CHƯƠNG IV Lần thứ nhất-Đề Thám tạm thời-cầu hòa với Pháp
Sau ngày Lũng Lạt lọt vào tay Pháp quân, Yên Thế càng lúc càng lâm vào tình trạng nguy ngập.
Ba tháng sau, tức là vào tháng 4 năm 1894, nhận thấy thực lực của nghĩa quân chưa còn sức chống chọi lại Pháp quân, dưới quyền chỉ huy của Đại tá Galliéni, Đề Thám tính chuyện tạm thời cầu hòa với Pháp.
Vả lại, đất Yên Thế đã từng có xày ra những cuộc chạm trán nảy lửa, như trận bốn năm về trước (1890), tuy tướng Godin không thắng nổi nghĩa quân và trận 1892, Pháp quân tổn hại cũng nhiều, nhưng nghĩa quân cũng phải vất vả, gian lao lắm mới giữ vững được đất này.
Ở địa phận Bắc Ninh có vị giám mục tên là Valesco có rất nhiều uy tín với nhà chức trách Pháp.
Lợi dụng ngay vai trò quan trọng của vị giáo sĩ này, Đề Thám khéo léo đưa thương nghị cầu hòa.
Nhờ có lời nói vào của giáo sĩ Valesco, chánh quyền Pháp đặc biệt lưu ý và có phần ôn hòa…
Trong việc cầu hòa này, Đề Thám đã gặp đúng lúc tình hình nội bộ Pháp có sự thay đổi.
Lúc đó, Toàn quyền Lanessan vì một lỗi lầm nhỏ nhặt, là cho người phụ tá xem một tập tài liệu mật, nên bị chánh phủ Pháp triệu hồi về nước gấp rút.
Đồng thời chánh phủ Pháp cũng bổ nhiệm một vị toàn quyền mới tên là Rousseau.
Cuộc thay đổi người nắm vận mạng guồng máy chánh trị của Pháp tại Việt Nam này kéo dài trong một thời gian khá lâu.
Đề Thám nhân cơ hội nội tình Pháp lủng củng, đề nghị cầu hòa mà còn “bắt bí” Pháp hai điểm quan trọng.
- Pháp phải trả cho nghĩa quân Yên Thế 15.000 đồng để chuộc hai công dân Pháp tên là Logion và Chesnay đã bị bắt cóc trên một khoảng đường sắt trước đố.
- Pháp phải nhìn nhận để cho Đề Thám làm chủ một vùng đất gồm 22 làng với 2.600 xuất đinh ; cùng số ruộng nương trù phú ở Yên Thế.
Đề Thám xin cầu hòa mà… “chơi nước trên” với Pháp.
Trong lúc “lép vế”, Pháp đã nhận những điều kiện với hai điểm quan trọng trên.
Hay tin này, kiều dân Pháp, tư nhân cũng như người trong chánh quyền nhất là hàng quan binh trong quân đội viễn chinh đều tỏ lòng công phẫn.
Riêng các tướng lãnh cao cấp, như Đại tá Galliéni, đã từng dày công cầm quân đánh dẹp nghĩa quân, bất mãn nhà cầm quyền cao cấp Pháp hơn bao giờ hết.
Trong khi ấy, bên ngoài Đề Thám vẫn tỏ ra trung thành với Pháp nhưng bên trong cố gắng tăng cường lực lượng nghĩa quân kháng chiến một cách âm thầm nhưng mãnh liệt và rất tích cực…
Về phía hàng ngũ quân đội Pháp, các cấp chỉ huy cũng thừa hiểu mục đích thỏa hiệp của Thám. Chẳng qua đó là công việc tạm thời của kẻ đã có chí quyết làm cho nên việc.
Bởi vậy họ cũng đang chuẩn bị… Tạm thời rỗi rảnh, khỏi bận tay đánh dẹp miền Trung châu, họ tổ chức ngay một chương trình tấn công, nhưng không đổ máu, thật sâu rộng ở miền Việt Bắc dọc theo biên giới Việt Hoa.
Bên này, Đề Thám cũng không ngừng hoạt động. Song song với công cuộc âm thầm tăng cường lực lượng nghĩa quân ở Yên Thế Thượng, Thám lại tổ chức ngấm ngầm một lực lượng nghĩa quân nằm trong lòng địch, ngay trong hàng ngũ binh đội Pháp, để có dịp sử dụng ngón đòn nội công ngoại kích…
Năm 1895, con đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn đã hoàn thành. Xe lửa bắt đầu chạy để tiềp tế cho quân đội Pháp thường xuyên ở miền Thượng du.
Thế lực của quân đội Pháp càng ngày càng mạnh mẽ.
Vào tháng 4 năm này, đại tá Galliéni thân hành đi thanh tra các vùng từ Lạng Sơn tới Cao Bằng, rồi qua Bắc Kạn, xong xuống Chợ Chu, Thái Nguyên, tức cứ thanh tra vòng quanh vùng Yên Thế để tìm hiểu tình hình thật sự của nghĩa quân Đề Thám.
Sẵn thấy những đồn ải của Pháp quân ở những vùng này và gần biên thùy tuy xây cất cẩn thận bằng đá cây nhưng lợp lá, chắc chắn không thể nào an toàn khi nghĩa quân tấn công bằng súng đạn và tên lửa nên Đại tá liền hạ lệnh sửa sang lại cho chắc chắn hơn…
Địa điểm của đồn bót lại quá cách xa, Đại tá cũng ra lệnh xây cất thêm để phân binh đóng giữ chặt chẽ hơn.
Tất cả pháo lũy đều được xây cất lại bằng xi măng, đá và gạch cho chắc chắn. Thêm nữa, Đại tá cũng cho cất thêm đồn lũy để trấn những cửa ải tại biên thùy Hoa Việt như Nam Quang, Tà Lùng, Bản Cà, Thủy Khầu, Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Nà Giang, Sóc Trạng… để ngăn ngừa bọn Thổ phỉ qua lại mà đánh cướp hoặc tiếp tế cho nghĩa quân.
Bởi đạí tá nhận thấy rằng giữa bọn Thổ phỉ xuất xứ từ bên Tàu và nghĩa quân có liên lạc với nhau.
Đại tá đinh ninh rằng bọn này đã buôn lậu khí giới đạn dược hoặc buôn lậu tiếp tế cho nghĩa quân nên Đại tá lo chặn tiễu trừ bọn này trước nhất. Tiễu trừ được bọn này tức là cạch được những vây cánh quan trọng của nghĩa quân.
Vì vậy, Đại tá đã cho xuất công quỹ rất nhiều để chi tiêu vào những công việc sửa sang, xây cất thêm đồn lũy này…
Về phương diện chính trị, Đại tá mua lòng dân miền Thượng du và những dân tộc địa phương như Thổ, Thái, Mán, Nùng vân… vân… bằng cách:
1. Đại tá Galliéni đề nghị thuyên chuyển tất cả quan lại người Kinh tức là quan lại người Việt về miền đồng bằng và áp dụng chính sách “người nơi nào cai trị nơi đó”. Vì vậy, Đại tá đề nghị chọn người tài giỏi hơn hết trong mỗi dân tộc địa phương để cất nhắc lên làm quan cai trị cho địa phương mình. Như vậy, Pháp sẽ có những kẻ tay chân mới ở miền Trung châu và Thượng du.
2. Với đồng bào thiểu số ở Thượng du, Đại tá khuyến dụ và phát súng cho họ để mua lòng họ rồi xúi giục họ chống trả lại nghĩa quân.
Như vậy, Pháp sẽ có những tay sai mới rất đắc lực trong công việc thay Pháp nhảy vào cái chết hay là để giết nghĩa quân.
Pháp chỉ đứng ngoài mà nhìn và nếu cần, vào phút chót Pháp quân mới nhảy vào vòng chiến…
Trước kế hoạch này của Đại tá Galliéni, Yên Thế dù muốn dù không đã lọt vào vòng kiềm tỏa của Pháp quân cùng các tay sai của họ…
Vòng kiềm tỏa này càng ngày càng siết chặt thêm hơn.
Trong lúc đó Đề Thám ở Yên Thế đang làm gì?
Hiểu rõ Đại tá Galliéni đang thực hiện chương trình tấn công Yên Thế một cách lặng lẽ, Đề Thám cũng nghĩ ra một kế hoạch chống đối:
1. Đánh tan dần thanh thế và vòng kiềm tỏa của Pháp bằng những chiến lược:
a) Tổ chức những âm mưu táo bạo để phá hại sức mạnh ngay trong lòng địch.
b) Đột kích và xung kích các đồn bốt quan trọng tại các đô thị, dù nhỏ hay to…
2. Để thực hiện cho hoàn hảo những dự tính quan trọng nay, Thám đã tích cực lo lắng một lượt hai công việc như sau:
a) Củng cố chiến khu Yên Thế: Trước nhất Đề Thám lo mua sắm thêm các võ khí đạn dược tối tân của Đức ở bên Tàu.
Kế tiếp là tích trữ lương thực và quân nhu, đồng thời chiêu mộ thêm nghĩa quân, định rõ tài riêng mà phân cấp bực, ai là quân, ai là tướng chỉ huy cho phân minh trật tự.
Sau hết là xây đắp thêm pháo lũy bí mật ở trong rừng cho thật kiên cố và đào thêm những chiến hào ngầm ở dưới đất.
Mặt khác, cho người đi tuyên truyền hô hào đồng bào, dân chúng địa phương tích cực và mau lẹ tham gia công cuộc kháng Thực.
b) Phát triển những tổ chức kháng chiến trong lòng địch. Đề Thám đã dùng phương pháp địch vận trong công việc này. Một phần không ít lính khố đỏ và khố xanh trong binh đội Pháp đều ngã ngũ theo nghĩa quân.
Đồng thời, Đề Thám cũng khuyến dụ những thành phần bất mãn ở các địa phương cùng hợp tác quay về chống Pháp. Những thành phần bất mãn này, thí dụ như Đèo Văn Trí, cầm đầu dân tộc Thái, đã giúp cho Đề Thám rất đắc lực.
Mấy công việc địch vận và cũng cố chiến khu Yên Thế này một phần lớn Đề Thám nhờ ở tài giỏi giang, tháo vát rất đắc lực của người vợ thứ Ba tên là Đặng Thị Nhu.
Đề Thám “giằng co’’ với Pháp trong một thời gian thật là chật vật.
Bên ngoài mặt, lúc nào Đề Thám cũng tỏ vẻ thân hòa và cố giấu những vẻ hiềm khích với Pháp, dù trong một việc nhỏ nhặt nào. Nhưng, bên trong lòng vẫn không xao lãng công cuộc điều khiển nghĩa quân đánh cầm chừng các đồn bốt hay thỉnh thoảng đánh úp quân Pháp một vố khá đau.
Hễ gây được một cơ sở nào trong lòng địch thì Thám “ra tay” ngay, không bao giờ bỏ dở cơ hội.
Vào tháng 3 năm 1895, đêm 23, Đề Thám, sai Thống Luận chỉ huy một đoàn nghĩa quân chèo ghe (thuyền) đến tấn công đồn Phả Lại.
Xung quanh đồn này có một nhóm người Việt theo đầu Pháp, cất nhà ở khích đồn rất đông đảo.
Thống Luận cùng các nghĩa dũng quân đánh úp được đồn Phả Lại, đồng thời phóng hỏa đốt luôn những khóm nhà cửa của bọn Việt gian nói trên để cảnh cáo những người nhẹ dạ chạy theo lời khuyến dụ của ngoại nhân.
Đêm hôm đó, đồn Phả Lại lửa cháy rực trời, tiếng súng nổ vang dậy. Pháp quân chết nằm ngổn ngang như rạ.
Đàn bà, con nít bồng bế, dẫn dắt nhau, lớp kêu réo, lớp than khóc, chạy tán loạn cả lên…
Thật là hãi hùng.
Sau trận đánh úp đồn Phả Lại, nhóm người theo đầu lũ cướp nước mới giật mình tỉnh ngộ và kinh hãi.
Pháp quân cũng đặt lại trong tình trạng báo động luôn.
Đến đêm 30 tháng 4, cũng vào năm ấy, Đề Thám lại sai Đốc Thu cùng 12 nghĩa dũng quân tình nguyện xâm nhập vào Bắc Ninh.
Đốc Thu và 12 nghĩa dũng quân trá hình làm lính khố đỏ, tìm cách bắn chết được 3 viên chức của Pháp là:
1) Jean: Đội Hiến binh.
2) Verdene: lính Hiến binh.
5) Moulhoud: Nhân viên sở thương chánh.
Đến tháng 9 vào đêm 15, Đề Thám là sai Lĩnh Túc kéo quân dến làng Phú Liêm, ở gần Phủ Lạng Thương để cảnh cáo dân làng này vì họ ngoan cố không chịu tiếp tế lúa cho nghĩa quân…
Nghĩa quân đã đốt phá một số nhà cửa của những tên tay sai Pháp quân, đồng thời cũng xử thắt cổ một số đông bọn người Việt gian này…
Bắt đầu từ đấy, uy danh của nghĩa binh Đề Thám càng lúc càng lan ra sâu rộng.
Trước tình thế này, nhà cầm quyền Pháp không một phút nào quên theo dõi các hành động của Đề Thám.
Tuy Đề Thám luôn luôn chối cãi rằng không phải chính mình điều khiển những cuộc đột kích của nghĩa quân nói trên, nhà cầm quyền Pháp vẫn biết rõ Đề Thám chủ mưu. Lúc này, Đại tá Galliéni càng bất mãn các vị chỉ huy guồng mày hành chánh dân sự cao cấp hơn bao giờ hết.
Bởi, Đại tá đã nhiều lần đề nghị đặt khu Yên Thế vào khu quân sự, nằm thuộc vào quyền kiểm soát của quân đội do đại tá chỉ huy nhưng họ không khứng chịu nên bấy giờ mới xảy ra những vụ đột kích của nghĩa quân…
Hiểu rõ rằng thế nào Đề Thám cũng phản nghịch mà chống lại Pháp quân, không sớm thì muộn. Nhưng có điều chắc chắn là việc đó sẽ xảy ra bất ngờ.
Đại tá Galliéni muốn ra tay “hạ thủ” Đề Thám trước nhưng còn phân vân vì không hiểu rõ tình hình nghĩa quân tại Yên Thế hùng mạnh hay yếu kém về mặt nào.
Bởi vậy, Đại tá nhận thấy rằng cất quân đánh Đề Thám lúc bấy giờ có hại nhiều hơn là lợi.
Xem xét lại, tuy đã mất Lũng Lạt, Yên Thế còn có Kẻ Thượng (Ba Kỳ) là một căn cứ quan trọng thứ hai sau Lũng Lạt.
Nếu đánh Yên Thế, tức phải bọc hậu thì gặp ngay Kẻ Thượng, ở về phía Tây Bắc Yên Thế.
Muốn đánh thắng Yên Thế thì phải tiễu trừ Kẻ Thượng trước, như vậy Pháp quân sẽ tốn phí nhân lực và quân nhu rất nhiều.
Nhưng, dù thế nào, Đại tá Galliéni nhận thấy cũng không còn có thể dung túng Yên Thế được nữa.
Đại tá nhất định ra tay trước là hơn và giữa hai chiến khu Yên Thế và Kẻ Thượng, phải chọn mục tiêu là Kẻ Thượng trước.
Nếu tiêu diệt được mục tiêu này thì về sau Pháp quân tiến vào Yên Thế rất dễ dàng. Miền Tây Bắc Thượng Yên và phía Nam Bắc Kạn đã dọn dẹp sạch sẽ thì Yên Thế không còn là vùng đất bất khả xâm phạm và sẽ hạ Đề Thám không khó.
Tính vậy, Đại tá Galliéni liền thảo một kế hoạch để tiến quân vào Kẻ Thượng.
Trước nhất, Đại tá cũng tiến quân với ba cánh có hòa lực bén nhọn vào mấy ngả dưới đây:
1) Cánh thứ nhất từ Lạng Sơn lên Đồng Đăng, qua Phố Bình Gia cùng Châu Nà Rì rồi vào Kẻ Thượng.
2) Từ Thái Nguyên ngược lên Vũ Nhai, Chợ Mới rồi vào Kẻ Thượng.
Một thực trạng khác nữa mà Đại tá Galliéni đã được tin báo nên biết rõ:
Viên chỉ huy nghĩa quân ở Kẻ Thượng là Ba Kỳ đã chứa chấp đám tàn quân ở Lũng Lạt do Hoàng Thái Ngân điều khiển độ trước. Ngoài ra, Ba Kỳ hiện còn giam giữ ba tên Pháp kiều là Humbert Suz, Bonyer và Roty mà Hoàng Thái Ngân đã thả ra độ trước tại Lũng Lạt, trước khi các đoàn của Đại tá Galliéni vào tấn công.
Trước khi đi đánh dẹp Kẻ Thượng, Đại tá Galliéni liền vận động với nhà cầm quyền hành chánh Pháp để đề nghị đặt vùng này vào khu quân sự, dưới quyền kiểm soát đạo quân thứ hai của Đại tá.
Lời đề nghị này được chấp thuận ngay.
Được tin, Đại tá liền cất nhắc cân phân những điểm lợi hại một lần nữa rồi quyết định tấn công:
Nhưng, lần tấn công này không phải thuận lợỉ, dễ dàng như lần tấn công Lũng Lạt độ trước, vì Đại tá Galliéni vấp phải hai trở ngại đáng kể:
1) Lúc đó đã gần tới mùa suối nước ngập lụt khắp các vùng lân cận, công cuộc hành binh xuyên sơn không còn có thể thực hiện được nữa.
Muốn xúc tiến chương trình tấn công Kẻ Thượng, Đại tá phải gấp rút ra lệnh khởi sự tiến quân trong vòng một tháng trở lại thôi. Quá thời gian một tháng này, nước suối sẽ ngập lụt…
2) Kẻ Thượng lại ở gần sát bên hai địa phận của hai người đã qui thuận nhà cầm quyền Pháp: Đề Thám và Lương Tam Kỳ.
Nếu Kẻ Thượng bị lâm vào một tình thế nguy ngặt, trầm trọng rất có thể, không những Đề Thám mà luôn cả Lương Tam Kỳ đứng dậy để tiếp cứu.
Và cũng có thể liên kết với nhau mà chống trả lại Pháp quân thật kịch liệt để rồi khiến trận chiến lan rộng ra khắp cả miền Tây Bắc và Tây Nam Thượng du.
Lại phải suy đi tính lại một lần nữa.
Đại tá Galliéni có ý muốn dời cuộc tấn công Kẻ Thượng qua mùa Thu năm sau nhưng lại sợ vấp phải những trở ngại khác nữa.
Thứ nhất, Đại tá sợ nhà cầm quyền Pháp bằng lòng bỏ tiền ra chuộc mạng ba tên Pháp kiều bị bắt như đã từng khứng nhận với Đề Thám để chuộc mạng hai kiều dân Pháp tên Chesnay và Logion với giá 15.000 đồng thì Đại tá sẽ phải bị “bẽ mặt” không ít.
Bởi, trước sự việc này, nếu còn tái diễn ra nữa, Đại tá có thể nào tránh khỏi được dư luận đàm tiếu rằng làm tướng chỉ huy một đoàn quân viễn chinh rất hùng hậu của một đại quốc mà bất lực đến thế?
Hơn nữa vốn là người có nhiều thành tích về việc bình định nghĩa quân dũng cảm ở Soudan, nay Đại tá lại có thể cam lòng mà nhìn nghĩa quân Việt Nam “tác quái gỉỡn mặt”. Như vậy, hẳn mất mặt con nhà tướng của đất Pháp hùng cường lắm.
Thứ hai là, nếu không tấn công bây giờ, Đại tá sẽ bỏ lỡ cái dịp may để chiếm đóng dọc theo Sông Cầu mà thiết lập một con đường ăn thông giữa Phủ Thông và Thái Nguyên. Con đường đó sẽ vừa ngắn vừa tiện lợi, rất đắc dụng cho các cuộc hành binh sau này…
Sau nhiều lúc đắn đo, Đại tá Galliéni quyết định tiến quân đánh Kẻ Thượng với 3 phương cách.
1. Phải đánh chớp nhoáng và dồn dập.
2. Chỉ đánh 3 tổng thuộc vào địa phận của Ba Kỳ mà thôi, không nên đánh lan rộng hơn nữa.
3. Trước khi tác chiến, tất cả mọi khía cạnh trong cuộc tấn công này phải được chuẩn bị kỹ càng và đầy đủ hầu tránh trước những sự thiệt hại bất ngờ về bệnh tật và tên, đạn.
Vì vậy, Đại tá ra lệnh tiến quân vào ngày 11 tháng 4 và cho các cánh quân tham dự cuộc tấn công này hay rằng vào ngày 24 tháng 4 phải tập trung lực lượng đầy đủ ở Kẻ Thượng.
Được tin, nghĩa quân khắp các nơi lân cận đều vùng dậy trợ chiến với Kẻ Thượng…
Lúc bấy giờ tình hình chiến trận ở miền Thượng du thật là rối rắm…
Trong khi ba tổng thuộc Ba Kỳ vang dội tiếng súng vì Pháp quân tấn công, nghĩa quân gặp phải hỏa lực chống trả mãnh liệt của địch thì ở các vùng chung quanh nghĩa quân các nhóm khác nổi lên đánh lại các đồn bốt Pháp.
Cả miền Thượng du Bắc Việt khói lửa mịt mù và ngày đêm không dứt tiếng súng.
Lại nữa, từ ngoài biên thùy Tôn Thất Thuyết kéo một đoàn nghĩa binh, vốn là dư đảng Cần Vương đánh rát xuống Cao Bằng rất mãnh liệt.
Trong lúc đó, tại Yên Thế, Đề Thám mật sai một đoàn nghĩa quân hỏa tốc lên Chợ Chu để gặp Lương Tam Kỳ, đồng thời hợp với lực lượng quân đội của tướng giặc Tàu họ Lương này mà chặn đánh Pháp quân tại các đường tiếp vận của họ tức là chặn đánh ở phía sau lưng các cánh quân Pháp tấn công vào Kẻ Thượng. Các con đường đó như sau:
1. Phía Bắc Phố Bình Gia, con đường qua Kẻ Thượng.
2. Ở Lũng Két, khoảng giữa Cao Bằng, con đường qua Phủ Thông.
Đồng thời nhóm nghĩa binh nói trên cũng đánh bật Pháp quân ở Cốc Tẻm và Lũng Táo.
Đại tá Galliéni nghe tin, điếng hồn liền ra lệnh cho Trung tá Vallière đang ở Cao Bằng phải chặn đánh tất cả các đoàn nghĩa quân đang trợ chiến với Kẻ Thượng ở bên ngoài đó, để cho cuộc tấn công của Đại tá vào Kẻ Thượng được dễ dàng và có thể đến mục tiêu đúng ngày giờ như kế hoạch đã định.
Được lệnh, Trung tá Vallière thi hành ngay lập tức… Các căn cứ rải rác ở khắp miền biên giới của Pháp quân bắt đầu nổ súng… Cuộc đánh vòng đầu đã khởi diễn… Một ít nhóm nghĩa quân bị đánh rát tới và bị Pháp quân đánh bật ra khỏi “vòng chiến nguy hiểm”, đành phải rút lui mau lẹ.
Nhận thấy tình hình bắt đầu gay go, Lương Tam Kỳ bổng đổi ý, không hợp tác tích cực với nghĩa quân Đề Thám nữa, liền cho quân của mình rút lui về Chợ Chu để giử thế “trung lập”.
Về phía Đề Thám, sau khi thấy Lương Tam Kỳ cho rút quân, viên thủ lãnh nghĩa quân ở Yên Thế giật mình.
Nghĩ ngợi xa đến ‘‘mục đích và chí cả của mình ở các đô thị lớn và ở miền Trung châu’’, Đề Thám liền hạ lệnh cho nghĩa quân án binh bất động để đợi chờ…
Chỉ trong tức khắc, Kẻ Thượng bị cô lập ngay.
Cũng gặp trường hợp của Lũng Lạt, Kẻ Thượng bị Đại tá Galliéni xua ba cánh quân từ ba mặt, trèo núi xuyên rừng ào tới đánh úp vào khu trọng tâm pháo lũy của nghĩa quân.
Thêm nữa, Đại tá cho đặt những cổ trọng pháo từ trên núi cao nã xuống khu pháo lũy của nghĩa binh dữ dội như trời long đất lở để dọn đường cho các toán bộ binh xung phong ào tới. Các lô cốt của nghĩa quân kế tiếp nhau nổ vỡ tung lên… xác người văng tung tóe lên trên mặt đất như xác pháo…
Lửa đỏ bắt đầu bốc cháy dữ dội… Từ các dãy trại, hầm núp lợp lá đến cây rừng kế tiếp làm mồi cho thần hỏa tung hoành.
Nghĩa quân bị tấn công rát quá, hoảng chạy tán loạn cả lên như ông vỡ tổ… Lúc này vào khoảng 4 giờ sáng ngày 24 tháng 4 năm 1895.
Pháp quân cẩn thận tiến sâu vào “sào huyệt” của nghĩa quân rất chậm… Nhờ đó, nghĩa quân có đủ thì giờ rút lui từng tốp nhỏ.
Gần sáng trắng, Đại tá chỉ huy trưởng (tức Galliéni) của Pháp quân ra lệnh thổi kèn hiệu: “xung phong” thì nghĩa quân đã thoát thân ra khỏi vòng vây của Pháp.
Kiểm soát lại trên chiến trường, Pháp quân tóm được một lá cờ của đoàn Cần Vương Nghĩa đảng và nhận thấy nghĩa quân rút lui bỏ lại chiến trường 50 người tử thương.
Trong số nay có một bộ tướng đắc lực của Ba Kỳ là Lĩnh Nguyên, tử trận ở Hòa Mục. Bao nhiêu nghĩa quân còn sống sót đều chạy chết, tản mác khắp nơi…
Đánh trận này, Đại tá Galliéni tự nhận thấy sự chiến thắng của Đại tá có những ưu điểm không thua gì trận đánh Lũng Lạt.
Còn hơn nữa, Pháp quân đã giải thoát được một đồng bào của mình tên là Sabot, đã bị nghĩa quân bắt cóc từ trước…
Đại tá hãnh diện rằng đã đem về một thắng lợi vẻ vang cho quân đoàn của Đại tá là nhờ có cuộc tấn công như sóng gió này mà nhà chức trách hành chánh dân sự Pháp khỏi phải tốn tiền đưa cho nghĩa quân để chuộc mạng như mấy lần trước…
Như vậy, Đại tá đã “trả lời” được những điều mà Đại tá đã đề nghị nhưng nhà hữu trách hành chánh dân sự Pháp chẳng những cố ý làm ngơ lại còn bác bỏ với một thái độ khó chịu.
Hôm ấy, lại là ngày lễ sinh nhật của Đại tá… Đại tá tổ chức một cuộc lễ ăn mừng thắng trận vừa mừng ngày lễ sinh nhật tốt đẹp của mình tại một địa điểm đóng quân trong rừng sâu…
Trong lúc đó, Đề Thám đang bực tức ở Yên Thế và đang bù đầu với một kế hoạch mới.
Vài ngày sau, Đại tá Galliéni nhận được một tờ giấy của Thống tướng DUCHEMIN gửi tận vào rừng sâu và say sưa đọc:
“Quan Toàn quyền đã hân hoan vui thích về cuộc tấn công xảy ra ở Kẻ Thượng.
Ngài cùng chia chung nỗi xúc động của báo chí và giới công chức đã chống lại cuộc tấn công này.
Những kết quả gặt hái được, rất đúng y như chúng ta dự đoán đã khiến cho Ngài vô cùng cảm động và tin tưởng ở chúng ta hơn bao giờ hết…
Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 1895
Ký tên: Thống tướng DUCHEMIN”