CHƯƠNG IX Con đường tàn lụn- của Thủ lãnh nghĩa quân Yên Thế
NHƯNG …
Thật sự Đề Thám về sau lại tập trung tất cả lực lượng Nghĩa Hưng còn lại ở Phủ Lỗ… Hơn nữa, nghĩa quân còn bắt cóc được một Pháp kiều tên là Voisin…
Tin này tung ra, Pháp quân lại một phen giật nảy mình… và trong lúc này, Đề Thám có nhờ Đức giám mục Velasco ở địa phận Bắc Ninh gửi thư cầu hòa nhưng Toàn quyền Klobukowski không chấp thuận.
Ở Hà Nội, những kiều dân Pháp lo sợ nơm nớp, ngày lẫn đêm với tin nghĩa quân đã bắt được Voisin. Họ lại sợ đến lượt mình chịu số phận như Voisin…
Phủ Toàn quyền Đông Dương liền ra lệnh cho Thống tướng Tổng Tư lệnh quân đội thời bấy giờ tên là Geil phải cất quân một lần nữa. Lần này Pháp quân hành binh với hai mục đích:
1) Tiêu diệt toàn lực nghĩa quân Yên Thế và đảng Nghĩa Hưng cho bằng được.
2) Giải thoát cho Voisin cấp tốc.
Nhận được lệnh, Thống tướng Tổng tư lệnh lại giao phó cho Thiếu tá Chofflet quyền chỉ huy cuộc hành quân này.
Thiếu tá Chofflet đã từng nổi danh là một tên khát máu vào bậc nhất trong đoàn quân viễn chinh Pháp.
Ngày 12 tháng 7 cũng năm ấy, Toàn quyền Klobukowski thay vì thương thuyết lại gửi cho Đề Thám một bức thư đầy hăm dọa, với thái độ của một kẻ thất phu: “Thả Voisin ra, ông sẽ được toàn mạng, bằng không…”
Trong lúc đó, Thiếu tá Chofflet đang tập trung quân lực ở Phúc Yên…
Bên nghĩa quân Đề Thám vẫn không nao núng, tuy rằng người vợ thứ ba của ông lúc là Cô Ba, cùng với một số bộ tướng đã hết sức khuyên Đề Thám nên thả Voisin ra.
Đến ngày 14 tháng 7, Pháp ra lệnh cho Thiếu tá Chofflet tấn công một địa điểm ở làng Lai mà Đề Thám đang tập trung lực lượng, nhưng khi Thiếu tá Chofflet dẫn quân tới thì lại không gặp một “mống” nào.
Tức giận, Thiếu tá Chofflel bắn chết viên Lý trưởng và Phó lý của làng này cho… bõ ghét
Thì ra, Đề Thám rất khôn ngoan luôn luôn di động quân lực, không bao giờ ở lâu một chỗ. Dù cho đêm ngày hay mưa nắng khổ cực cũng vậy.
Lúc đó, đám tàn quân của Đề Thám chỉ còn có:
1) 24 khẩu súng trường Lebel
2) 20 khẩu súng trường Gras
3) 10 khẩu súng nhẹ hiệu Winschesler
4) 10 khẩu súng nhẹ đủ kiểu khác
5) 10 khẩu súng tay hiệu Mauser
6) 4 khẩu súng lục liên,
7) 2 khẩu súng tay Browning.
Cùng với một số súng hư mới sửa chữa lại tàm tạm, không tốt gì mấy.
Đám tàn quân này thường lẩn lút trong hai vùng nam Thái Nguyên và Phúc Yên.
Pháp quân lúc nào cũng rượt theo bén gót. Đi tới đâu, Thiếu tá Chofflet cũng bắn giết và tra khảo đày đọa dân chúng lương thiện.
Khổ một nỗi, Voisin cố tình đi chậm lại, nghĩa quân tức giận phải quật ngã hắn xuống rồi trói gò hắn lại mà cáng đi…
Vào ngày 22 tháng 7, Đề Thám dẫn quân vào làng Xuân Lai để đóng quân và kiếm thêm lương thực… Lúc này, nghĩa quân phải khổ sở hơn bao giờ hết.
Vì Thiếu tá Chofflet tàn bạo quá đỗi, hễ làng nào có nghĩa quân đi qua là làng đó bị bắn giết, đốt phá kinh hồn.
Bởi vậy không làng nào dám tiếp cứu và đón rước quân Đề Thám. Khi ở làng Xuân Lai thì quân Đề Thám lại bị Thiếu tá Chofflet kéo quân đến bao vây và tấn công bất ngờ.
Ở trong làng có một tên điểm chỉ vỉên tay sai của Pháp, nên khi Đề Thám vừa đến là nó báo cho Chofflet biết ngay.
Trận chiến ác liệt kéo dài từ sáng tới chiều tối, Hai bên đều ghìm nhau. Pháp không tiến nổi mà nghĩa quân cũng không lui được.
Pháo binh Pháp vẫn hoạt động mạnh mẽ, nhưng không làm gì quân Đề Thám được bởi bị mắc mưu Đề Thám liên tiếp cả ba phen.
Hễ mỗi khi pháo binh Pháp bắn dọn đường cho các đội tân binh tiến tới thì Đề Thám chĩa súng vào họng Voisin, bắt hắn phải la to cho Thiếu tá Chofflet nghe rõ được:
- “Đừng bắn nữa! Ông Đề Thám đã ưng thuận đầu hàng rồi!”
Tiếng nổ của trọng pháo vừa dứt, tân binh được lệnh nhào tới tước khí giới của “loạn quân” thì đã nhận lãnh ngay những loạt đạn bắn tới tấp như mưa.
Lần thứ nhì và lần thứ ba, quân Pháp cũng mắc mưu Đề Thám tương tự như vậy.
Sau ba lần đó, Pháp quân thiệt hại quân lính hết sức nặng nề nên không dám tiến quân nữa.
Đến sáng ngày 23 thi viện binh Pháp từ Đại Phúc lại kéo lên tới, nhưng nghĩa quân đã rút lui tự bao giờ mà quân của thiếu tá Chofflet không một ai phát giác được.
Thì ra, ngay nửa đêm hôm đó, nghĩa quân đã âm thầm phân tán từng nhóm nhỏ rút lui nhanh nhẹn và êm thấm ra khỏi làng rồi tập trung lại ở một địa điểm nọ trên các bờ đê rồi giả làm các toán lính thuộc địa vừa bắn vào làng Xuân Lai như mưa bấc vừa la hét om sòm một hồi rồi mới chịu rút lui.
Trong lúc đó, quân của Thiếu tá Chofflet mắc kế nghĩa quân và chỉ chú trọng có cái cổng làng nên cứ mải canh chừng ở mặt này, để cho nghĩa quân rút lui mà không hay.
Đến sáng sớm ngày 25, Đề Thám mới suy nghĩ kỹ và phóng thích Voisin đoạn kéo quân về làng Hiền Lương.
Nhưng mới có 6 giờ sáng thì đồn Pháp ở làng này đã hay tin. Thiếu tá Chofflet được cấp báo liền thân hành chỉ huy một đoàn binh xung phong tới đánh ngay tức khắc.
Hai bên chạm trán nhau dữ dội.
Kết quả sau hai đợt xung phong của Pháp: Thiệt hại nặng nề với sĩ số: Đại tá Perthuis cùng với 13 tên lính Pháp tử trận và 20 tên lính Pháp khác bị thương nặng nhẹ.
Toàn quyền Klobukowski nhận thấy quân đội Pháp đã đánh quân Đề Thám mãi mà vẫn không tiêu diệt được, hơn nữa lại hao binh tổn tướrg rất nhiều.
Ông ta xoay qua nước cờ khác.
Ông muốn “Gà nhà bôi mặt đá nhau” cho vui hơn.
Vì vậy, Toàn quyền Klobukowski buộc triều đình Huế phải phong cho tên Việt gian khát máu Lê Hoan, Tổng đốc Bắc Ninh, làm Khâm sai đại thần để cầm quân Nam triều đánh “loạn quân” Đề Thám, thay cho Pháp quân.
Triều đình Huế, vì áp lực của thực dân, nên nghe theo.
Bởi đó, vào ngày 30 tháng 7, Tổng đốc Lê Hoan đến Phúc Yên với 400 tên lính để nhận ấn và mệnh lệnh của triều đình Huế, trước sự hiện diện của Thống tướng Tổng tư lệnh qnân đội Geil và Thống sứ Bắc Kỳ Miribel (vừa được thăng chức).
Bắt đầu từ đó, Pháp quân đã rảnh rang mà ngồi nhìn cảnh “nồi da xáo thịt”.
Khâm sai đại thần Lê Hoan lên cầm binh quyền để “tiễu trừ phiến loạn” lại tàn ác không thua gì Thiếu tá Chofflet… Những vùng có nghĩa quân đi qua, dân cư đều bị Lê Hoan lên án tại chỗ rồi đem ra xử bắn. Già trẻ, trai gái gì Lê Hoan cũng không tha.
Tất cả những vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Yên và Phúc Yên đều tràn ngập “biển máu”. Toàn thể bao trùm một màu thê lương, ảm đạm. Dân tình ta thán… Tiếng khóc than nguyền rủa dậy trời đất…
Về sau, Bonifacy được nhà cầm quyền quân sự cử lên thay thế cho Thiếu tá Chofflet chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp.
Bonifacy cùng với Lê Hoan ngày đêm cùng hợp nhau đánh rát vào nghĩa quân và dồn nghĩa quân vào ngõ bí.
Ngày 24 tháng 10, Cả Kinh tới nước đường cùng phải ra đầu thú. Kế tiếp, Cả Dinh lại trúng kế Lê Hoan ra đầu hàng Pháp với 6 người tâm phúc đầy đủ võ khí.
Đến ngày 20 tháng 11, Cai Sơn cũng không thể tiếp tục chiến đấu được nữa nên đầu hàng cùng với 78 nghĩa quân khác.
Đề Thám và Cô Ba mang tàn quân về đóng quanh vùng Chợ Gò, Mõ Tràng và Đình Tập giữa chốn rừng sâu.
Quân Pháp vẫn theo dõi Đề Thám từng bước chân. Không một nơi nào mà chúng không lục soát kỹ.
Trong một cuộc loạn chiến, Cô Ba bị Pháp quân bắt được cùng với đứa con gái nhỏ tên là Hoàng Thị Thế.
Đề Thám cùng với hai tên tâm phúc may mắn chạy vuột khỏi.
Đến ngày 9 tháng 12 năm 1909, đoàn binh của Bonifacy giải tán.
Rồi ngày 28 tháng 2 năm 1910, chính phủ Bảo hộ Pháp tuyên bố chấm dứt cuộc bình định “loạn quân”.
Nhưng, con hùm Yên Thế vẫn còn sống và đang ở ngoài vòng cai trị của Pháp.
Tháng 7 năm 1911, Đề Thám trở về rừng Thượng Yên. Được tin, Pháp quân lại phải điều động binh mã một lần nữa đến bao vây một ngọn đồi gần Yên Thế.
Một cuộc chạm trán đã xảy ra.
Kết quả: bên Pháp quân 7 người bị trọng thương và 5 người chết.
Còn Đề Thám?
Vẫn trốn thoát được!
Đến ngày 12 tháng 3 năm 1912, Đề Thám có gửi cho viên Công sứ Nhã Nam là Bouchet một phong thư để xin quy thuận. Bouchet trả lời không chấp thuận rồi đem quân truy nã gắt.
Đến hạ tuần tháng 6, Đề Thám lại gửi lên chính phủ Pháp một lá thư cầu hòa khác nữa. Quan Toàn quyền bấy giờ là Albert Sarraut cũng trả lời rằng “không”.
Đồng thời, Toàn quyền Albert Sarraut cũng ngăn cản, không cho viên Công sứ Nhã Nam là Bouchet cất quân diệt trừ Đề Thám khi viên Công sứ này đã tìm được căn cứ của Đề Thám.
Tại sao?
Tại vì Albert Sarraut đã tìm ra một mưu kế độc ác.
Sau một lúc tham luận với viên Thống sứ Bắc Kỳ thời bấy giờ là Desteny và viên Giám đốc Chính trị vụ Phủ Toàn quyền, Albert Sarraut liền phái một thuộc hạ là Bosc lên chợ Chu tìm tên giặc khách Lương Tam Kỳ.
Albert Sarraut hạ lệnh thưởng Lương Tam Kỳ 25.000 đồng, nếu Lương Tam Kỳ hạ được Đề Thám.
Tên giặc khách này nhận lời ngay.
Lương Tam Kỳ là một kẻ đi nước đôi. Trước kia theo Đề Thám, nhưng sau này lại ngã về Pháp quân, lấy tin tức của nghĩa quân mà bán cho Pháp.
Trong lúc đó, Đề Thám không ngờ…
Ngày 10 tháng giêng năm 1913, Lương Tam Kỷ phái ba tên bộ hạ tâm phúc vào rừng Thượng Yên. Ba tên này tự nhận là người của phong trào cách mạng Trung Hoa gửi đến để giúp Thám…
Tuy chúng xuất trình những giấy tờ giả mạo giống như thật, Đề Thám vẫn nghi ngờ và không tin dùng ngay.
Ba tên này ngày đêm theo dõi rình rập Đề Thám để chờ dịp ra tay.
Một hôm, thấy thái độ khả nghi của chúng, Đề Thám liền nói với nghĩa bóng cho hai người tâm phúc của mình hiểu:
- Ở đây có ba cái cây to làm trở ngại con đường đi, hai anh hãy chặt đi, cây lớn trước rồi cây nhỏ sau cho con đường được thông suốt.
Tuy vậy, ba tên bộ hạ của Lương Tam Kỳ cũng hiểu được và bàn nhau ra tay trước.
Đêm 9 tháng 2, Đề Thám bày mâm đèn ra hút và sai hai kẻ tâm phúc của mình ra canh chừng trước cửa.Lúc bấy giờ Đề Thám ở cách Chợ Gò khoảng hai cây số.
Đến 5 giờ sáng, một tên trong bộ ba tay sai Lương Tam Kỳ trở mình rồi bò nhè nhẹ đến bên giường Đề Thám, trong lúc hai tên kia bò lại gần bên người canh gác và lẹ làng ra tay.
Nghe tiếng động, Đề Thám vội móc súng lục ra nhưng đã trễ. Tên giặc kia đã nhanh tay dùng cuốc bổ mạnh vào ba sườn Đề Thám một cái như trời giáng.
Tiếp theo, những nhát búa khác vùn vụt sa xuống cần cổ Thám.
Bên ngoài, hai tên tâm phúc của Thám cũng chung số phận với chủ tướng, lãnh hai con dao cắm phập vào chỗ yếu, tắt thở theo chủ tướng.
Qua ngày hôm sau, ba tên bộ hạ của Lương Tam Kỳ, đứa ra tay hạ sát Đề Thám tên là Ly Seng Kông xách ba cái đầu còn đầy máu tươi đến dinh của Bouchet ở Nhã Nam trình diện lãnh thưởng.
Thế rồi, trong ngày đó, Bouchet đã cho bêu đầu của Đề Thám cùng với cái đầu của hai kẻ tâm phúc kia ở ngoài chợ Nhã Nam.
Tới đây, cuộc kháng chiến của nghĩa quân Yên Thế và đảng Nghĩa Hưng mới chấm dứt hẳn.
Đề Thám! Người đã để lại hậu thế những bài học kháng chiến quí giá và một tinh thần bất khuất đáng ca tụng
HẾT