← Quay lại trang sách

chương hai

Trang nằm thao thức trong bóng tối, trong căn buồmg chỉ còn lại tiếng thở điều hòa của hai đứa nhỏ, nằm bên, ngủ rất ngoan và rất yên. Tiếng chuông đồng hồ thả giọt. Tiếng chuông đồng hồ thả giọt vào không cùng lặng lẽ.

Trang nghe đêm đi, từng bước đêm đi. Trên mái nhà. Trên trời cao mênh mông. Trong lòng nàng lạnh buốt bấy lâu, đêm nay bỗng thấy bồi hồi xao xuyến. Một mặt hồ thu nào đó đang xôn xao những đợt sóng ngầm. Trong một lòng đất nín câm nào đó, đang cựa mình một mầm hạt nhỏ. Mầm hạt đó Trang tưởng như đang lớn dần lên.

Nàng nhớ lại đời nàng. Từng đoạn đã qua, từng mùa đã hết. Mỗi ngày tháng là một cánh lá. Lá đã bao nhiêu cánh rụng xuống? Đời đã bao nhiêu mùa xuân qua? Thuở dậy thì, tuổi thiếu nữ, ngày bước lên xe hoa, buổi đổi thay một đời, tất cả đều hiện về trong đêm nay, tất cả đêm nay trong hồn Trang nhớ lại. Nàng đã lớn lên như một cô gái tỉnh lẻ. Trên những lòng đường cỏ mọc. Dưới những hàng cây âm thầm.

Trong tiếng còi tàu chiều chiều vang lên ngoài bến xa. Trong nhịp guốc gõ đều trên vỉa hè những buổi trưa thiêm thiếp nắng. Những ngày đi học là phần thời gian thiên đường, lộng lẫy nhất của đời Trang. Nghĩ lại còn thấy đẹp. Nhớ lại còn thở dài, còn chảy ra những hàng nước mắt. Trường có bóng phượng vĩ rực rỡ, có sách vở thơm ngát hương thơm những giấc mộng đầu mùa. Có bạn có thầy. Có cái thế giới thân yêu đó của bảng đen và phấn trắng. Chúng nó, đám bạn gái, theo nhau lên từng lớp, đi chung một đường, về chung một lối, ríu rít vui như một đàn chim.

Lớn hơn, ra khỏi cửa trường, gió đời cướp lấy ném từng thân thế vào từng ngả đường cách biệt Người con gái tỉnh nhỏ lấy chồng. Rất sớm. Như một định luật. Như một bắt buộc. Và cũng như một tình cờ, một may rủi. Người đàn bà tỉnh nhỏ cũng như người thiếu nữ trong ca dao xưa, như một hạt mưa. Mưa tự trời mưa xuống, không biết rơi vào đâu. Hạt vào ruộng móc, hạt ra vườn đào.

Đám cưới đến. Đám cưới không có bởi tình yêu. Đám cưới như một đặt định, một thỏa ước giữa hai gia đình mà Trang không có quyền được có ý kiến. Ngày lên xe hoa là một ngày buồn. Trang khóc. Bạn gái, có mấy cô phù đâu, thấy Trang khóc, cũng khóc theo.

Đời người thiếu nữ tỉnh nhỏ như thế. Buồn như mùa thu. Sầu như lá rụng. Chỉ thấy mưa bay, không thấy nắng hồng. Chỉ có mây mù, không có trời xanh. Thế là cô Trang đã chết. Cô Trang trở thành mợ Quýnh, người nàng dâu trưởng của gia đình Quảng Hưng.

Ý nghĩ miên man, bộn bề lần lượt hiện hình trong đầu óc Trang như một xâu chuỗi của những hình ảnh và những sự việc buồn thảm. Nỗi buồn thầm kín ấy ở với Trang đã bao nhiêu năm. Không tăng lên. Cũng không bớt đi. Không ra vẫn còn mà cũng không ra đã mất. Sự lặng lờ này như biến thái của một tâm trạng bình tĩnh có vương vương đôi chút ngậm ngùi. Tôi không khóc nữa. Những giọt nước mắt đã chạy trở vào. Tôi không vật vã, không quằn quại nữa. Tôi đã mệt, đã im, và nghe mãi, bao nhiều chiều buồn, bao nhiêu đêm đen, những xúc động trong tôi dần dần lắng xuống. Dĩ vãng trở thành mặt hồ. Lạnh tanh. Trong suốt. Nhìn thấu tới cái đáy thăm thẳm của nó. Cụộc hôn nhân không có bởi tình yêu, vợ chồng chỉ còn là một chung sống gượng ép nghiêng dần vào tẻ nhạt.

Lúc trở thành mẹ, lúc sinh ra đời đứa con thứ nhất, Trang đã ôm chặt lấy một hy vọng cuối cùng. Là đứa con sẽ trở thành lẽ sống mới của đời nàng. Trẻ thơ sẽ thay cho người lớn, ở bên nàng như một an ủi. Nàng đã có một đối tượng thân yêu mới. Nàng sẽ trút hết tâm hồn nàng cho đứa con. Nhưng rồi Trang thất vọng. Thấy là sự thật không phải thế. Thấy là nàng lầm. Nàng đã trở thành mẹ. Nàng thương yêu con thật tình. Như tất cả những người mẹ. Nhưng có điều này, là tình thương con không đủ cho người đàn bà, mỗi buổi sáng còn ngây ngất vì chính cái nhan sắc đương xuân của mình phản chiếu trong gương. Đôi mắt tôi trong suốt, tình tứ và nồng nàn. Đôi mắt ấy để cho ai, cho ai nhìn thấy? Thân thể tôi còn là một biển hiến dâng, một nguồn ham muốn, thân thể tôi dùng để làm gì? Những buổi tắm, khỏa thân ngó xuống, thấy da thịt mình tròn đầy và trắng muốt như sữa đọng. Những lần gội đầu, thả mái tóc cho chảy dài thành suối, sợi tóc nào cũng đen ánh, chưa một sợi nào ngả màu tháng năm. Thảm kịch dấy lên, âm thầm, nhưng nung nấu và cực kỳ mãnh liệt. Tấn thảm kịch muôn đời của người đàn bà. Tấn thảm kịch của thân thể. Thân thể vừa như một lưu đầy, vừa như một phá vỡ. Nó vừa bảo Trang hãy kìm giữ lại, nó vừa bảo Trang nổi loạn đi thôi.

Nhiều lúc, thường vào ban đêm, giữa tiếng đồng hồ thả giọt và giữa bóng tối, Trang trống trải với sự vùng vẫy của thân thể bốc lửa da thịt bồn chồn, Trang có cảm tưởng nàng là hai sự kiện trái ngược nhau, trong một. Nàng vừa là một con đê, vừa là một ngọn triều. Con đê ngăn lại một ngọn triều hung dữ. Và ngọn triều thì xô chuyển liên hồi một bờ đê mong manh.

Những lúc thấy mình vừa thoạt nghĩ đã tràn đầy tội lỗi, Trang quay sang, ôm chặt lấy con. Nàng ôm chặt, thật chặt, đứa nhỏ vào lòng. Như một bám víu, như một cầu cứu.

Vô ích. Nàng không phải là một người đàn bà của luân lý đạo đức. Nàng cũng không phải là một người đàn bà dâm ô điên cuồng, với những chứng tật kỳ quái. Nàng chỉ giản đơn là một người đàn bà có một thân thể chưa từng chết những đường dây cảm giác ấy đã rung lên. Thân thể kia chưa khô héo chút nào. Và nó đòi hỏi. Nó đòi hỏi được ve vuốt, được thỏa mãn. Nó đòi hỏi được sống với cái trạng thái bình thường của một thân thể lành mạnh.

Những đêm mùa hè! Trang sợ nhất những đêm mùa hè, nồng nực bốc lửa và da thịt nàng cũng bừng bừng bốc lửa theo. Những đêm mùa hè muốn khỏa thân mà ngủ, muốn mở toang cửa sổ đón gió đêm tự trời sao đáp xuống, lọt vào, tỏa đầy da thịt như muôn ngàn ngón tay âu yếm của một người tình bí mật ban đêm. Những đêm mùa hè. Những đêm mùa hè như một cực hình. Nhiều lúc không nhịn được, Trang vật vã bật lên những tiếng rên nho nhỏ như con vật bị thương. Những đêm mùa hè. Như đêm nay. Cái nóng thúc giục. Cái nóng ma quái. Một thoáng gió hây hây. Mồ hôi ở những khoảng trũng. Thái đương hầm hập. Cái nhìn tức tối, muốn khóc. Giấc ngủ không đến. Trời ơi! sao giấc ngủ không đến, và đêm ráo hoảnh mở lớn hàng nghìn cặp mắt nhìn ngó giễu cợt người đàn bà còn trẻ đẹp vô ngần phải sống cô đơn.

Tiếng chuông từ ngoài cửa, vang lên thật sâu, trong căn nhà yên tĩnh. Ông ấy đi dạo và ông ấy đã trở về. Trang nhủ thầm, và bước xuống khỏi giường. Nàng cài lại hàng khuy áo trước ngực. Thốt nhiên, Trang đỏ bừng mặt. Nàng bật đèn.

Căn buồng ngủ sáng chói làm Trang hoa mắt trong khoảnh khắc. Đã toan mở cửa đi xuống, nghĩ thế nào, Trang lại chạy vội đến trước gương. Nàng cầm lược chải vội mái tóc. Nhìn lại nàng trong gương một lần nữa, Trang yên tâm mở cửa, bước mau xuống cầu thang. Khói thuốc lá từ ngoài đường, theo Ninh vào cùng cánh cửa mở hé. Ninh tươi cười:

– Xin lỗi. Tôi về muộn quá.

– Không sao đâu ạ! Tôi chưa ngủ.

– Không ngờ chị cũng thức khuya. Chị đọc sách?

Trang đáp “ dạ ” cho qua vì nàng không tìm được câu trả lời nào khác để chứng tỏ được cho sự thức khuya của mình. Nàng yên lặng dẫn đường cho Ninh lên lầu, như hồi chiều, lúc chàng mới tới.

Yên tĩnh của đêm khuya tỏa lên một cái gì thân mật. Một thân mật riêng tư giữa hai người thức trong khi tất cả những người khác đều đã ngủ yên. Yên lặng trở thành một có mặt đồng lõa. Trang và Ninh như cùng nhận thức được sự thân mật đồng lõa này. Hai người nhẹ bước trên từng bực thang. Nhớ đến vũ trường chàng vừa đến, thốt nhiên Ninh bật cười một tiếng ngắn vui thú.

Trang quay lại:

– Anh cười gì thế?

– Tỉnh nhỏ này đầy dẫy những ngạc nhiên không ngờ. Chị biết không, ở đây cũng có một tiệm nhảy. Tôi vừa đến đó. Chị đã đến đó bao giờ chưa?

– Tôi có nghe thấy nói. Cố nhiên tôi không đến đó bao giờ.

Trang nhấn mạnh vào hai tiếng “ cố nhiên ” khiến Ninh nhận thấy ngay câu hỏi của chàng vô lý. Chàng nhìn sang Trang, nghĩ đến một thế giới khép kín. Một thế giới đẹp buồn rầu, ở đó có những gót chân son hồng di động trên nền đá hoa, một căn buồng riêng, ở đó là những tấm rèm cửa buông rủ, tiếng chuông đồng hồ ngân nga thả giọt, thế giới đó khuất lặng đã bao nhiêu năm mà chàng vừa hé thấy bằng một hé nhìn thứ nhất. Trang với tỉnh nhỏ này, cũng là một xa lạ. Tỉnh nhỏ với người, linh hồn giống nhau, nhưng sống bên nhau mà là sống cực kỳ cách biệt.

Hành lang tối mờ mờ. Bưồng Hoa, cửa đóng tối đen. Buồng Trang, lọt ra một tia sáng nhỏ như một tơ chỉ. Ninh đứng tựa lưng vào tường. Trang đối điện Ninh, ngả mình vào lan can. Mái óc nàng in lên một nền trời sao thưa thớt. Bóng tối làm cho Trang tự nhiên hơn.

Nàng nhìn chàng trẻ tuổi và nghĩ đến nột cái gì thật trẻ, thật sáng. Trẻ như đời nàng thưở trước..Sáng như hồn nàng trhở xưa. Chàng trẻ tuổi đứng đó, chợt như khiến Trang ngậm ngùi và tiếc thương rất nhiều điều. Những dấu chân xưa trên lối mùa xuân thơm. Những buổi đẹp trời đã mất. Những mộng vàng lỡ. Những mây trắng, những hoa nắng một thời. Trang đưa tay lên vuốt một làn tóc lòa xòa, đầu nàng cúi xuống, ánh mắt mờ đi. Yên lặng hoàn toàn. Tất cả là một dõi theo và một nghe ngóng đêm đi. Đêm mở những con mắt. Nhìn người. Nín thinh.

– Anh định bao giờ ra chăm cửa hàng?

– Ngoài bến phải không chị?

– Dạ. Cùng một dẫy với cửa hàng bà Phán Địch. Ngoài bến vui hơn trong phố. Nhưng ồn ào và bụi bậm lắm.

Trang cười nhỏ:

– Anh chịu khó thật.

Ninh cãi:

– Tôi đã làm được gì đâu mà chị khen tôi chịu khó.

– Về đây. Buôn bán. Thế là chịu khó. Tỉnh nhỏ này không phải để cho những người như anh.

– Như thế không phải là chịu khó. Chỉ là tôi muốn thay đổi.

Ninh cười:

– Tuy chẳng hiểu là thay cái gì, đổi cái gì. Người ta sống lắm lúc kỳ quái và lạ lùng ghê lắm. Không biết mình muốn cái gì nữa. Có lẽ là thầy mẹ tôi thấy tôi chơi bời hư hỏng qưá, đày tôi về đây ít lâu cho nó đứng đắn lại con người. Tôi có thể từ chối không chịu xuống đây. Nhưng tôi đã không từ chối.

– Bây giờ anh hối hận?

– Trái lại. Tôi rất bằng lòng. Về đây không phải là một lưu đày. Tôi nghĩ rằng tôi đã yêu tỉnh nhỏ này, với những cái tưởng như không có gì đáng yêu của nó. Tôi nghĩ tỉnh nhỏ này sẽ làm cho tôi thay đổi. Không chừng nó đã đổi thay tôi rồi, ở một điểm nào còn mơ hồ tôi chưa tìm hiểu được nguyên nhân. Những cái gì mình yêu thì mình phải biết. Rõ lắm. Không nhầm lẫn được. Bến tàu lúc tàn nắng, tàu về, đám phu vác tấp nập, những con đường cỏ mọc, đêm yên tĩnh, những thước không khí trong vắt, đó là những vẻ đẹp riêng của thành phố này mà tôi yêu. Không, tôi không ân hận.

Ninh đưa tay lên nhìn đồng hồ. Chàng nói, dịu dàng:

– Đã khuya, mời chị đi nghỉ.

– Anh cũng nên đi nghỉ kẻo mệt.

– Tôi quen thức khuya đã bao nhiêu năm nay.

– Về đây, anh phải đổi khác. Anh phải quen đi ngủ thật sớm.

Ninh mỉm cười, gật đầu:

– Có lẽ thế. Có lẽ phải như thế.

Ninh đứng nguyên ở chỗ cũ, với điếu thuốc cháy trên tay, nhìn theo Trang uyển chuyển đi về buồng riêng. Cánh cửa mở ra, ánh sáng, rồi cánh cửa đóng lại. Ninh đứng đó, giữa hành lang vây phủ bởi bóng tối hòan tòan. Rồi chàng lững thững đi lại chỗ lan can, nơi Trang vừa rời bỏ. Thoang thoảng trong không một mùi thơm vương lại của tóc, của da thịt người đàn bà. Ninh xua đuổi mau chóng một ý nghĩ vẩn đục. Lòng chàng lắng đọng, êm ả, nhẹ nhàng bâng khuâng. Giữa những vì tường, một phiến trời đen như mực tầu. Những vì sao thưa thớt thả xuống một ấn tượng lung linh hư ảo. Khoảng sân phía dưới cũng tối đen như nền trời.

Ninh đứng thật lâu, cảm nhận được toàn vẹn sự cô đơn của chàng đêm đầu tiên giữa một tỉnh nhỏ lạ lùng và bỡ ngỡ. Chàng nhớ đến một người tình đã mất, mà tất cả hình ảnh, dấu vết và kỷ niệm chỉ còn là một tấm hình mang cheo. Ninh trở vào phòng, bật đèn.

Tấm hình cầm trên tay, Ninh ngắm nhìn cái khuôn mặt đã thuộc về một thế giới khác, trở thành sở hữu của một người đàn ông khác. Sự buốt nhói chợt gợn lên như một mũi kim đâm suốt qua tim. Ninh nâng tấm hình lên gần, nói nhỏ với khuôn mặt trong đó. “ Anh còn yêu em thật sao?” Tiếng nói vang lên trong căn phòng, dội ngược trở lại tâm hồn Ninh phút này cũng như một căn phòng mênh mông và trống trải. Không, người ta không thể sống trọn đời với một niềm đau, một vết thương quá khứ. Phải đuổi dạt đi những bóng ma. Phải nhận chìm hết thảy vào quá khứ. Về đây làm gì nếu không là để sống khác đi, khởi sự cho mình những ngày tháng mới.

Ninh nhìn tấm hình một lần cuối cùng. Sống không thể là một tưởng niệm. Người ta không sống mãi mãi với một tấm hình. Không thể, Ninh nghĩ như vậy, và chàng mở va-li, đặt tấm hình xuống đáy, lật úp xuống. Đèn tắt, Ninh nằm xuống giường. Chàng cảm thấy buồn rầu hơn. Nhưng yên tâm hơn. Giấc ngủ không đến khó khăn như Ninh tưởng. Chàng ngủ thiếp đi.

Từ nhà bà Quảng Hưng, xuống bến tàu, con đường dài chừng một cây số trở lại. Nắng vừa đấy. Ánh nắng ấm áp chưa làm mất đi sự trong mát của sớm mai. Trang và Ninh đi thong thả bên nhau. Trang im lặng để mặc cho Ninh ngắm nhìn sự thức dậy muộn màng của những hè đường tỉnh nhỏ. Người đi lại thưa thớt. Nhiều cửa tiệm còn đóng kín. Những chiếc xe chở nước từ mạn bờ sông tiến vào. Bánh gỗ lăn trên mặt đường lộc cộc. Những giọt nước nhỏ xuống thành những vệt ngòng ngoèo trên mặt nhựa lồi lõm.

Trang mặc một cái áo dài bằng hàng lụa màu ngà. Quần đen.Tóc cuốn cao. Đôi guốc nàng đi để lộ hai gót chân trắng nuốt. Đã lâu lắm, Trang mới ra phố. Phố xá nàng nhìn thấy hai bên vẫn vậy, nhưng lòng nàng xôn xao trong một niềm vui bỡ ngỡ không ngờ.

Buổi sáng Ninh xuống nhà dưới, rửa mặt, ăn điểm tâm và đã gặp bà Quảng Hưng. Bà lão vẫn còn đau, ho từng hồi rũ rượi, và nói chuyện với Ninh từ trong màn. Bà cụ đau, nhà không có ai, mẹ con Hoa ra cửa hàng từ sáng sớm, và bà Quảng Hưng đã bảo Trang mặc áo, lấy chìa khóa ra mở cửa hàng ngoài bến cho Ninh tiếp nhận.

Tới gần bến tàu, sinh hoạt ồn ào tấp nập hơn. Người đi lại đông đúc. Bến chưa nhìn thấy nhưng không khí của bến đã lan rộng vào những phố kế liền với bến như một vòng đai chạy dài phía sau. Một đoàn xe vận tải nối hàng. Mui xe mở toang. Hàng được đưa từ mặt bến vào, chất lên xe từng đống bao tải lớn. Những bao tải căng phình nằm trên bờ vai lực lưỡng cháy nắng của đám phu cởi trần chạy huỳnh huỵch. Những giọt mồ hôi óng ánh trong nắng. Mùi ngô, gạo ngai ngai bốc lên. Bụi cám bay đầy trong không khí. Cùng với từng bao hàng được ném từ vai đám phu khuân vác lên mặt xe, là tiếng lách tách đều nhịp của những chiếc thẻ gỗ được ném xuống thùng. Thẻ thay cho đếm. Mỗi thẻ là một bao hàng. Một cái thẻ nằm trong thùng gỗ là một bao hàng đã nhận xong. Ninh đứng lại, ngắm nhìn cảnh tượng sinh hoạt nhộn nhịp, nghĩ rằng sinh hoạt này đã trở thành khung cảnh đời sống thường nhật của chàng, bắt đầu từ sáng nay.

– Anh thấy thế nào? – Tiếng Trang hỏi sang.

Ninh cười:

– Lạ. Nhưng trước lạ sau quen.

Chàng chỉ tay vào đám phu khuân vác chạy đi chay lại không ngừng:

– Họ làm việc mệt nhọc. Trưa về lăn ra ngủ. Chiều làm việc nữa. Tối, họp nhau ngồi nhậu đế, mặt mũi đỏ sậm, cười nói ba hoa, đêm về lại lăn ra ngủ. Một đời sống giản đơn, không bao giờ có những phiền hà nhiều mặt như đời sống chúng ta. Những đầu óc không bận tâm bao giờ về những suy nghĩ nhiều khi tôi thấy là cần có, nhiều khi lại thấy là vô ích lắm. Chắc chắn một điều này, giấc ngủ của họ ngon lành hơn giấc ngủ chúng ta. Họ yên ổn. Sống lâu hơn. Và như thế, sung sướng hơn.

– Có thật sung sướng hơn không?

Ninh đáp, thành thật:

– Hơn chứ. Tôi hằng muốn được sống như thế. Bình thường, không lo âu, không xao xuyến. Như mọi người. Khi mình nghĩ là mình không giống với mọi người, khi đó những vấn đề, những khó khăn bắt đầu.

Hai người đã đi tới cuối phố. Một khoảng trống mở rộng như một giải phóng bất ngờ cho tầm mắt. Bên kia một bức kè xi-măng thấp chạy dài, mặt sông lớn hiện ra. Ninh đứng sững, gần như muốn kêu lên một tiếng ngạc nhiên vui thích. Chiều qua Ninh đã nhìn thấy mặt sông trong hoàng hôn, dưới ráng chiều. Một mặt sông dịu dàng như một dải lụa có những màu sắc lóng lánh đổi thay, trải rộng trong một không gian tàn nắng. Mặt sông buổi chiều dịu dàng, hiền lành, như một đời sống đã lắng nghiêng vào thư thái nghỉ ngơi. Những màu sắc lồng, và chìm. Những gợn nước lăn tăn. Bãi bờ của dòng sông chiều cũng như mang linh hồn trầm tư của mặt nước, bãi bờ đìu hiu như có một tiếng thở dài của cây cỏ toát lên.

Buổi sáng, dòng sông mang một khuôn mặt hoàn toàn khác biệt. Nó là hình ảnh một đời sống đương triều, chan hòa sinh khí. Nắng rực rỡ. Nắng bay múa. Nắng như một dòng máu hồng tuôn chảy thao thao. Nắng hát, nắng ca trên mặt sông nhảy nhót. Nước buổi sáng là một tấm gương cực kỳ sáng láng của trời. Một vài cánh buồm lướt qua. Buồm căng gió, thuyền xuôi băng băng.

– Đẹp. – Ninh thốt lên.

Ninh ngây ngát trước vẻ đẹp của dòng sông rực rỡ khiếr Trang cảm thấy như nàng cũng lần đầu chợt khám phá thấy cái dòng sông tỉnh nhỏ đẹp không biết chừng nào.

Đưa mắt nhìn nhau, cái nhìn là một đồng ý, Ninh và Trang cùng vượt đường đi sang. Một chiếc xe vận tải bất chợt từ phía tay phải ầm ầm lao tới. Trang giật mình luống cuống chưa biết tiến lui thế nào. Ninh nắm tay nàng kéo lùi lại. Chiếc xe băng sát qua người Trang. Trang hoàn hồn, nhưng trống ngực nàng còn đập mạnh. Nàng vừa sống một khoảng khắc hồi hộp. Da thịt bao nhiêu năm im lìm trống không thức tỉnh trong va chạm bất ngờ, hơi nóng truyền lan bàng hoàng vào cảm giác. Trang mỉm cười vuốt lại tóc, thở ra:

– Ghê quá!

Hai người bước lêa cái kè xi-măng thấp chạy dài cheo bờ sông. Gió đột nhiên thổi mạnh. Tà áo Trang bay phất phơ trong nắng. Nàng ngửa mặt cho nắng gội chan hòa trên tóc, trên cổ. Nàng nghe sự xôn xao khởi dậy trong lòng nàng, nàng nghe sự ngây ngất đó của thân thể nàng như suốt bấy lâu lưu đày vừa được giải phóng, nàng nghe theo tiếng đập như một reo vui của tà áo lụa. Và nàng sống với một hạnh phúc, hạnh phúc đó còn mong manh, hạnh phúc đó thoạt nhú lên chỉ là một ý niệm, nhưng hạnh phúc đó có, đích thực, Trang biết như thế. Nàng cảm thấy nó sáng láng và rõ rệt trong nàng. Không, cuộc đời nàng chưa hết đâu, thân thể nàng chưa lịm chết, cái chết bấy lâu chỉ là một giả chết, im lặng bấy lâu chỉ là một trạng thái đợi chờ, dòng sông rực rỡ dưới thấp kia, cái nắng gió này, trời xanh biếc trên đầu, niềm vui nở hoa trong thân thể, tất cả cùng đồng loạt cao giọng nói cho Trang biết nàng vẫn còn một đời sống, nàng vẫn có một tâm hồn, nàng vẫn có quyền được sống, được đợi chờ và được thương yêu. Dòng sông hắt trả tấm gương mênh mông của nắng sáng chói lòa lên cao. Trang có cảm tưởng như nó còn hắt trả cho nàng nhìn thấy nột khuôn mặt mới, khuôn mặt đó là nàng, chợt thức tỉnh bởi đất trời đẹp quá, chợt ra khỏi cái thế giới lưu đày để thấy cuộc đời còn đầy đặc những quyến rũ, những chào mời, những trái chín trên cành chưa kịp hái, những hoa hồng thơm ngát, ở đó, rung rinh, lộng lẫy, trước tầm tay.

Ninh chỉ xuống mặt nước lòa chói:

– Tôi không thể nghĩ tỉnh nhỏ này không có dòng sông kia.

Trang cười:

– Dân chúng ở đây chắc không ai có những ý nghĩ như anh. Dòng sông không thuộc về ai. Nó vô thừa nhận. Biếu anh đây.

– Tôi yêu những dòng sông, chị biết không? Có người chỉ yêu những con đường trải nhựa, những ánh điện. Có người chỉ thích được cả đời sống với núi cao. Riêng tôi, tôi yêu những dòng sông. Yêu từ thuở nhỏ. Yêu từ những con sông thật nhỏ, thật hiền, yêu đến những dòng sông thật mênh mông, có sóng, có triều, lúc đầy lúc vơi, nó gợi cho mình cái ấn tượng của biển ca. Hồi nhỏ, tôi ở gần biển. Nhà cách biển có một cây số, đêm nằm nghe thấy rõ tiếng sóng đổ hồi. Lớn lên, không bao giờ tôi được trở về nơi chốn đã ra đời. Nhưng ở mãi trong tôi là tình yêu biển, yêu sông, yêu nước, yêu sóng đó. Chị có như thế?

Trang thành thực đáp:

– Không. Tuổi nhỏ của tôi thường lắm. Tôi lớn lên, đi học, lấy chồng, vẫn ở trong lòng những con đường cũ. Những con đường mà anh đã thấy đó, buồn bã, khuất nẽo. Tôi không cảm thấy gì hết. Người đàn bà tỉnh nhỏ như chúng tôi, không có một đời sống riêng.

Ninh lắc đầu nhìn Trang:

– Tôi không đồng ý. Ai cũng có một đời sống riêng. Đó là đời sống lạ lùng và phong phú nhất.

Trang cười:

– Nhưng tôi đã nói với anh là tôi không có.

– Thế là chưa biết. Chưa nhìn thấy. Có khi là vì nhìn thấy mà không dám sống với nó. Ai cũng có một đời sống riêng. Nó là gia tài, là sở hữu của mình mà không kẻ nào cướp được.

Ninh bước xuống bực xi-măng, và rất tự nhiên, chúng đưa tay cho Trang, đỡ nàng bước xuống. Trang ngập ngừng một giây. Nàng nắm lấy tay Ninh. Hai gò má nàng đã ửng đỏ. Nàng biết có nhiều cặp mắt đâu đó, bên kia đường, từ trong những căn nhà, những cửa tiệm đang nhìn ra bằng những cái nhìn soi mói. Cử chỉ thân mật giữa Trang và Ninh chợt mang ý nghĩa một hành động thách thức táo bạo.

Cửa hàng bà Quảng Hưng nhường lại cho Ninh là một căn nhà một tầng, trông thẳng ra mặt bến. Nó ở giữa một dẫy căn nhà giống nhau, chỉ khác ở số nhà, màu sơn và những tấm bảng kẻ tên hiệu treo nghiêng trên thành cửa. Trang mở khóa. Cáah cửa cót két mở rộng. Chung quanh chỗ hai người đứng, một đám đông đã tò mò xúm lại. Trẻ nhỏ đứng lẫn với người lớn. Ninh trở thành cái đích của một ngắm nhìn hiếu kỳ. Bến tàu nhìn Ninh như một người lạ mặt. Ninh cúi xuống, xoa đầu một đứa nhỏ. Nhiều tiếng cười khúc khích nổi lên. Trang cũng cười và Ninh cũng cười theo. Không khí đượm một vẻ gì thân mật quê mùa Ninh không thấy ở những thành phố lớn. Đời sống ở thành phố lớn khác. Liên hệ giữa người và người cũng khác biệt lắm ở những thành phố lớn. Mỗi cá nhân là một hoang đảo. Người với người dầu hàng xóm, người với người dầu láng giềng, nhưng vĩnh viễn là những lạnh lùng và những xa lạ nhau. Ở đây khác. Từ những cái nhìn tò mò kia, Ninh biết chàng sáng nay còn là một kẻ lạ mặt, nhưng rồi trong những ngày tháng tới, sự xa lạ sẽ thành thân quen, những biên thùy cách biệt sẽ không còn nữa.

Tâm trí nhẹ nhỏm trong ý nghĩ ngọt ngào, Ninh theo Trang bước vào cửa tiệm. Trái với dự đoán của Ninh, căn nhà tuy đã lâu ngày, không bụi bậm như chàng tưởng. Trước khi chàng đến, đã có một sự thu dọn lại. Trên tường, một cái lịch treo, xinh xắn. Bàn làm việc sạch sẽ. Cái ghế bành bọc da nâu kê ngay ngắn. Góc bàn, một cái gạt tàn thuốc. Ninh đi lại mấy bước trong căn nhà, nhìn thấy dấu vết đó của sự săn sóc chỉ có thể có bởi một bàn tay đàn bà mà thôi. Chàng quay lại:

– Cám ơn chị!

Trang cười sung sướng, vì thấy Ninh tỏ vẻ hài lòng:

– Có gì đâu mà anh cám ơn. Hơi chật. Nhưng như anh thấy đó, cửa tiệm nào ở bến tàu nào cũng như thế cả. Nơi này chỉ để anh giao dịch. Còn hàng đã có kho chứa riêng.

Đám trẻ con bâu kín ngoài cửa, vẫn mở lớn những con mắt tò mò nhìn vào khiến Trang nghĩ nàng không nên ở lâu. Nàng trao chìa khóa lại cho Ninh, dặn chàng một vài điều nho nhỏ cần nhớ rồi cáo cừ. Ninh đưa Trang ra cửa. Chờ cho Trang đã khuất ở đầu phố, Ninh từ cửa hàng đi dạo một vòng hết khu vực bến tầu. Đi qua cửa bàng bà Phán Địch, Ninh thấy mẹ con Hoa đứng ở cửa. Bà Phán Địch mời Ninh vào chơi, nhưng chàng xin lỗi và tiếp tục cuộc đi dạo. Nắng đã lên, gay gắy hơn.

Mặt sông ngời ngời như nắng đốt lửa ở đó, và lửa làm bốc lên một thứ hơi chập chờn choáng váng. Những con thuyền, mui phủ kín bưng nằm im lìm. Những cây cầu được nhấc lên. Giờ dỡ hàng đã chấm dứt. Đám phu cởi trần ngồi từng tốp trên những trụ đá, trong những quán hàng xếp hàng theo dọc bến, đang chia tiền công. Họ nói lớn tiếng như cãi nhau, và không một ai ngẩng đầu khi Ninh đi qua.

Trước mọi sinh hoạt hầu như tạm thời ngừng nghỉ, có một tốp phu còn xúm xít chung quanh một cái cân bàn, khiến Ninh ngạc nhiên tiến lại. Ngồi sau cái cân là một thiếu nữ. Y phục của thiếu nữ cho Ninh biết ngay cô ta là người Trung Hoa. Áo ngắn, xẻ hai bên, tay ngắn, vải hoa, quần bó chẽn cùng một thứ vải hoa như áo. Thiếu nữ có một thân hình thật nở nang. Hai cánh tay để trần, tròn lẳn, rám nắng. Mắt to, sáng. Môi hồng và dày. Thiếu nữ vừa cân hàng vừa cười đùa rất tự nhiên với đám phu. Tiếng cười của nàng hồn nhiên. Cái miệng rộng. Mỗi khi thiếu nữ ngửa cổ cười lớn, cặp môi ướt lại để lộ một hàm răng đều và trắng óng ánh.

Một người phu giậm chân giục:

– Cân mau lên cô Sầu. Đói quá chừng rồi. Mà để đến chiều có được không cô Sầu?

Thiếu nữ lắc đầu, cương quyết:

– Không được. Phải cân hết trưa nay cho kịp giờ tầu về.

Ninh đứng sau đám phu, nhìn thiếu nữ làm việc dưới nắng. Một cuốn sổ nhỏ đặt trên đùi, một cái bút chì trên tay, thiếu nữ cân hàng, ghi sổ bằng những cử chỉ nhanh nhẹn thành thạo chưa từng thấy. Hàng đặt xuống cân, thoăn thoắt, hết bao này đến bao khác. Những đám plu làm vội, thật nhanh tay, mà thiếu nữ cân hàng còn nhanh tay hơn. Cảnh tượng này có một vẻ đẹp riêng, khiến Ninh còn muốn đứng lại ngắm nhìn thêm nữa. Một lát như thế. Rồi thiếu nữ Trung Hoa chợt ngừng tay ghi sổ. Nàng đã phát giác sự có mặt của chàng trẻ tuổi. Thiếu nữ ngước mắt nhìn, nàng hơi cau mày lại. Nụ cười tưởng như bất tuyệt trên cặp môi đỏ hồng, chợt biến đi trong khoảnh khắc. Ninh cúi đầu chào, chàng mỉm cười như xin lỗi về sự có mặt của mình.

Đột nhiên, thiếu nữ thay đổi ý kiến. Nàng gập sổ, khóa cân và bảo người cai phu:

– Để chiều cân tiếp.

Đám phu nhao nhao phản đối:

– Cô Sầu lạ thật. Lúc cân lúc lại thôi. Đồng bóng vừa vừa chứ nhé.

Sầu đã lấy lại được nụ cười:

– Đồng bóng đấy. Đã làm sao chưa?

Đám phu giải tán. Họ kéo nhau băng qua mặt bến phơi dãi dưới nắng, đến ăn ở hàng hiên rộng bên kia đường. Sầu đứng lên, đánh rớt cuốn sổ tay xuống đất. Ninh cúi xuống nhặt. Thiếu nữ cười; nét mặt nàng đỏ bừng, trông thật khả ái. Nàng nói nhỏ “ cám ơn”. Và lững thững đi, mắt nhìn thẳng nhưng nụ cười vẫn nguyên vẹn trên môi. Ninh đi bên cạnh, bắt chuyện:

– Ngày nào cô Sầu cũng cân hàng ở đây?

– Trừ những ngày mưa. Ông về đây buôn bán với chúng tôi?

Ninh ngạc nhiên:

– Đúng như thế. Sao cô biết?

– Đám phu họ nói. Cái gì xẩy ra ở bến tầu này đám phu họ cũng nói chuyện với nhau ngay.

Sầu cười thành tiếng, giòn giã:

– Và họ nói gì tôi cũng biết ngay. Tôi còn nhìn thấy nữa. Lúc bà Trang mở cửa hàng cho ông vào. Ông ở nhà cụ Quảng Hưng phải không. Ông về đây buôn bán, đừng có cạnh tranh với nhà tôi đấy nhé.

Sự thân mật mau chóng và không ngờ. Ninh nói đùa:

– Cạnh tranh làm sao được. Cạnh tranh chắc thua quá. Tôi mới về, cái gì cũng bỡ ngỡ. Chỉ lo những người địa phương tinh khôn như cô Sầu bắt nạt.

Sầu chúm chím:

– Ai bắt nạt được ông.

Giọng nói của Sầu lơ lớ, trầm bổng, có nhạc, nghe rất lạ tai. Người thiếu nữ Trung Hoa tự nhiên trong vẻ đằm thắm riêng biệt của nàng, vẻ riêng biệt ấy hơi ngây ngô khờ dại, nhưng ngộ nghĩnh và rất đáng yêu. Thiếu nữ có một dáng đi mạnh dạn, tràn đầy sinh lực. Cái áo ngắn bó chẽn ở phần dưới, làm nổi hình những đường cong. Phía trước, vải áo căng thẳng, là sự giam giữ chật vật một bộ ngực dậy thì nhọn hoắt. Bộ ngực phập phồng lên xuống theo hơi thở.

Thiến nữ thở ra sự hồng hào, toát ra vẻ thanh xuân. Ở Sầu là nét đẹp nấu chín ngoài thiên nhiên, trong gió nắng, gợi nghĩ đến những bãi biển mùa hè, gió bay lồng lộng trên nuớc xanh, đó là cái đẹp của tiếng cười giòn giã thả giọt trong những khoảng mênh mông sáng láng rười rượi ánh sáng. Của những cánh buồm đập tiếng đập lồng lộng dưới trời vàng. Của những dấu chân nhảy nhót trên đồng cỏ, của môi hồng và của da nâu, một thân thể đương hoa phơi phới như một khoảng vườn xuân muôn hoa cùng nở. Ninh nhìn Sầu, nghĩ đến một vẻ đẹp khác. Vẻ đẹp đài các, kiêu hãnh. Tưởng như lạnh lùng nhưng không thiếu những nét khêu gợi riêng. Vẻ đẹp thiếu phụ của Trang.

Sầu là đẹp của ngày. Phơi bày và lộ liễu. Đẹp của mặt trời chói chang rực rỡ, nó phô bầy hết không che giấu, nó phơi mở hết không bắt người nhìn phải kiếm tìm thêm bằng những khám phá riêng. Đó là cái đẹp của Thúy Vân. Tròn, đầy, mạnh khỏe, rất vui và rất tươi, rất nhiều những cái mời chào, nhưng thiếu vắng những điều huyền hoặc. Đẹp của ngày như một con đường thẳng suốt, nhìn đầu đường gần thấy luôn được cuối đường xa. Nó nổi hết lên bề mặt. Nó nói hết trong một lần, ta nhận được đầy tay, nhận được hết từ một lần thứ nhất.

Trang trái lại, Trang là đẹp của đêm. Của một vòm trời sao đêm thăm thẳm. Thứ đẹp cao vút, không đáy, gây mơ mộng, và gây tưởng tượng. Đẹp của những con đường thấp thoáng bóng lá, không lộng lẫy nhưng huyền ảo, không thực tế mà bao phủ trong một không khí hoang đường. Đẹp cho người mơ màng. Chính cái đẹp là một mơ màng đẹp. Cái đẹp xui người ta nghĩ tới một cái gì không tới được, một cái gì chẳng thành hình thành nét như khói loãng như sương lan, cái đẹp không phân tích nhưng cảm thấy nó rõ ràng hơn mọi cái gì có thể thấy bằng phân tích.

Sầu ung dung đi bên Ninh, không một chút e dè ngượng ngập. Lúc Ninh trở lại cửa hàng, thiếu nữ Trung Hoa cũng vào theo. Sầu đi đi lại lại, nhìn ngắm bằng cặp mắt tò mò. Nàng gọi Ninh bằng “ anh”, ngon lành:

– Anh Ninh à!

– Gì đó?

– Ở đây không có được đâu?

– Tại sao không được?

– Tôi biết không được mà. Buồn chết.

Ninh gật gù, trêu nghịch:

– Tôi ở được.

Sầu vênh mặt:

– Chắc không?

– Chắc.

– Cuộc gì nào?

Ninh bật cười:

– Cô Sầu muốn đánh cuộc gì?

– Cuộc cái này. Nhưng chỉ sợ anh không chịu.

Ninh không sợ đánh cuộc. Nhưng chàng im vì chợt nhận thấy câu chuyện hồn nhiên sắp nghiêng vào một địa hạt nguy hiểm, không lường trước. Chàng nói, nghiêm trang:

– Đó rồi cô Sầu coi. Tôi không thích buồn. Nhưng tỉnh nhỏ này không buồn đâu. Hay chỉ buồn ở cái bề ngoài không đáng kể. Tôi về đây cũng không tìm cái buồn, tìm cái vui. Tôi về đây để làm giầu.

Sầu cười phá:

– Để làm giầu? Ở đây có gì đâu để anh làm giầu. Thôi tôi về. Về cho anh nghĩ đến chuyện làm giầu.

Sầu nhanh nhẹn đi ra. Nhìn từ phía sau lưng, cô gái Trung Hoa có một đáng đi uyển chuyển và trườn lăn của loài rắn. Sầu để lại trong không khí một mùi thơm của da thịt tươi, da thịt đó là một trái chín tròn đầy trong nắng. Một trái chín đợi chờ tay hái, rung rinh và mời mọc ở một đầu cành.

Nhìn theo Sầu, Ninh lắc đầu, mỉm cười và ngồi xuống ghế. Những khuôn mặt mới của tỉnh nhỏ, những khuôn mặt mới mà chàng vừa gặp, mang riêng từng hình ảnh của tâm tính, bản chất, lứa tuổi khác biệt nhau. Như ở bất cứ nơi nào. Tỉnh nhỏ này hay tỉnh nhỏ khác. Thành phố này hay thành phố kia. Người ta sống, mỗi người một lối. Và bởi vậy mà ở đâu cũng có những ngạc nhiên và những bất ngờ.

Duỗi dài chân dưới gầm bàn, Ninh vừa hút thuốc, vừa nhìn ra ngoài đường. Nắng đã thịnh. Buổi sáng đã muộn. Nhưng thành phố ở yên trong sự thư thái cố hữu. Một vài chiếc xe hơi chạy qua. Còi xe vang vang, lắng thấy thật lâu chưa mất.

Liền đó từ gian hàng bên cạnh, Hoa sang. Cô gái vẫn cầm trên tay một cuốn tiểu thuyết. Ăn mặc thật chải chuốt. Son và phấn lộ liễu. Hoa mặc một chiếc áo dài lòe loẹt, có những bông hoa lớn, đỏ chói.

Hoa bước vào, hơi cười cười, không chào, ném cho Ninh cái nhìn dò xét:

– Anh đang làm gì thế.

Sự có mặt của Hoa làm Ninh khó chịu. Chàng đang muốn được ngồi một mình, nghĩ ngợi vẩn vơ. Cau mặt, giọng Ninh lạnh lùng:

– Tôi không đang làm gì hết.

– Sầu vừa ở đây mà.

– Vừa ở đây. Nhưng không còn ở đây nữa.

– Nó là bạn tôi đó.

Giọng Hoa giễu cợt, lờ lững:

– Bạn thân lắm.

Hoa đi vòng lại phía sau lưng Ninh. Ninh vẫn ngồi yên, không quay lại. Tiếng Hoa, phía sau, nói chuyện về Sầu:

– Nó ghê lắm, mới bỏ nhà đi với trai đấy. Những một tuần lễ. Đi theo con ông chủ tầu Nam Kinh. Ồn lên. Cả tỉnh này ai cũng biết. Nó đi một tuần lễ rồi nó về, xem chừng cái thằng con trai ông chủ tàu Nam Kinh bỏ rơi nó sao đó. Nó bỏ nhà đi hoài à. Lúc nào chán lại mò về, Bố nó dữ đòn có tiếng, Trói vào hai chân giường mà đánh. Đánh bằng gậy lớn. Trói hai ngày liền. Mỗi ngày đánh đủ ba trận. Anh có nghe tôi nói chuyện không?

Ninh lạnh lùng:

– Vẫn.

Hoa cười, rất vô duyên:

– Thế mà tôi lại tưởng anh chẳng thèm nghe. Đánh mỗi ngày đủ ba trận. Trận nào cũng tan xương nát thịt. Nghĩ mà rùng mình. Chưa hết đâu, ông bố ông ấy đánh, còn dọa gọt trọc đầu, bắt trần truồng đuổi ra ngoài đường nữa: Cho ăn cơm, nhưng đổ cơm xuống đất, đói thì quỳ xuống, gục mặt xuống, ăn như chó ăn vậy. Thể mà Sầu nó cũng không có sợ đâu nhé. Mấy hôm sau ra bến cân hàng lại cười toe toét như không.

Không muốn nghe Hoa nói xấu Sầu hơn nữa, Ninh đứng lên:

– Cô Hoa không về bán hàng sao?

Hoa cười ngặt nghẽo:

– Anh định đuổi khéo tôi.

– Gần như thế. Tôi đóng cửa hàng đây.

– Anh về nhà?

– Chưa. Tôi đi đằng này.

Hoa chưa chịu thôi:

– Đi đâu?

– Đến một chỗ đàn bà không đến được.

Hoa bỏ đi rồi, Ninh cảm thấy cái hứng thú được ngồi trầm ngâm một mình đã tan biến. Chàng đi ra, khóa cửa lại. Buổi sáng kéo dài, chậm chạp và thừa thãi. Không khí lặng lờ và thời gian lê thê của châu thành bé nhỏ khiến Ninh liên tưởng tới Huế mà chàng đã có dịp viếng thăm một lần cách đây đã nhiều năm. Bấy giờ chàng vừa thi đậu, được cha mẹ thưởng bằng một chuyến du lịch thăm đền đài và lăng tẩm cố đô cũ. Vòm trời của sông Hương và của núi Ngự; của lăng tẩm và của những dẫy cổ thành trầm tư để lại trong trí nhớ Ninh hình ảnh một nghỉ ngơi buồn bã, lâu dài và vĩnh viễn. Đến Huế người ta bàng hoàng trước sư lặng lờ bất động của Huế. Đời sống lắng xuống. Hiện tại lảng xa cho quá khứ làm chủ.

Ninh còn nhớ mãi cái cảm giác đó; khi chàng đi từng bước trầm ngâm giữa vùng trang nghiêm thành tượng của lăng Tự Đức. Lần đầu tiên trong đời, mặc dầu năm đó, Ninh mới hai mươi tuổi, sức sống còn chan hòa, nhiệt tình còn lửa đỏ, Ninh chợt nghĩ đến cái chết. Ý nghĩ về cái chết làm hiện rõ cái ý nghĩa cuối cùng của một đời người. Mày đang sống, nhưng rồi mày phải chết. Mày còn trẻ nhưng rồi mày sẽ già. Mày còn đây hôm nay, nhưng ngày mai, mày tươi khỏe một đời, mày hồng hào một kiếp, mày cũng chỉ còn là hư vô và cát bụi. Chân lý đơn giản về cái mong manh hữu hạn của kiếp người; phải chờ đến một buổi trưa đìu hiu đi dạo một mình trong lăng Tự Đức, Ninh mới khám phá thấy. Một khám phá làm Ninh ngây ngất.

Nhớ ngày hôm đó, Ninh đã ở lại trong cái chu vi tĩnh mịch rêu phong của lăng Tự Đức rất lâu. Lòng lắng xuống. Trí bâng khuâng và hồn mơ màng. Buổi trưa trong lăng Tự Đức phảng phất bầu không khí nhẹ thênh của một cảm thông thoát tục. Những ý nghĩa khác về những vấn đề lớn lao hằng cửu của một đời người hiện ra. Hiện ra nhất loạt và đồng thời sáng tỏ. Sự sống. Cái chết. Cái hữu hạn và cái vô cùng.

Buổi chiều, đi chơi thuyền với một người bạn gái Huế vừa quen trên dòng sông Hương, Ninh nhớ chàng đã nói với cô bạn gái có mái tóc thề lướt thướt như một dòng suối là chàng yêu Huế, chính là ở chỗ xa vắng mọi dấu tích ồn ào bề mặt về đời sống thường nhật của Huế. Chàng cũng nhớ chàng đã nói đến sự mầu nhiệm của một ý nghĩ. Cô bạn Huế còn trẻ quá, nàng không hiểu được. Nàng chỉ cười. Nàng sung sướng vì chàng trẻ tuổi mới viếng thăm Huế lần đầu đã tỏ ra mến yêu thành thật thành phố thâm trầm và cổ kính là nơi nàng đã sống, đã lớn lên và muốn bỏ đi. Thuyền trôi lững lờ, dòng chảy dịu đàng. Ngự Bình xa xa cắt một nét buồn bã lên nền trời âm u. Thuyền trôi qua Linh Mụ. Chiều xuống. Sương lan đi trên mặt nước. Chiều mênh mông và sâu thẳm trong trời. Đó là một trong những buổi chiều đối với Ninh đáng ghi nhớ nhất. Và Ninh đã nhớ. Nhớ mãi không quên. Khuôn mặt dịu dàng và thanh xuân cửa người bạn gái in lên một nền chảy lặng lờ của con sông tưởng như không bao giờ gợn sóng. Cái đẹp của Huế, nhẹ, đã mất. Thoáng như khói sương, mang mang như một niềm ngờ vực.

Chuyến đi đó là một kỷ niệm. Ninh chỉ tiếc là nó quá ngắn. Chàng không đủ thời gian để đắm mình thêm nữa vào cái mà chàng muốn gọi là cái vùng hư không vô bờ và không màu sắc không tiếng vang của Huế. Hôm chàng trở về, cô bạn gái tiễn Ninh ra ga. Mưa phùn nhỏ hạt. Cô bạn nói:

– Bao giờ cũng vậy. Huế như thế.

Ninh không hiểu và cô bạn giải chích:

– Anh không thấy Huế đang mưa?

– Nghĩa là bao giờ Huế cũng mưa?

– Huế có những sáng nắng, những chiều mưa, không phải là lúc nào Huế cũng lướt thướt. Nhưng hình như Huế mưa, Huế phải mưa trong bất cứ một cuộc tiễn đưa, giữa bất cứ một phút chia ly nào.

Sân ga ướt loáng. Con tàu đội mưa, thở khói, chờ phút khởi hành. Chung quanh Ninh là những hình bóng áo tơi và những mái đầu nón lá. Cô bạn chỉ tay nói:

– Đó. Tiễn anh đi, và Huế đang mưa.

Tiếng người bạn gái đang vui, thốt nhiên trầm xuống, buồn lạ lùng:

– Huế khóc. Bao giờ Huế cũng khóc người đi.

Nhớ khi còi đã hú, con tầu rời sân ga, bánh sắt đã lăn mau trên đường sắt, mà ninh còn nhìn Huế một lần cuối cùng trong một cái nhìn dài. Mỗi thành phố có một đời sống, một định mệnh, một linh hồn riêng. Huế cũng vậy. Ra khỏi Huế và Huế đã mất. Như một vùng trời lùi xa. Một thế giới khép kín.

Sau đó, bao nhiêu lần Ninh đã tự hẹn với chàng là sẽ trở lại thăm viếng Huế như gặp lại một cố nhân. Để trầm tư với dòng sông Hương. Để đặt lại những bước chân trên con đường xưa vào lăng Tự Đức. Nhưng Ninh chưa được trở lại như chàng mong. Cuộc sống đẩy người ta đến những phương trời và những thành phố khác.

Những hình ảnh xưa cũ của một thành phố cỏ mọc từ một cuộc viếng thăm niên thiếu năm nào; trở lại trong hồi tưởng Ninh như một niềm ngậm ngùi dịu nhẹ. Tôi yêu những cái phảng phất. Tôi thích những cái mơ hồ. Những vang bóng bao giờ cũng làm tôi xúc động, những cái đã qua rồi, với tôi bao giờ cũng còn mãi cái đẹp mơ màng và buồn bã của những tàn hương.

Nhiều lần, giữa những buổi chiều mà nắng vàng bỗng vương màu thương nhớ, mái tóc thề trôi dài như một dòng suối của người con gái Huế gặp chỉ một lần lại chảy tới, lại trôi vào hồi tưởng Ninh. Như một dòng thơm. Như một ảo giác. Nhiều năm tháng qua đi trong cuộc đời chàng, trí nhớ như một tấm gương trong suốt nay đã mờ đần. Ninh không còn nhớ rõ được nét mặt của người thiếu nữ Huế mà chàng biết là thanh thoát như một nhành lan núi. Có gặp lại, không chừng Ninh chẳng nhận được ra. Quá khứ xa thẳm trở thành một khoảng thời gian xa lạ. Trắng toát. Không màu sắc. Quá khứ đó đã hoàn toàn thuộc về quá khứ. Với bây giờ, quá khứ đó ở bên kia những đại dương và những chân trời. Nhưng một vài mẩu một vài đoạn của cái hiện tượng mịt mùng thăm thẳm ấy còn vương sâu trong tiềm thức. Một nửa khuôn mặt. Một phần mái tóc. Một góc nụ cười. Một đầu ngón tay. Những hình ảnh không toàn vẹn đó lặn lặn chìm chìm, ẩn ẩn hiện hiện, lúc thoáng hiện như chiêm bao, thoát sau đã mất tăm, đã nhạt nhoà dấu tích. Ninh thường nghĩ, chàng thường muốn nghĩ như vậy, không hiểu tại sao, có lẽ tại vì nó buồn và nó mộng, là người thiếu nữ sông Hương xưa đã lấy chồng. Từ lâu. Và từ lâu đã quên chàng. Quên. Hẳn thế.

Chính chàng với Huế cũng chỉ còn là một ảnh hình quá khứ. Nàng đã sang sông. Lên xe hoa. Về nhà chồng. Người thiếu nữ tiễn chàng đi trên sân ga của Huế mưa bay đã chết. Cuộc đời giết chết, làm đứt đoạn và bắt phải trôi qua, bắt thành quá khứ nhiều cái đẹp lắm. Những cái đẹp, đẹp nhất của một đời người. Một tuổi vàng lộng lẫy. Một niên thiếu bông hoa. Một mối tình đầu. Một mùa xuân cũ. Ý nghĩa của quá khứ này sinh từ những cái nghìn vàng đã mất. Quá khứ là nhớ thương. Quá khứ nõn nà buồn. Quá khứ là chớp chớp hàng mi tơ liễu, rưng rưng khóe mắt, nghiêng nghiêng mái đầu, quá khứ là cái đã qua rồi trở thành mộng tưởng.

Phải, trăm ngàn người thiếu nữ, như Hoa, như Sầu, chân mười chín chưa đi trên màu hồng pháo cưới nhưng người thiếu nữ Huế năm xưa, nàng đã xuống thuyền sang với nhữag bờ bãi bên kia, từ lâu. Rất lâu. Lâu lắm. Ngay năm đó.

Ngay năm Ninh gặp nàng. Ngay sau trận mưa phùn thả giọt trên sân ga và trên chuyến tàu tiễn biệt. Và Ninh tưởng tượng. Thế nầy: nhà nàng xinh nhỏ, có nhiều bóng cây, có nhiều bóng mát, căn nhà nghiêng bóng xuống dòng sông Hương, sông Hương như nỗi yên tâm êm ái nhất của tâm hồn. Căn nhà có vườn vây quanh. Buổi sáng chim hót. Buổi chiều nắng tàn. Đêm nghe thấy vọng vào tiếng nước rì rào trên bãi. Vùng trời quê hương êm ả ấy là cái thế giới của nàng, mãi mãi. Không xao xuyến. Không đổi thay. Vẫn những đám mây ấy. Vẫn nền trời xanh kia. Vẫn những con đường cỏ mọc, dẫy núi tím về chiều, gió thổi đưa triều lên, Hương Giang nghìn xưa, Ngự Bình quen thuộc. Đời người đàn bà đã có chồng là một mặt hồ khuất lánh trong nội địa. Nó buồn bã êm ả như không. Nó không còn ngạc nhiên. Nó đã hết bàng hoàng. Nó đã thôi xao động. Nàng sống sau một bức mành trúc, trong lãng quên, nàng sống trong cái thế giới vĩnh viễn của nàng là hình ảnh một lưu đày êm ái. Nàng quên hết rồi. Ngày lại ngày qua. Huy hoàng cũ và lộng lẫy xưa chỉ còn là những kỷ niệm gói kín như những đồ vật bỏ quên lâu ngày. Bụi phủ xuống. Nắng tàn đi. Mưa phùn rồi mưa phùn. Từng mùa qua từng mùa qua. Đôi khi nàng ra đứng trên bờ sông, ngó xuống mặt nước, thấy mây trời bay, nàng mơ hồ nghĩ rằng có một khuôn mặt nào đó, rất xưa, nàng gợi lại mà không thành hình nét.