CHƯƠNG VIII Vụ đầu độc lính Pháp với những án lịnh-khắc nghiệt của Hội đồng Đề Hình Pháp
THẤT bại liên tiếp mấy lần, đảng Nghĩa Hưng vẫn không nao núng.
Đề Thám lại tiếp tục tổ chức một cuộc nổi dậy khác trong nội thành quân đội Pháp. Lần này, đảng Nghĩa Hưng được lệnh của Đề Thám phải chuẩn bị một kế hoạch tấn công Hà Nội cho thật kỹ lưỡng.
Không như mấy lần trước, lần này Đề Thám ra lệnh cho đảng Nghĩa Hưng phải tổ chức như sau:
1) Phải đầu độc quân lính và sĩ quan Pháp trước khi nghĩa quân từ bên ngoài xung phong vào tấn công.
2) Quân lính và các đảng viên Nghĩa Hưng nằm trong lòng địch phải chịu dưới quyền chỉ huy của các cán bộ nồng cốt của nghĩa quân. Có như vậy, cuộc nổi dậy mới có kết quả tốt.
Những cán bộ nòng cốt này là những viên lãnh binh ở Yên Thế do Đề Thám phái về Đô thành trước ngày nổi dậy.
Kế hoạch đã vạch rõ cuộc nổi dậy sẽ chính thức bắt đầu từ 9 giờ đêm hôm 27 tháng 7 năm 1908, tức là hai tháng sau cuộc nổi dậy trước.
Đêm đó, đúng giờ đã qui định, Cai Ngà sẽ lãnh nhiệm vụ bắn ba phát súng đại bác làm lệnh tiến quân rồi hợp lực với Cai Hiền dẫn quân lính xông tới tấn công mặt thành ở cửa Bắc.
Lúc ấy ở mặt Cầu Giấy, một nhóm nghĩa binh đã trấn thủ sẵn từ trước, khi nghe tiếng súng lệnh sẽ tung mình ra, tấn công mãnh liệt vào thành, xung phong chiếm lất cả doanh trại cùng đoạt lấy tất cả súng đạn ở trong kho.
Cùng một lượt với hai mặt kia, Đội Hỗ sẽ cùng với Đội Đàm dẫn binh ào tới trợ giúp. Đội Hỗ và Đội Đàm sẽ thâu hết toàn lực mà tiễu trừ trước những đội binh pháo thủ Pháp ở gần Trại lừa và các cỗ đại bác để cướp giống thú vật và loại súng nặng nề này mà kéo ra trấn giữ ở Cầu Giấy và Cầu Doumer (cầu Long Biên ngày nay)…
Nơi đây, hai đoàn quân của Đội Hỗ và Đội Đàm có nhiệm vụ phải chặn đường và đánh lui tất cả tiếp viện binh của Pháp quân từ các mặt Bắc Ninh, Sơn Tây và Hải Phòng kéo tới.
Trong lúc đó, một toán lính khố đỏ nổi dậy khác sẽ kéo ra trấn giữ ở mặt bãi Phúc Xá đồng thời cũng đốt phá tất cả những khu dân sự Pháp.
Thêm nữa, một toán nghĩa binh rất đông đảo và hùng hậu sẽ mau lẹ đánh vào mặt nhà ga Gia Lâm rồi sẽ đốt phá nhà ga này cùng với Trung tâm điện tín của Pháp cho tiêu tan đi…
Kế hoạch đã vạch định rất kỹ lưỡng như vậy, chỉ còn đợi tới ngày khởi sự.
Nhưng, lại vấp phải một trở ngại ngay lúc ban đầu. Trong đêm 26, Dương Bé, một vị chỉ huy lính khố xanh tham gia vào cuộc nổi dậy, triệu tập ngay một cuộc hội nghị bất thường ở ngay trong trại lính.
Dương Bé trao cho tất cả mọi người ám hiệu để liên lạc với nhau, đồng thời giao cho bốn người giúp việc ở câu lạc bộ hạ sĩ quan Pháp nhiệm vụ bỏ độc dược vào tất cả đồ ăn của hạ sĩ quan Pháp…
Nhưng, tất cả mọi người đều kinh hãi, không ai dám nhận lãnh việc làm táo bạo này, khiến cho Dương Bé phải tức giận đòi trừng phạt tất cả những người nào không đủ can đảm mà trốn tránh trách vụ.
Sự kiện này đã khiến xảy ra một vụ phản nghịch vào ngày chót, suy ra, cũng vì lỗi Dương Bé quá nóng tính, khiến cho nhiều người kinh hãi.
Vào 9 giờ rưỡi sáng ngày 27 tháng 6, một tên lính khố đỏ từ ngoài chạy vào văn phòng của viên Trung úy chỉ huy Đệ lục bộ đội Công binh tên là Delmonl để báo tin nghĩa quân sắp tấn công cho viên chỉ huy Pháp này nghe. Đồng thời hắn cũng kể tất cả kế hoạch cuộc tấn công của nghĩa quân và cuộc nổi dậy của lính khố đỏ sắp tới cho viên sĩ quan Pháp này nghe.
Sau đó, để được an toàn tính mạng, hắn xin Trung úy Delmont hãy giả vờ tống giam hắn vì một tội nào đó, để hẳn khỏi bị nghĩa quân hay Dương Bé xử tội phản nghịch của hắn.
Trung uý Delmont chấp thuận và hạ lệnh tống giam hắn ngay.
Thấy hắn bị giam, ba tên lính cùng với hắn giúp việc ở Câu lạc bộ hạ sĩ quan đã được Dương Bé giao phó công việc đầu độc Pháp quân đêm trước, tưởng cơ mưu đã bại lộ nên đâm hoảng lên.
Họ liền chạy tìm một Đức cha trong Trại để xưng tội. Chết nỗi, Đức cha này lại chạy đi báo cáo với vị Tư lệnh quân lực ở Hà Nội về những điều mà cha đã nghe được do ba tên lính khố đỏ kia đã xưng tội.
Trong lúc đó, Trung úy Delmont cũng đã cấp báo tin này trực tiếp lên thượng cấp của y.
Ngay trong buổi sáng hôm đó, Thống tướng Piel nhận được hai nguồn tin, nhưng lại khác nhau…
Tuy vậy, Thống tướng cũng ra lệnh thẳng tay đàn áp.
Cũng trong buổi sáng ngày hôm đó, từ Yên Thế vào Hà thành, Đội Hỗ có đem theo bốn lá cờ để treo ở bốn góc thành cùng với một số giấy tờ chứng minh để cấp cho quân lính và dân chúng đã tham dự vào cuộc tấn công Pháp quân hôm đó.
Đến 6 giờ chiều, Cai Ngà đã phân công tác xong cho từng đơn vị.
Một nhóm đầu bếp khác được chỉ định, thay thế mấy người đã được chỉ định trước, lãnh trách nhiệm đầu độc Pháp quân.
Tất cả mọi việc đều xong xuôi, có vẻ tốt đẹp như ý.
7 giờ tối, bên ngoài thành Hà Nội, các đơn vị nghĩa quân xung phong của Yên Thế đã đến và tiến lên mai phục sẵn sàng ở khắp các bờ ruộng.
Ven sông Hồng và bên bờ Hồ Tây, cũng có đầy rẫy những thuyền đậu san sát nhau… Đó là những thuyền chở đầy nghĩa binh, còn ẩn núp ở trong đó.
Đồng thời Xã Tuân cũng chỉ huy một đoàn gồm có 30 tay súng mai phục sẵn ở các kho bạc.
Trong lúc đó, bọn hạ sĩ quan và binh sĩ Pháp đang ăn uống nô đùa dữ tợn vì chưa hay biết gì…
Một lúc sau, Thiếu lá Grimaud nhận được tin cấp báo: hơn 200 lính Pháp thuộc Đệ tứ binh đoàn pháo binh và Đệ cứu binh đoàn thuộc địa đã ngộ độc.
Còi báo động thổi lên. Pháp quân phản ứng ngay và bắt ngay ba viên hạ sĩ người Việt thuộc đại đội công binh chiến đấu.
Kế tiếp, các đơn vị Pháp quân được lệnh phải chia nhau chiếm đóng tại các trung tâm chiến lược ở khắp trong thành phố cùng đóng giữ nhà máy điện.
Thấy Pháp quân đã bố phòng, biết công việc đã bại lộ, Cai Ngà cùng mấy người đầu bếp đầu độc quân lính Pháp đã lẹ làng tìm nơi trốn lánh.
Các đoàn nghĩa quân và dân chúng khởi nghĩa cũng được lệnh rút khỏi các vị trí đang đóng giữ.
Pháp quân xúc tiến ngay công việc bố ráp “loạn quân”. Một số cán bộ nòng cốt bị bắt ngay lại trận.
Cuộc nổi dậy đã bị chặn bẹp ngay từ lúc mới “ngóc cổ” lên.
Kế hoạch đánh chiếm thành Hà Nội của nghĩa quân đã trở thành mây khói. Lính Pháp ngộ độc chỉ xoàng thôi và không một người nào chết. Chỉ có một vài tên mất trí thôi nhưng vẫn chạy chữa được. Một tên khác vì ăn nhiều nên điên dại, xé tanh bành cả quần áo rồi leo lên xe đạp vừa chạy như bay trong thành phố, vừa la hét om xòm…
Pháp quân phải chạy theo rượt hắn sôi nổi lắm mới bắt hẳn trở lại được. Và cuộc nổi dậy chỉ có kết quả đến thế.
Trong số cán bộ nòng cốt, nghĩa quân và lính khố đỏ nổi dậy bị Pháp bắt được có: Đội Bình, Chánh Song, Đội Hỗ, Cai Ngà, Lang Seo, Đồ Đàm, Cai Tốn, Tú Bình, Dương Bé, Đội Nhàn, Bếp Xuân, Cai Lệ, Lái Vinh và Lái Hiền.
Ngàv 26 tháng 6 năm 1909, chính quyền Pháp nhóm họp Hội đồng Đề hình để xử tội những người tổ chức cuộc bạo động vào đêm 27 tháng 7 năm 1908.
Cuộc nhóm họp Hội đồng này đã kéo dài đến ngày 27 tháng 11 năm 1909.
Thành phần Hội đồng này gồm có:
1) Thanh tra dân sự vụ Miribel ngồi ghế chánh thẩm.
2) Công sứ Hà Đông Duvillier, ngôi ghế phụ thẩm dân sự.
3) Đại úy Villain, thuộc binh chủng pháo binh thuộc địa, ngồi ghế phụ thẩm quân sự.
4) Grilaut de Fontaines, Uỷ viên cộng hòa Tòa Thượng thẩm Hà Nội…
Kết quả bản án được công bố như sau:
1) 12 án tử hình gồm có: Lang Seo, Đội Hỗ, Đồ Đàm, Cai Ngà, Cai Tốn, Tú Bỉnh, Dương Bé, Đội Nhàn, Bếp Xuân, Cai Lệ, Lái Vinh và Lái Hiền đều bị xử chém.
2) 6 án tử hình khiếm diện.
3) 4 án chung thân khổ sai.
4) 26 án tội độ từ 5 đến 20 năm.
5) 10 án tù từ 1 năm đến 5 năm.
Sau cuộc mưu toan đột kích thành Hà Nộí, thất bại vào cuối tháng 7 năm 1908, đảng Nghĩa Hưng dần dần suy sụp bởi một số lớn cán bộ nòng cốt của nghĩa quân đã bị Pháp bắt được.
Người thì bị xử chém, kẻ thì bị tra khảo chết, còn một số thì bị tù đày, Một số khác đã lạc lõng chạy ẩn náu khắp nơi… thành ra, thế lực mỗi ngày một tàn tạ đi.
Những cái án của Hội đồng Đề Hình Pháp cũng đã khiến cho một số đông dân làng ở vùng Yên Thế kinh hoảng rồi chạy ra đầu hàng Pháp.
Vì vậy, số phận nghĩa quân Yên Thế đã đi vào một ngỏ không có lối thoát.
Không biết làm thế nào hơn, Đề Thám lại phải viết thư cầu hòa với Pháp một lần nữa để mà lần lựa mưu đồ lại cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ.
Thư cầu hòa của Đề Thám được vị võ quan cai trị ở Nhã Nam chuyển đệ lên vị Toàn quyền Pháp tại Đông Dương lúc bấy giờ tên là Klobukowki, nhưng vị Toàn quyền này từ chối,
Vì ngày 26 tháng 6 năm 1908 (1 tháng trước ngày đảng Nghĩa Hưng đầu độc quân lính Pháp ở Hà Thành và âm mưu đánh chiếm Hà Thành), Toàn quyền Klobukowski đã quyết định tiêu diệt đảng Nghĩa Hưng và trừ khử tất cả gốc rễ của đảng này tức là nghĩa binh cùng Đề Thám ở Yên Thế.
Trước ngày tổng tấn công Yên Thế một hôm tức là vào ngày 28 tháng giêng năm 1909, tức ngày mùng 7 tháng giêng, niên huy Duy Tân thứ ba, Toàn quyền Klobukowski ra lệnh cho viên Thống sứ Bắc Kỳ dán yết thị khắp cả 4 tỉnh lân cận Yên Thế là Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Phúc Yên để tuyên cáo với dân chúng và kể tội Đề Thám đã cầu hòa mấy lần mà vẫn tiếp tục công việc chống cự và phá hoại chính quyền Pháp.
Ngày hôm sau tức là ngày 29 tháng 1 năm 1909, Toàn quyền Klobukowski ra lệnh huy động tất cả lực lượng quân mã để tấn công Yên Thế.
Lúc này, Đề Thám có con trai lớn là Cả Trọng hết lòng theo phò tá. Thêm nữa có bộ tướng đắc lực như Cả Huỳnh và Cả Dinh.
Pháp quân bao vây đánh Yên Thế ròng rã đến 11 tháng trường. Trận chiến này chia ra làm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất từ ngày 29 tháng giêng tới ngày 1 tháng 5 năm 1909.
Giai đoạn thứ hai từ ngày 5 tháng 7 tới 28 tháng 2 năm 1910.
Những trận đánh trong hai giai đoạn này rất ác liệt: Đề Thám phải bỏ đồn Phồn Xương mà rút vào chiến khu trong rừng sâu và dùng chiến thuật du kích lưu động để chống cự lại Pháp quân.
Tuy thoát khỏi vòng vây của Pháp quân, nhưng lực lượng của Đề Thám cũng bị tan rã, mất mát rất nhiều, ngày đêm phải lẩn trốn khắp nơi, vì ở không yên chỗ với các dội quân truy kích của Pháp.
Lúc này, Cả Tuyển (con của Tá tướng quân vụ Nguyễn Thiện Thuật) cùng với các thanh niên cách mạng ở vùng Nghệ Tĩnh và các bộ tướng của Phan Đình Phùng trước kia, đang ở chiến khu của Phan Sào Nam (trong rừng Yên Thế, nơi mà Đề Thám đã nhường cho cụ Phan trước kia), nghe tin Đề Thám bị Pháp quân bao vây rất ngặt, đều kéo nhau đến tiếp viện Đề Thám.
Họ đánh với Pháp quân nhiều trận rất ác liệt. Trận đánh kinh hồn và anh dũng hơn cả là trận ở núi Hàm Ếch.
Ngày mùng 8 tháng giêng năm Duy Tân thứ 3, tức là vào ngày 29 tháng giêng năm 1909, Pháp quân tuân theo lệnh của Toàn quyền Klobukowski lại cử Đại tá Bataille chỉ huy một đạo binh thứ hai gồm có:
1) 5 đại đội bộ binh bản xứ.
2) 4 đại đội tân binh thuộc địa,
3) 1 trung đội liên thanh.
4) 1 đội lính lê dương.
5) 1 đội pháo binh với những cỗ trọng pháo 80 ly.
6) 1 đại đội công binh chiến đấu.
7) 1 đội kỵ binh.
8) 1 đoàn binh yểm trợ đi theo ở phía sau gồm có trên 300 lính khố xanh vốn ở Bắc Giang, Vĩnh Yên và Phúc Yên để trợ chiến. Đạo binh này có nhiệm vụ bao vây rồi tiêu diệt tất cả các vị trí của nghĩa quân.
Đại tá Bataille cũng gởi tối hậu thư cho Đề Thám buộc Đề Thám phải nạp khí giới và nạp tất cả các binh lính khố xanh, khố đỏ đã đào ngũ trước kia, rồi về trình diện tại Hà Nội.
Đề Thám không thèm trả lời gì cả...
Tức giận, Đại tá Bataille hạ lệnh cho các đơn vị Pháp quân tiến vào. Nhưng vì Bộ Tư lệnh đã giữ bí mật các địa điểm tập trung nên hai đoàn lính khố xanh và quân chính quy hiểu sai lầm chỉ thị nên đã diễn trò “Gà nhà đá nhau” ở giữa rừng rậm.
Họ “choảng” nhau một vố thật đau, khiến cho hai bên đều thiệt hại bộn bàng.
Trong lúc đó, Cả Kinh và Cả Huỳnh chỉ huy 200 tay súng ở hai đồn Chợ Gò và Ấm Động đã đánh bạt một toàn lính khố xanh ra khỏi Nhã Nam một cách rất oanh liệt.
Sau đó, Đề Thám ra lệnh rút tất cả quân vào rừng sâu để bảo tồn lực lượng.
Qua ngày 30, Pháp quân chiếm được hai đồn Ẩm Động và Chợ Gò, tiếp ngày 1 tháng 2, Pháp quân cũng chiếm được căn cứ Rừng Tre, nhưng cũng thiệt hại khá nhiều khi tấn công địa điểm này. Ở Bố Hạ, Cai Sơn đánh với Đại úy Pagès cũng bị thua nên chạy vào rừng.
Qua hôm sau, ở Đồng Đăng, cả Kinh, Cả Huỳnh cùng Lý Thu chỉ huy một đoàn nghĩa quân đụng độ với một đơn vị chủ lực quân Pháp rất dữ dộỉ.
Trận này kéo dài từ 1 giờ trưa đến 6 giờ chiều, nghĩa quân mới rút lui toàn vẹn sau khi bắn trọng thương được hai sĩ quan chỉ huy Pháp là Đại úy Teyssier và Trung úy Beneyton.
Pháp quân liền đuổi theo truy nã rất gắt gao. Toán quân do Cả Huỳnh chỉ huy còn có một phần ba và qua tháng tư, Cả Trọng đánh với Đại úy Daufès và Đại úy Bouchet ở Đền Vương, rồi tử trận vì bị bộ hạ bắn lầm.
Đến Thanh Nhâm, Cả Huỳnh lại đụng độ với Đại úy Poilevey và hai bên đánh với nhau rất dữ dội.
Bộ tướng của Cả Huỳnh là Lãnh Thái và Lãnh Thuận tử trận. Cả Huỳnh bị trúng thương rất nặng nhưng ráng rút quân về tới Nãi Từ được rồi thì chết.
Lý Thu, Đề Bào, Hai Huân đều ra hàng.
Đề Thám chỉ còn có người vợ thứ Ba và Cả Dinh là những người thân và tâm phúc chạy theo kề cạnh bên mình được bén gót thôi.
Lực lượng của nghĩa quân cách mạng lại thiệt thêm những phần tử đắc dụng…
Nhưng, … chưa chi Pháp quân đã lạc quan, vào cuối tháng 4 năm 1909, Pháp quân lập bảng tổng kết tình hình hành binh để cho các báo trong và ngoài nước Việt Nam đăng tải.
Pháp quân đã cho hay những kết quả như sau:
- BÊN PHÍA NGHĨA QUÂN YÊN THẾ:
1) Hoàn toàn bình định được Yên Thế
2) 44 “loạn quân” bị giết.
3) 15 “loạn quân” bị bắt làm tù binh.
- BÊN PHÍA PHÁP QUÂN:
1) 29 lính tử trận, trong số này có 7 lính Pháp.
2) 74 lính bị thương, trong số này có 5 sĩ quan và 24 lính Pháp.
Tướng giặc đã mất hết uy tín và sắp phải đầu hàng…
Tiếp theo đó, Pháp quân sửa soạn rút quân ra khỏi Yên Thế…