi chắc chẳng mất mấy thời gian mà ông có thể lấy được lời thú tội của ngay cả tên tội phạm xảo quyệt và chai dạn nhất. Ít ra đó là những gì Daragane tưởng tượng.

“Lúc đi ngang qua tôi nhìn thấy tấm biển. Và tôi tự nhủ một bác sĩ chắc sẽ hiểu rõ nơi chốn mình hành nghề...”

Anh cố nói một cách rõ ràng, dù rất bối rối, và anh dùng đúng từ “nơi chốn” thay vì từ “ngôi làng” xuất hiện hết sức tự nhiên trong đầu anh. Nhưng Saint-Leu-la-Forêt đã không còn là làng từ hồi anh còn nhỏ.

“Anh không nhầm đâu. Tối hành nghề ở đây được hai mươi lăm năm rồi.”

Ông đứng dậy đi về phía một kệ giá, Daragane nhận thấy trên đó có một hộp đựng rượu.

“Anh muốn uống gì không? Một chút porto nhé?”

Ông chìa cái ly cho Daragane rồi ngồi lại chỗ của mình, bên cạnh anh, trên cái ghế bành bọc vải Scotland.

“Thế anh viết sách về Saint-Leu à? Ý tưởng hay đấy...

— Ô... một cuốn sách mỏng... cho một bộ sưu tập về các địa phương khác nhau ở Île-de-France…

Anh cố tìm các chi tiết khác có thể tạo cảm giác đáng tin cho bác sĩ Voustraat.

“Ví dụ tôi dành cả một chương cho cái chết bí ẩn của hoàng thân cuối cùng của xứ Condé.

— Tôi thấy anh hiểu rõ lịch sử cái thành phố nhỏ này đấy.”

Rồi bác sĩ Voustraat nhìn anh chăm chú bằng đôi mắt xanh lơ và mỉm cười với anh, như ông từng nhìn cách đây mười lăm năm khi khám cho anh trong phòng ngủ của anh ở ngôi nhà đối diện. Có phải hồi đó anh bị cúm hay bị một căn bệnh gì đó có tên gọi rất phức tạp mà trẻ con hay mắc?

“Tôi cần cả những thông tin khác không mang tính lịch sử, Daragane nói. Các giai thoại chẳng hạn, liên quan đến một vài người dân trong vùng...”

Anh ngạc nhiên với chính mình vì đã có thể tự tin nói hết nguyên một câu dài như vậy.

Bác sĩ Voustraat có vẻ trầm tư suy nghĩ, mắt chăm chằm nhìn vào một thanh củi đang từ từ cháy trong lò sưởi.

“Ở Saint-Leu chúng tôi có các nghệ sĩ,” ông vừa lắc đầu vừa nói, vẻ như đang hồi nhớ. “Nữ nghệ sĩ dương cầm Wanda Landowska... Và cả nhà thơ Olivier Larronde nữa...

— Ông cho phép tôi ghi lại mấy cái tên nhé?” Daragane hỏi.

Anh lấy từ túi áo vest ra một cây bút bi và cuốn sổ moleskine màu đen mà anh vẫn mang bên mình từ lúc bắt đầu viết cuốn sách này. Anh ghi vào đó những mẩu câu, hoặc những nhan đề có thể sẽ được đặt cho cuốn tiểu thuyết. Anh chăm chú viết mấy cái tên bằng chữ in hoa: WANDA LANDOWSKA. OLIVIER LARRONDE. Anh muốn cho bác sĩ Voustraat thấy mình có thói quen ghi chép.

“Cảm ơn các thông tin của ông. Chắc sẽ có những cái tên khác trở lại trong đầu tôi...

— Ông thật tử tế quá, Daragane nói. Liệu ông có bất đồ nhớ được một việc vặt nào đó từng xảy ra ở Saint-Leu-la-Forêt không?

— Một việc vặt ư?”

Bác sĩ Voustraat có vẻ ngạc nhiên trước từ này.

“Dĩ nhiên không phải một vụ án... Mà là cái gì đó mờ ám diễn ra ở đây... Người ta từng nói với tôi về một ngôi nhà, ở ngay đối diện nhà ông, nơi có những người rất kỳ cục sinh sống...”

Đó, giờ thì anh đã đi vào trọng tâm vấn đề, nhanh hơn anh dự đoán.

Bác sĩ Voustraat lại chăm chăm nhìn anh bằng đôi mắt xanh lơ mà giờ thì anh cảm thấy từ đó toát lên vẻ ngờ vực.

“Ngôi nhà đối diện nào cơ?”

Anh tự hỏi liệu có phải mình đã đi quá xa không. Nhưng suy cho cùng thì vì sao chứ? Anh không có vẻ của một thanh niên đứng đắn dang muốn viết sách giới thiệu về Saint-Leu-la-Forêt sao?

“Ngôi nhà nằm hơi chếch về bên tay phải... với cái cổng lớn...

— Anh muốn nói đến Trại Phong phải không?”

Daragane đã quên cái tên này, cái tên khiến tim anh nhói lên. Anh thoáng cảm thấy như mình đang bước qua dưới cổng ngôi nhà.

“Vâng, là... là Trại Phong...” khi phát âm mấy từ này, anh bỗng cảm thấy khó ở, hay đúng hơn là sợ hãi, như thể với anh Trại Phong liên quan đến giấc mơ tồi tệ nào đó.

“Ai đã nói với anh về Trại Phong?”

Anh sững người lại. Lẽ ra, tốt hơn cả là nói sự thật cho bác sĩ Voustraat. Nhưng giờ thì đã quá muộn. Lẽ ra vừa nãy anh phải làm như thế, ngay trên thềm cửa. “Ông từng chữa bệnh cho tôi, từ lâu lắm rồi, hồi tôi còn bé.” Nhưng không, như vậy anh lại cảm thấy mình chẳng khác nào kẻ bịp bợm và đánh cắp nhân dạng của người khác. Giờ đây, với anh, đứa bé ấy như người xa lạ.

“Ông chủ nhà hàng Ermitage nói với tôi...”

Anh nói hú họa như vậy hòng phỉnh phờ. Chẳng biết nhà hàng đó còn tồn tại không, và thậm chí là có từng tồn tại ở đâu khác ngoài ký ức của anh không?

“À vâng... nhà hàng Ermitage... Tôi nghĩ giờ nó không mang tên đó nữa... Anh biết Saint-Leu lâu chưa?”

Daragane cảm thấy choáng váng dâng lên trong mình, kiểu choáng váng vẫn xảy đến với ta khi ta chuẩn bị thú nhận một điều gì đó có thể sẽ thay đổi đường đời mình. Ở đó, trên đỉnh dốc, chỉ cần buông mình trượt xuống như ngồi trên cầu trượt. Cuối khu vườn rộng lớn của Trại Phong cũng có một cái cầu trượt, chắc do mấy người chủ cũ bỏ lại, tay vịn của nó đã han gỉ.

“Chưa. Đây là lần đầu tiên tôi đến Saint-Leu-la-Forêt.”

Bên ngoài, bóng tối dần buông, bác sĩ Voustraat đứng dậy bật đèn và cời lửa.

“Thời tiết mùa đông... Vừa nãy anh có thấy thứ sương mù đó không?... Tôi đã đúng khi đốt lửa...”

Ông ngồi lại xuống ghế bành và cúi người về phía Daragane.

“Hôm nay anh thật may khi bấm chuông cửa nhà tôi đấy... Tôi đang nghỉ khám bệnh... Cũng phải nói rằng tôi đã bớt đi thăm bệnh tại nhà...”

Cái từ “thăm bệnh” này liệu có phải ẩn ý ám chỉ ông đã nhận ra anh? Nhưng mười lăm năm qua đã có nhiều lần thăm bệnh tại nhà và nhiều cuộc hẹn khám trong căn phòng nhỏ, tận cuối hành lang, mà bác sĩ Louis Voustraat dùng làm phòng khám, đến nỗi ông không thể nhận ra hết mọi gương mặt được. Vả lại, Daragane nghĩ, làm sao nhìn ra được sự giống nhau giữa đứa trẻ kia với chính anh ngày nay?

“Đúng là ở Trại Phong có rất nhiều người kỳ quặc sống... Nhưng anh có nghĩ là nói về nơi này thực sự hữu ích với anh không?”

Daragane cảm giác những lời vô thưởng vô phạt ấy ẩn chứa ý nghĩa khác. Cũng hệt như khi trên radio, chương trình bị nhiễu sóng và hai giọng chồng đè lên nhau. Dường như anh nghe thấy: “Mười lăm năm rồi anh còn quay về Saint-Leu làm gì?”

“Người ta đồn là ngôi nhà đó rất xấu số... Có lẽ là do cái tên của nó...

— Tên của nó ư?”

Bác sĩ Voustraat mỉm cười.

“Anh biết ‘trại phong’ nghĩa là gì phải không?

— Dĩ nhiên rồi,” Daragane đáp lời.

Anh không biết, nhưng anh thấy xấu hổ nếu thú nhận với bác sĩ Voustraat.

“Trước chiến tranh, có một bác sĩ giống như tôi sống ở đó và đã rời Saint-Leu... Sau đó, lúc tôi đến đây, có một tay Lucien Fuhrer nào đấy thường xuyên lui tới... chủ một hộp đêm ở Paris thì phải... Ông ta đi đi lại lại suốt... Kể từ thời điểm ấy có rất nhiều người kỳ quặc ra vào ngôi nhà... cho đến cuối những năm năm mươi...”

Bác sĩ nói tới đâu Daragane ghi lại vào sổ tới đó. Cứ như thể ông sắp hé lộ với anh bí mật về nguồn gốc của anh, hé lộ toàn bộ những tháng năm đầu đời mà người ta đã lãng quên ấy, trừ một chi tiết thi thoảng lại ngoi lên từ thẳm sâu, một con phố có vòm lá rủ xuống, một mùi hương, một cái tên quen thuộc mà ta chẳng còn biết thuộc về ai, một cái cầu trượt.

“Và rồi cái tay Lucien Fuhrer ấy biến mất, ngôi nhà được một ông Vincent nào đó mua lại... Roger Vincent nếu tôi nhớ không lầm... Ông ta thường xuyên đỗ cái ô tô Mỹ mui trần của mình trên phố...”

Daragane, sau mười lăm năm, không còn chắc chắn hoàn toàn về màu xe nữa. Màu be ư? Phải, chắc là thế. Với ghế ngồi bằng da màu đỏ. Bác sĩ Voustraat nhớ nó là xe mui trần, và nếu ông có trí nhớ tốt, hẳn ông sẽ xác nhận được màu này: màu be. Nhưng anh sợ sẽ khiến ông ngờ vực nếu đặt câu hỏi cho ông.

“Tôi không biết chính xác ông Roger Vincent đó làm nghề gì... có lẽ là cùng nghề với Lucien Fuhrer... Một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi thường xuyên đi đi về về từ Paris...”

Dường như với Daragane, hồi đó, Roger Vincent chẳng bao giờ ngủ ở nhà. Ban ngày ông ta ở Saint-Leu-la-Forêt rồi rời đi sau bữa tối. Từ giường mình, anh nghe thấy tiếng ô tô của ông ta khởi dộng, âm thanh đó khác với âm thanh phát ra từ ô tô của Annie. Một âm thanh vừa mạnh hơn vừa nặng nề hơn.

“Nghe nói ông ta lai Mỹ hoặc đã ở Mỹ rất lâu... Trông ông ta giống người Mỹ... Cao lớn... dáng thể thao... Có lần tôi đã chữa bệnh cho ông ta... Tôi nghĩ ông ta bị sai khớp cổ tay...”

Daragane không nhớ gì chuyện đó. Nếu đã thấy Roger Vincent bị băng hay bó bột ở cổ tay thì hẳn anh phải có ấn tượng chứ.

“Có cả một cô gái trẻ và một đứa bé sống ở đố... Cô ấy không xứng tuổi làm mẹ thằng bé... Tôi nghĩ cô ấy là chị thằng bé... Có lẽ cô ấy là con gái của ông Roger Vincent kia...”

Con gái Roger Vincent ư? Không, ý nghĩ ấy không hề lướt qua đầu anh. Anh chưa bao giờ tự hỏi chính xác mối quan hệ giữa Roger Vincent và Annie là gì. Anh thường tự nhủ, cần phải tin rằng trẻ con không bao giờ tự hỏi. Nhiều năm sau, ta cố giải mã các bí ẩn mà vào thời điểm đó không còn là bí ẩn nữa và ta muốn hiểu được những ký tự đã bị xóa phân nửa của một ngôn ngữ quá cổ xưa, thứ ngôn ngữ thậm chí ta còn không biết bảng chữ cái.

“Nhiều người đi ra đi vào ngôi nhà đó lắm... Đôi khi người ta còn đến lức giữa đêm nữa...”

Hồi ấy, Daragane ngủ rất ngon - giấc ngủ trẻ thơ -, trừ những tối anh chờ Annie trở về. Thường thì giữa đêm anh hay nghe thấy những tiếng sập cửa và tiếng nói chuyện ồn ào, nhưng rồi ngủ lại ngay. Vả lại ngôi nhà rất rộng, gồm nhiều phần, đến nỗi anh không thể biết những ai đang ở đó. Buổi sáng, khi ra khỏi nhà để đến trường, anh nhìn thấy mấy chiếc ô tô đỗ trước cổng. Trong phần tòa nhà nơi có phòng anh, có cả phòng của Annie nữa, ở phía bên kia hành lang.

“Thế theo ông tất cả những người đó là ai? anh hỏi bác sĩ Voustraat.

— Ngôi nhà từng bị lục soát nhưng tất cả bọn họ đều đã biến mất... Người ta có chất vấn tôi, vì tôi là hàng xóm gần nhất... Có vẻ tay Roger Vincent đó đã dính vào một phi vụ mà họ gọi là ‘Combinatie’... Cái tên này chắc tôi từng đọc ở đâu đấy, nhưng tôi không nói được cụ thể nó là gì... Phải thú nhận với anh là tôi chẳng bao giờ quan tâm đến mấy vụ việc vẫn được nếu ở mục tin vặt ấy.”

Liệu Daragane có thực sự tìm cách để biết được nhiều hơn bác sĩ Voustraat? Một tia sáng khẽ lọt qua dưới khe cửa đóng báo hiệu với ta ai đó đang hiện diện. Nhưng anh không muốn mở cửa để xem ai đang ở trong phòng hoặc đúng hơn là trong tủ tường. Đột nhiên một cách nói lướt qua tâm trí anh: “xác chết trong tủ tường”. Không, anh không muốn biết cái từ “combinatie” ấy che giấu điều gì. Từ hồi còn nhỏ, anh đã luôn mơ đi mơ lại cơn ác mộng này: thoạt tiên là cảm giác vô cùng nhẹ nhõm lúc tỉnh giấc, như thể anh đã thoát khỏi một mối nguy hiểm. Rồi cơn ác mộng càng lức càng cụ thể hơn. Anh là kẻ đồng lõa hoặc nhân chứng của việc gì đó rất nghiêm trọng từng xảy ra rất xa trong quá khứ. Người ta đã bắt giữ vài người. Anh thì người ta không bao giờ nhận dạng được. Anh sống trong mối đe dọa bị tra vấn hỏi cung khi người ta nhận ra rằng anh có liên hệ với “những kẻ phạm tội”. Và anh sẽ không thể trả lời nổi các câu hỏi.

“Thế còn cô gái trẻ với đứa bé?” anh hỏi bác sĩ Voustraat.

Ban nãy anh đã ngạc nhiên khi bác sĩ nói: “Tôi nghĩ cô ấy là chị thằng bé.” Có lẽ một chân trời dang mở ra trong cuộc đời anh và xua đi những vùng tăm tối: những phụ huynh giả danh mà anh vẫn nhớ mang máng, những người rõ là muốn rũ bỏ anh. Và ngôi nhà ở Saint-Leu-la-Forêt ấy... Đôi khi anh tự hỏi mình làm gì ở đó. Ngay ngày mai, anh sẽ lao vào tìm kiếm. Trước tiên là tìm ra giấy khai sinh của Annie Astrand. Và hỏi cả giấy khai sinh của chính anh, Daragane nữa, nhưng không dừng lại ở cái bản sao đánh máy đó mà tra cứu cả sổ sách nơi mọi thứ đều được viết tay. Trên vài dòng viết về sự ra đời của mình, hẳn anh sẽ phát hiện ra những nét gạch xóa, những chữ được viết đè lên, những cái tên mà người ta muốn xóa.

“Ở Trại Phong, lúc nào cô ấy cũng chỉ có một mình với đứa bé... Sau vụ lục soát, người ta cũng hỏi tôi về cô ấy... Theo mấy người thẩm vấn tôi thì chắc cô ấy là vũ nữ nhào lộn...”

Ông miễn cưỡng nói ra bốn từ cuối này.

“Lâu lắm rồi, đây là lần đầu tiên tôi nói chuyện với ai đó về chủ đề này... Ngoài tôi ra, không ai ở Saint-Leu thực sự biết... Tôi là hàng xóm gần gũi nhất của họ... Nhưng anh phải hiểu rằng họ không hoàn toàn cùng giới với tôi...”

Ông mỉm cười với Daragane, nụ cười hơi có vẻ mỉa mai, Daragane cũng mỉm cười khi nghĩ rằng người đàn ông tóc bạc cắt ngắn có dáng dấp lính tráng và nhất là có ảnh mắt xanh lơ thẳng thắn này - như ông vẫn nói - là hàng xóm gần gũi nhất của họ.

“Tôi không nghĩ anh sẽ dùng tất cả những điều này để viết cuốn sách giới thiệu về Saint-Leu của anh... hoặc không thì phải tìm những chi tiết chính xác hơn trong tài liệu lưu trữ của cảnh sát... Nhưng nói thẳng thì anh có nghĩ việc đó đáng làm không?”

Câu hỏi này khiến Daragane ngạc nhiên. Chẳng lẽ bác sĩ Voustraat đã nhận ra và đang vạch trần anh? “Nói thẳng thì anh có nghĩ việc đó đáng làm không?” Ông hỏi rất tử tế, bằng giọng trách móc của người cha hoặc thậm chí là bằng giọng khuyên can thân mật - lời khuyên của người hẳn phải từng quen bạn khi bạn còn nhỏ.

“Không, dĩ nhiên rồi, Daragane đáp lời. Sẽ chẳng thích hợp cho lắm với một cuốn sách đơn giản giới thiệu về Saint-Leu-la-Forêt. Cùng lắm thì ta có thể biến nó thành một cuốn tiểu thuyết.”

Anh đã đặt chân lên một con dốc trơn nơi anh gần như sắp từ đó tuột xuống: thú nhận với bác sĩ Voustraat lý do thật sự khiến anh nhấn chuông cửa nhà ông. Thậm chí anh có thể nói với ông: “Bác sĩ, chúng ta qua phòng khám của ông để khám bệnh đi, như ngày xưa chúng ta vẫn làm ấy... Phòng khám vẫn ở cuối hành lang phải không?”

“Một cuốn tiểu thuyết ư? Thế phải biết hết các nhân vật chính. Nhiều người từng đến ngôi nhà này... Mấy người thẩm vấn tôi tra cứu một danh sách và nêu ra cho tôi từng cái tên... Nhưng tôi chẳng biết bất kỳ ai trong số đó...”

Daragane thực sự mong có cái danh sách ấy trong tay. Chắc hẳn nó sẽ giúp anh tìm lại được dấu vết của Annie, nhưng tất cả những con người kia đã tan biến vào thiên nhiên, thay tên đổi họ và cả gương mặt. Bản thân Annie hẳn cũng không còn mang tên Annie nữa, nếu cô còn sống.

“Thế còn đứa trẻ? Daragane hỏi. Ông có tin tức gì về đứa trẻ không?

— Chẳng có gì hết. Tôi thường tự hỏi nó đã ra sao... Thật là một cách khởi đầu cuộc đời kỳ quặc...

— Chắc họ phải đăng ký cho thằng bé học một trường nào đó...

— Có đấy. Trường Forêt, phố Beuvron. Tôi nhớ đã từng viết vài lời chứng nhận cho nó nghỉ học vì bị cúm.

— Ở cái trường Forêt đó, có lẽ sẽ tìm được dấu vết về thời nó học tại đổ...

— Không đâu, thật buồn thay. Cách đây hai năm ngôi trường ấy bị phá hủy rồi. Anh biết đấy, đó chỉ là một ngôi trường nhỏ xíu...”

Daragane nhớ cái sân chơi, nền bằng xỉ than đá, với những cây tiêu huyền, và sự tương phản, mỗi chiều nắng rọi, giữa màu xanh lá cây với màu đen xỉ than. Anh không cần nhắm mắt cũng thấy lại được cảnh đó.

“Ngôi trường không còn tồn tại nữa, nhưng tôi có thể giúp anh tham quan ngôi nhà...”

Lại một lần nữa anh có cảm giác bác sĩ đã đoán ra anh. Nhưng không, không thể thế được. Chẳng còn gì chung nữa giữa anh và đứa trẻ mà anh đã bỏ rơi cùng những người khác, Annie, Roger Vincent và những người đêm đêm lại tới bằng ô tô, mà tên tuổi xưa kia từng xuất hiện trên một danh sách - danh sách hành khách trên một chuyến tàu đắm.

“Người ta có đánh cho tôi chìa khóa của ngôi nhà đó... phòng khi một trong các bệnh nhân của tôi muốn viếng thăm... Nó đang được rao bán... Nhưng không có nhiều khách hỏi cho lắm. Tôi dẫn anh qua nhé?

— Để lần khác ạ.”

Bác sĩ Voustraat có vẻ thất vọng. Thực ra, Daragane nghĩ, ông hài lòng vì được đón tiếp và trò chuyện với mình. Bình thường chắc ông cô đơn lắm, suốt những chiều nghỉ ngơi đằng đẵng như vậy.

“Thật chứ? Nó không có nghĩa gì với anh sao? Đó là một trong những ngôi nhà cổ nhất Saint-Leu... Như cái tên cho thấy, nó được xây trên một trại phong cũ... Có lẽ chi tiết này sẽ khiến cuốn sách của anh thêm thú vị...

— Để hôm khác ạ, Daragane trả lời. Tôi hứa là sẽ quay trở lại.”

Anh không đủ can đảm bước vào ngôi nhà. Anh muốn đối với anh, nó mãi là một trong những nơi thân quen, một trong những nơi đôi khi ta đến thăm trong mơ; rõ ràng chúng vẫn là một thôi, nhưng lại thấm đẫm vẻ gì đấy khác thường. Một bức màn hay một thứ ánh sáng quả gắt? Và trong những giấc mơ ấy, ta gặp lại những người ta yêu, những người mà ta biết rằng họ dã chết. Nếu ta trò chuyện với họ, họ sẽ không nghe thấy giọng ta.

“Đồ đạc vẫn nguyên si như cách đây mười lăm năm chứ?

— Chẳng còn đồ đạc nào hết, bác sĩ Voustraat nói. Tất cả các phòng đều trống trơn. Còn khu vườn thì như rừng nguyên sinh vậy.”

Phòng của Annie, nằm ở phía bên kia hành lang, nơi từ đó những lúc rất khuya, trong giấc ngủ chập chờn, anh vẫn nghe thấy những giọng nói và những tiếng cười lanh lảnh. Cô ở cùng Colette Laurent. Nhưng thường thì giọng nói và tiếng cười là của một người đàn ông anh chưa bao giờ gặp trong nhà lúc ban ngày. Hẳn người đàn ông ấy rời đi rất sớm vào sáng hôm sau, trước giờ anh đi học. Một người xa lạ cứ mãi xa lạ đến tận cùng thời gian. Một kỷ niệm khác, rõ ràng hơn, trở lại trong anh mà anh không cần cố nhớ, như kiểu lời các bài hát ta học được từ thuở nhỏ và có thể nhắc lại suốt cuộc đời mà chẳng hiểu gì. Hai cửa sổ phòng anh nhìn ra con phố không giống con phố ngày nay, một con phố rợp bóng cây. Trên bức tường trắng, đối diện với giường anh, một bức khắc màu mang hình hoa, quả và lá, dưới bức khắc là những chữ cái in hoa: CÀ DƯỢC VÀ KỲ NHAM. Mãi sau này, anh mới biết dó là hai loài cây độc, nhưng tại thời điểm ấy anh chỉ quan tâm đến việc giải mã các ký tự: cà dược và kỳ nham, những từ đẩu tiên anh biết dọc. Một bức khắc khác, treo giữa hai cửa sổ: một con bò mộng màu đen, đầu chúi xuống nhìn anh chằm chằm bằng ánh mắt buồn bã. Bức khắc mang dòng chú thích: BÒ MỘNG VÙNG ĐẤT THẤP HOLSTEIN, viết bằng chữ nhỏ hơn cà dược và kỳ nham, và cũng khó đọc hơn. Nhưng sau vài ngày anh cũng đọc dược, thậm chí còn chép lại được tất cả những từ đó lên một lốc giấy viết thư mà Annie cho anh.

“Nếu tôi hiểu đúng, thưa bác sĩ, thì họ chẳng tìm được gì sau cuộc lục soát?

— Tôi không biết. Suốt nhiều ngày họ lục tung cả căn nhà. Hẳn những người kia đã giấu cái gì ở đó...

— Báo chí hồi ấy không viết gì về cuộc lục soát đó sao?

— Không.”

Giây phút ấy, một dự định hão huyền lướt qua tâm trí Daragane. Nhờ tiền bán quyền cuốn sách anh mới viết được hai hay ba trang, anh sẽ mua lại ngôi nhà. Anh sẽ chọn các dụng cụ thiết yếu: tuốc nơ vít, búa, nạy đinh, kìm, và anh sẽ tự mình lao vào một cuộc đào bới tỉ mẩn suốt nhiều ngày trời ròng rã. Anh sẽ nạy dần từng miếng gỗ lát phòng khách và phòng ngủ, sẽ phá vỡ những tấm gương để xem chúng che giấu thứ gì. Anh sẽ kiếm tìm các cầu thang bí mật và những cảnh cửa được giấu kín. Rốt cuộc anh sẽ tìm lại được thứ mình đã đánh mất, thứ mà anh không bao giờ nói được với ai.

“Chắc anh đi xe khách đến đây? bác sĩ Voustraat hỏi.

— Vâng.”

Bác sĩ xem đồng hồ đeo tay.

“Rất tiếc tôi không lái ô tô đưa anh về lại Paris được. Chuyến xe khách cuối cùng đến cửa ô Asnières sẽ khởi hành trong hai mươi phút nữa.” Ra tới ngoài, họ đi theo phố Ermitage. Họ ngang qua tòa nhà dài bằng bê tòng đã thế chỗ bức tường bao quanh khu vườn, nhưng Daragane không muốn gợi nhắc bức tường đã biến mất ấy.

“Nhiều sương mù quá, bác sĩ nói. Đã đông rồi đấy...”

Rồi cả hai người họ im lặng bước đi, vị bác sĩ, người thẳng, cứng đờ, mang dáng dấp một sĩ quan kỵ binh xưa. Daragane không nhớ mình cũng từng bước đi như vậy, trong đêm, hồi còn nhỏ, qua những con phố ở Saint-Leu-la-Forêt. Trừ một lần vào Giáng sinh, khi Annie đưa anh đến buổi lễ lúc nửa đêm.

Xe khách đang chờ, động cơ đã khởi động. Có vẻ anh sẽ là hành khách duy nhất.

“Tôi rất vui được tán gẫu cả chiều với anh, bác sĩ chìa tay ra cho anh và nói. Và tôi mong nhận được tin liên quan đến cuốn sách nhỏ về Saint-Leu của anh.”

Đúng lúc anh chuẩn bị bước lên xe khách, bác sĩ giữ cánh tay anh lại.

“Tôi có nghĩ đến chuyện này... về Trại Phong và tất cả những con người kỳ cục mà chúng ta đã nhắc tới... Nhân chứng tốt nhất có lẽ là đứa trẻ sống ở đó... Cần phải tìm lại nó... Anh có nghĩ thế khống?

— Sẽ khó lắm đấy bác sĩ ạ.”

Anh ngồi ở ghế cuối và nhìn qua cửa kính sau lưng. Bác sĩ Voustraat đứng đó, bất động, hẳn dang chờ chiếc xe khuất dạng ở ngã rẽ đầu tiên. Anh giơ tay vẫy ông.