← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III Tử Lũng Lạt đến Yên Thế-Hay là:-Chung quanh con đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn.

Năm 1888, Pháp đã chiếm đóng hoàn toàn khắp vùng đồng bằng Trung châu Bắc - Việt, sau 3 năm lấy được Trung Kỳ và Bắc Kỳ.

Lúc nay, nghĩa quân Cần Vương vẫn hoạt động mạnh mẽ ở khắp miền thượng Trung châu và khắp miền Thượng du Bắc Việt-

Nghĩa quân thường chận đánh phá các đường giao thông tiếp tế chính của Pháp quân từ miền đồng bằng lên miền Thượng du như con sông Thương từ Hải phòng lên Phú Lạng Thương (Bắc Giang) và con đường quốc gia số 4 từ Phú Lạng Thương lên Lạng Sơn, Cao Bằng, nhất là dọc theo con đường quốc gia số 4 từ Suối Ghềnh, Làng Nác, Mẫu Sơn ở phía Đông và suốt phía Tây dãy núi Cai Kinh.

Vì vậy việc tiếp tế của Pháp thường bị khó khăn luôn. Sự thiệt hại về vật chất rất là trầm trọng.

Chánh phủ Pháp quyết định khởi công đặt một con đường xe lửa nối liền Hà Nội và Lạng Sơn với mục đích tăng cường quân đội trong công việc tiếp viện quân nhu, quân trang cho các đạo binh chiếm đóng tại các miền Việt Bắc và tại biên giới Hoa Việt.

Khởi công vào năm 1888, 7 năm sau con đường sắt này mới hoàn thành được (1895).

Nhận thức được rõ vai trò quan trọng của con đường sắt này, các nhóm nghĩa quân đều tập trung tất cả lực lượng về Lạng Sơn và Phủ Lạng Thương để đánh phá khiến cho Pháp quân càng thêm tổn hại nặng nề về nhân lực cũng như về quân trang, võ khí.

Tức giận, Toàn quyền Lanessan liền ra lệnh tiễu trừ tận gốc tất cả các tổ chức kháng chiến (vào năm 1891) để cho công việc đặt đường xe lửa được dễ đàng.

Trong lúc đó, chánh phủ Pháp lại phái Đại tá Galliéni qua Việt Nam với nhiệm vụ… bình định các tổ chức kháng chiến và cách mạng.

Vị Đại tá này đã từng nổi danh trong công cuộc… bình định các tổ chức kháng chiến dũng cảm của nghĩa quân Soudan trong mấy năm trước.

Vào tháng 12 năm 1893 Đại tá Galliéni được cử chỉ huy đạo binh thứ nhì, trong bốn đạo binh Pháp thuộc miền Thượng du Bắc Việt ở Lạng Sơn với đặc trách bảo vệ con đường xe lửa nói trên và bình định khu vực Cao Bằng và khu vực Lạng Sơn.

Đạo binh thứ hai này nằm dọc theo biên giới Hoa Việt (ở phía Quảng Tây) với những pháo lũy tại Cao Bằng, Na Chầm, Lạng Sơn, Đồng Đăng và Thất Khê…

Vùng này một phần lớn thuộc về các dân tộc thiểu số như Thái, Thổ, Mán, Nùng, vân… vân… chiếm ngự.

Ở đây thật là… loạn!

Vì các dân tộc thiểu số còn lạc hậu và núi rừng, ghềnh thác hiểm yếu, một bọn cướp Tàu như Lục a Sung, Trương Tam Kỳ ở Trung Hoa tràn sang hoặc bọn thổ phỉ địa phưong nổi lên, mượn danh nghĩa giúp quân Cần Vương cách mạng, chúng cướp bóc khắp nơi, sinh sát mạng người coi không ra gì, làm cho ô danh, xấu tiếng các nhóm người xả thân vì nước và chính nghĩa không ít.

Trong lúc đó vì bận đánh phá dọc theo đường xe lửa từ Làng Nác tới Suối Ghềnh mà các nhóm nghĩa quân đành để cho bọn thổ phỉ làm loạn rất là tai hại.

Lại nữa, tại Lũng Lạt (Lạng Sơn), căn cứ thứ nhất của Cai Kinh ngày trước (Cai Kinh bị giết vào năm 1888, ngày 6 tháng 7 năm dương lịch) viên chỉ huy nghĩa quân tại căn cứ này là Hoàng Thái Ngân dung túng bọn thổ phỉ và chứa chấp chúng ở ngay tại bản doanh nên khiến cho đồng bào địa phương ca thán, oán ghét.

Thật là nguy hiểm, tinh thần cách mạng và chính nghĩa thật sự của nhóm nghĩa quân đã bị đồng bào hiểu lầm.

Tất cả những sự việc này đều không lọt qua khỏi tai mắt của viên Đại tá Pháp, vì đấy là những yếu điểm của nghĩa quân trước tâm lý và dư luận quần chúng, nhất là trước số quần chúng chậm tiến, kém hiểu rộng nhìn xa.

Ngay khi ấy, một vụ quan trọng xảy ra trên con đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn. Một số người Pháp bị giết chết làm đình trệ công việc đặt con đường sắt này một thời gian. Thêm nữa ba người Pháp khác tên là Bouyer, Roty và Humbert Droz bị nghĩa quân bắt cóc để đòi tiền chuộc mạng.

Nghe tin, Đại tá Galliéni nhất quyết mở một cuộc hành quân vào khu Lũng Lạt.

Lúc ấy Lũng Lạt đã có một số nghĩa quân hùng hậu và 1.300 tay súng. Số nghĩa quân nói trên một phần lớn đều xử dụng song đao mã tấu và cung, nỏ.

Nếu đánh dẹp được Lũng Lạt, quân Pháp sẽ bảo vệ được đoạn cuối cùng của con đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và sẽ làm chủ tình hình cả vùng núi Cai Kinh.

Đại tá Galliéni liền xua tất cả ba cánh quân hùng hậu với hàng vạn binh sĩ tinh nhuệ vào chiến cuộc.

Thêm nữa, Đại tá còn huy động thêm một toán lính cơ của Tri Huyện Lục Nam xung vào càn quét vùng Bảo Đài.

Ngày 6 tháng 12, Đại tá thân hành đến Phủ Lạng Thương và hạ lệnh cho Thiếu tá Barre đi do thám tình hình của nghĩa quân.

Khi ấy, nghĩa quân từ Len Đài rút về Lũng Lạt có mang theo cả ba tên người Pháp bị bắt cóc là Bouyer, Roty và Humbert Droz.

Rút về Lũng Lạt, nghĩa quân liền chia binh ra chuẩn bị ngay việc phòng thủ. Tất cả nghĩa quân được chia ra với số hàng tay súng như sau:

Cả thảy gồm có một đơn vị chỉ huy, bốn đội binh tác chiến, hai chi đội án ngữ, một tiểu đội canh phòng và một số quân trinh sát được biệt phái đi canh gác ở các ngọn núi lân cận.

Đơn vị chỉ huy gồm có 40 người ở tại Tổng hành dinh.

Bốn đội binh tác chiến, mỗi đội có 200 tay súng đủ đạn dược.

Hai chi đội án ngữ mỗi chi có 100 tay súng, án ngữ tại hai ngả chính vào Lũng Lạt một ngả phía Hung Liên và một ngả phía phố Bình Gia.

Tiểu độỉ canh phòng thì đóng giữ ở gần Bắc Sơn, nơi có dân chúng thường qua lại nhiều.

Còn số quân trinh sát sau rốt thì biệt phái đi lên các ngọn núi cao kế cận để nhìn ra khắp vùng mà quan sát tình hình tấn công của Pháp quân.

Tại trung tâm Lũng Lạt có 4 góc sát thành núi. Mỗi góc do một đội tác chiến nói trên đóng giữ.

Mặt trận dài khoảng 4.200 thước và rộng 600 thước. Địa thế rất hiểm trở núi rừng chớn chở, đường đi khó khăn, các đoàn xe vận tải của quân đội Pháp tiến vào được cũng gian lao vất vả lắm.

Đối với các đoàn xe lửa từ miền Trung châu lên miền Thượng du Bắc Vỉệt, khi đi ngang qua, đây quả là vùng kinh khủng nhất.

Đúng ngày 8 tháng 12 năm 1893, Đại úy Delaunay dẫn một trung đội lính Pháp tiến sâu vào đất Trấn Yên liền bị nghĩa quân phục kích.

Đại úy Delaunay bị nghĩa quân bắn chết tại trận tiền cùng với ba tên lính Pháp còn lại.

Vị chỉ huy đã chết, lính Pháp như rắn mất đầu, kinh hoảng chạy toán loạn. Nghĩa quân rượt theo, bắn giết thêm được một số khá đông.

Trong lúc đó, sau khi đánh chiếm được Len Đài, Thiếu tá Barre liền chia quân binh ra làm ba cánh, tiến vào ba ngả Hung Len, Trấn Yên và Bãn Lộ.

Khi ba cánh quân này chưa hội lại tại mục tiêu sẵn định thì đã bị nghĩa quân nhanh nhẹn ra tay trước. Cánh quân đi vào ngỏ Trấn Yên do Đại úy Brodiez chỉ huy đụng phải nhóm nghĩa binh dũng cảm, đã từng chiến thắng và bắn chết Đại úy Delaunay trước đó mấy hôm.

Đại úy Brodiez cùng binh sĩ dưới quyền mình bị nghĩa quân bao vây quá gắt, mất đường tiếp tế, buộc lòng phải thoái lui, rút khỏi đất Trấn Yên.

Đến đêm 13 rạng ngày 14 tháng 12 dương lịch thì cánh quân của Đại úy hết lương thực và gần hết cả đạn dược.

Đại úy phải liều chết chạy thoát thân về Trí Lệ, bỏ cả khí giới cùng quân trang, quân cụ ngoài mặt trận.

Được tin này, Đại tá Galliéni tức giận điện tin triệu hồi Thiếu tá Barre về gấp và hỏa tốc hạ lệnh cho Trung tá Chapelet lên Hung Len chỉ huy quân binh thay Thiếu tá Barre.

Bấy giờ, Đại tá Galliéni mới bắt đầu lo sợ và kiêng nể nghĩa dũng quân kháng chiến Việt Nam. Điều mà Đại tá lo ngại nhất là mặt tiếp tế.

Thật là một vấn đề hết sức khó khăn và gay go. Vốn là một vấn đề không những cần thiết, mà lại còn cấp bách nhưng gần như nan giải.

Bởi, khi mở một cuộc hành quân sâu rộng vào chốn rừng núi cheo leo, rậm rạp, nguy hiểm không phải là chuyện dễ dàng khi tiếp tế, tiếp viện.

Sức người chiến binh dầu sao cũng có hạn, còn bắt dân phu địa phương thay thế hoặc giúp đỡ người lính chiến xâm lược thì nhất định thế nào cũng gây thêm sự bộc phát phản đối, và sẽ gặp phải một sức chống trả mãnh liệt của dân chúng địa phương.

Thêm nữa, những kho quân lương, quân nhu của Pháp ở những nơi gần mặt trận lại làm sơ sài, mái lợp bằng lá, vách và hàng rào lại làm bằng gỗ, quan quân canh gác khó lòng mà giữ gìn yên ổn, trọn vẹn được.

Thật vậy, vào đêm 10 tháng 12 dương lịch, nghĩa quân đã xung phong đột kích kho quân nhu, quân trang Than Moi và đốt cháy tiêu được kho này.

Trước hiện tình gay go, tiến thoái lưỡng nan này, Đại tá Galliéni phải tạm ngừng xúc tiến kế hoạch tấn công Lũng Lạt lại một tháng.

Lúc này, Đại tá Galliéni điên đầu với nghĩa quân hơn bao giờ hết. Nhiều lúc gặp những khó khăn do các cơ quan hành chính gây ra và gặp những vấn đề mà thượng cấp làm lơ bởi không giải quyết ổn vấn đề, Đại tá cau có, đòi từ chức luôn, phó mặc chương trình bình định cho chánh phủ Thực dân.

Qua đến tháng 1 năm 1894, Đại tá mới được yên lòng, xúc tiến lại công việc. Trước hết, Đại tá bắt dân phu địa phương tiếp tế và cất lại kho quân nhu, quân lương cho được chắc chẳn hơn.

Đại tá Galliéni lại chia cho ba cánh quân có ba đoàn tiếp tế riêng biệt. 3 đoàn này cứ theo sát đuôi ba cánh quân nói trên.

Đại tá đích thân chỉ huy trực tiếp một cánh, còn hai cánh kia thì giao cho Trung tá Chapelet và Thiếu tá Famin, mỗi người chỉ huy một cánh.

Trước khi xuất quân, Đại tá nghiên cứu trận địa rất kỹ lưỡng để cải cách kỹ thuật hành quân lại cho thật phù hợp và tăng cường quân lương cùng trang bị ba cánh quân đồng đều như nhau.

Xuất quân vào 8 giờ sáng ngày 9 tháng 1 năm 1894, Đại tá Galliéni chia cho ba cánh quân ba ngả để đi vào Lũng Lạt và ra quân kỷ luật thật nghiêm. Không một binh sĩ nào được phép bỏ rơi đồ vật rơi rớt hay để dấu tích lại trên đường hành quân.

Đại tá định đánh úp Lũng Lạt bất ngờ nên ra lệnh cho các vị chỉ huy tuyệt đối giữ bí mật quân sự nhất là ngày giờ tiến binh và hướng xuất quân.

Nhưng, nghĩa quân vẫn biết trước được rõ một vài hành động của tất cả ba cánh quân nói trên. Vì Đại tá Galliéni có ngờ đâu rằng nghĩa quân đã có một ban trinh sát tài tình và 4 ‘‘đài quan sát’’ của nghĩa quân các ngọn núi cao gần trận địa rất là đắc lực.

Khi ba cánh quân của Đại tá còn ở đàng xa thì đài quan sát đã thấy được và nghĩa quân được báo động để chuẩn bị giao tranh ngay.

Vả lại, đơn vị kỵ binh và pháo binh của Đại tá đã bị nghĩa quân khám phá ngay khi mới vừa đặt bước chân đầu tiên vào ven rừng…

Nhận thấy lực lượng của ba cánh quân địch thật hùng hậu, các đơn vị nghĩa quân canh phòng ở các tiền đồn đều rút lui nhanh chóng về trung tâm Lũng Lạt để tổ chức lại thế thủ và tăng cường thêm cho 4 đội tác chiến.

Những tiền đồn ở Mõ Nhai và Trấn Yên đều bỏ trống, nghĩa quân không chú trọng ở các nơi này nữa. Khi Pháp quân vào tới thì không còn một bóng người thấp thoáng.

Không một tiếng nổ giao tranh

Trong lúc đó, Hoàng Thái Ngân, chỉ huy tất cả nghĩa quân ở khu Lũng Lạt, Cai Kinh đã dự tính, nếu gặp trường hợp nguy kịch, sẽ ra lệnh cho nghĩa quân rút lui, bỏ Lũng Lạt theo con đường phía Tây mà qua địa phận của Lương Tam Kỳ…

Với ý định này, Hoàng Thái Ngân ra lệnh cho tất cả nghĩa quân cố đánh một trận cho thật quyết liệt rồi rút lui.

Trước ngày Pháp quân xuất binh tấn công, Hoàng Thái Ngân cũng đã ra lệnh phóng thích ba tên Pháp bị bắt là Bouyer, Roty và Humbert Dioz.

Trong lúc tất cả mọi người tin tưởng vào con đường rút lui ở phía Tây và đinh ninh rằng Pháp quân thế nào cũng theo ngả Trấn Yên mà tiến vào như hai lần trước nên tất cả các lực lượng đều hướng về Trấn Yên và Bắc Sơn; không ngờ cánh quân của Thiếu tá Famin lại đi bọc hậu rồi vòng qua ngả phía Tây mà tiến vào tấn công, khiến bít mất con đường thoát thân duy nhất của nghĩa quân.

Cùng một lúc, hai cánh quân của Trung tá Chapelet và Đại tá Galliéni ào tới khép chặt vòng vây.

Thế là nghĩa quân như thể đàn gà bị vít vào một góc chuồng.

Súng bắt đầu nổ từng loạt.

Nghĩa quân núp sau các pháo lũy che đậy bằng thân cây và cố cầm cự ở Hưng Vũ và Tràng Lang.

Tuy bao vây được nghĩa quân, Đại tá Galliéni cũng không hạ lệnh cho tất cả ba cánh quân đổ xô vào sát phạt mà chỉ đánh cầm chừng.

Nghĩa quân cũng cố chống cự lại để tìm cơ hội mở một con đường máu.

Chiến cuộc kéo dài từ sáng đến tối, tình trạng vẫn bắn cầm chừng vì Pháp quân cứ dè dặt, không dám tiến.

Đến 11 giờ đêm, sương khuya rủ xuống khu rừng rậm rạp một màn hơi nước lờ mờ trong cảnh đen tối chập chùng.

Núi rừng vẫn đầy hơi khói, hãi hùng:

Trước tình thế này, nghĩa quân chụp lấy cơ hội, chia ra từng tốp năm bảy người, bỏ pháo lũy rút lui, chạy tán loạn…

Trong đêm tối, nghe tiếng động hỗn độn Pháp quân không thấy rõ gì cả nhưng cũng hoảng kinh cất súng bắn bâng quơ cầm chừng…

Thế mà, nghĩa quân trúng đạn tử trận cũng rất nhiều.

Đến lúc trời vừa tờ mờ sáng, Đại tá Galliéni mới hạ lệnh cho ba cánh quân tiến vào Lũng Lạt thì thấy Lũng Lạt chỉ là một vùng bỏ hoang, nhà cửa xơ xác, vắng ngắt không một bóng người.

Pháo lũy, chiến tuyến, hầm hố đều đổ nát.

Trên các con đường ăn thông qua Vũ Sơn, Vũ Lệ, Vũ Đích và Chợ Mới, xác của nghĩa quân tử trận bỏ rơi vô số, chứng tỏ một cuộc rút lui hỗn độn, rất thảm não của đám tàn quân chiến bại.

Đại tá Galliéni không chậm trễ một phút liền hạ lệnh đuổi theo truy nã gấp rút.

Thật không may cho đoàn nghĩa quân. Vì trước kia Hoàng Thái Ngân và nghĩa quân đã chứa chấp bọn thổ phỉ làm bậy nên làm cho dân chúng ở địa phương lân cận như Vũ Đích, Vũ Sơn, Vũ Lệ và Tam Trì oán thù nên nhân dịp này họ hợp nhau lại mai phục ở khắp các ngả đường trọng yếu và chặn đường rút lui của nghĩa quân.

Vì vậy, Hoàng Thái Ngân cùng với một số rất đông nghĩa quân bị sa vào ở phục kích và bị dân chúng ở Vũ Đích bắn chết.

Ở Yên Thế, Đề Thám hay tin này rất trễ, mấy ngày sau mới ra lệnh cho một đội nghĩa quân từ Trí Lễ hỏa tốc lên tiếp cứu.

Chính lúc này, Đề Thám cũng chưa hay Lũng Lạt đã bị Pháp quân chiếm đóng và cũng không dè rằng việc các đoàn dân chúng ở các vùng Vũ Đích, Vũ Sơn, Vũ Lệ và Tam Trì sở dĩ có súng ống đạn dược đủ để võ trang mà mai phục đám tàn binh nghĩa quân là vì Pháp quân đã lợi dụng ngay mối thù hằn của họ mà cấp phát cho. Đồng thời cũng chính Đại tá Galliéni xúi giục họ mai phục nghĩa quân.

Khi đoàn nghĩa quân của Thám lên tới Trấn Yên liền bị cánh quân của Trung tá Chapelet chặn đánh bất ngờ.

Trước hỏa lực quá mạnh của Pháp quân, nghĩa quân phải thối lui chạy tán loạn trong khi đội sơn pháo 80 ly của Pháp quân nả bắn theo dữ dội như trời long đất lở.

Qua ngày 22 tháng 1, Pháp quân hoàn toàn “bình định” xong vùng Lũng Lạt (Cai Kinh).

Đại tá Galliéni liền cho xây một loạt pháo đài, đồn trại tại các nơi trọng yếu, nguy hiểm ở trên các ngọn núi để chiếm đóng tại các ngả giao thông và làng mạc đông đảo.

Lũng Lạt đã mất, Yên Thế ở vào một tình thế thật nguy hiểm, luôn luôn đặt trong một tình trạng báo động.

Vì Lũng Lạt và Yên Thế là hai điểm quan trọng rất có liên hệ với nhau, như thể cánh tay trái và cánh tay mặt.

Cánh tay mặt đã hỏng, bị bỏ đi thì cánh tay trái lưyện tập, cố gắng nhiều lắm mới có thể vận động bằng cánh tay mặt được.