Phần Một Ký Ức Chương 1 Mong manh xứ sở thần tiên
Tôi sinh ra vào mùa đông ở Kashmir. Làng tôi nằm trên rìa một rặng núi ở vùng phía nam của Anantnag. Bao quanh những ngôi nhà được đắp bằng bùn và gạch là những cánh đồng lúa xanh mướt vào đầu hè và vàng ươm khi thu đến. Vào mùa đông, tuyết trượt chầm chậm từ trên mái nhà của chúng tôi rồi đổ uỵch xuống mặt cỏ. Tôi và đứa em trai cùng đắp những thằng người tuyết với đôi mắt làm bằng những mẩu than vụn. Và khi mẹ bận rộn với việc nội trợ và Ngoại đi ra ngoài, chúng tôi phóng lên mái nhà, bẻ mấy cục nước đá trên đó, trộn chúng với hỗn hợp sữa và đường ăn cắp ở nhà bếp rồi cùng ăn món kem tự chế của mình. Bọn tôi thường đi trượt tuyết trên sườn đồi, nhìn xuống làng mình hoặc chơi cricket trên một cái hồ đóng băng. Chúng tôi cũng liều, vì chơi như thế có thể bị Ngoại, cũng là hiệu trưởng của trường tôi, mắng mỏ hoặc đánh đòn. Nếu bắt gặp chúng tôi chơi cricket vào mùa đông, ông sẽ bộc lộ chủ trương chú trọng sách vở hơn là cricket bằng tiếng quát tháo khiếp đảm: “Cái lũ ăn hại!” Nghe tiếng quát quen thuộc của ông, mấy đứa chơi cricket tản ra và lẩn đi mất. Không chỉ lũ cháu ngoại mà tất cả trẻ con trong làng đều sợ ông thầy hiệu trưởng như lính sợ quân luật.
Những chiều mùa đông, Ngoại và mấy người hàng xóm ngồi trước những cửa tiệm và sưởi ấm bằng kangris , một loại bình giữ lửa tiện dụng, rồi tán gẫu, hoặc nói chuyện tuyết rơi sẽ ảnh hưởng thế nào đến vụ mù tạt vào mùa xuân. Sau khi thầy tu báo giờ triệu tập cuộc lễ chiều, họ rời các cửa tiệm để về nhà, cho đàn gia súc ăn, cầu nguyện ở đền thờ trong làng, rồi quay lại mấy cửa tiệm đó để trò chuyện tiếp.
Mùa xuân là mùa của những đồng cỏ và sườn núi xanh mơn mởn, của tuyết hồng và những thảm hoa mù tạt vàng trải rộng trên những cánh đồng bao quanh làng chúng tôi. Trên đài phát thanh Kashmir, người ta phát những bài hát bằng tiếng Kashmir ca ngợi những đóa hoa trên đồng cỏ và các chú sơn ca đậu trên cành liễu. Bài hát yêu thích nhất của tôi kết thúc bằng điệp khúc: “Và bầy sơn ca hát với những đóa hoa rằng: đất đai của chúng ta là một khu vườn!” Khi chúng tôi phải thu hoạch vụ mùa, hàng xóm và bạn bè sẽ cử người đến giúp và đến lượt họ, chúng tôi sẽ giúp lại. Bạn không bao giờ cần một lời đề nghị trịnh trọng trước đó nhiều tuần lễ. Lúc nào cũng sẽ có người đến giúp bạn.
Trong vụ mùa, giáo sĩ Akhoon, người không chịu tin là Neil Armstrong đã đặt chân lên mặt trăng, than phiền về lượng người đi lễ thưa thớt ở đền thờ của làng. Tôi phải cố nén cười khi dân làng vì nôn nóng quay về với việc trồng trọt, đã giả vờ ho trong lúc cầu nguyện để cho ông ấy kết thúc nhanh hơn. Ông thỏa hiệp bằng cách đọc những đoạn kinh Koran ngắn hơn. Sau đó trong ngày, ông sẽ trở lại đồng ruộng để thu tiền cúng của mùa, cũng là tiền công của ông cho việc dẫn dắt các cuộc cầu nguyện trong đền thờ.
Vào mùa hè, sau khi thu hoạch mù tạt chúng tôi gieo mạ. Những ngày trong tuần, trước khi đến trường tôi và đứa em mang mấy ấm samovar đựng trà kahwa [1] , thoang thoảng mùi nghệ tây, quả hạnh và quế cho những người làm công ở cánh đồng nhà mình. Cuối tuần, tôi phụ khiêng các bao đựng hạt giống đến vườn ươm. Mẹ, các dì và những người phụ nữ khác, từng hàng, khom lưng trên những cánh đồng tốt tươi, gieo trồng và ca hát.
Ngoại canh chừng gã nông dân thuê đất cạnh đồng nhà tôi. Mỗi khi thấy gã đi về hướng đồng nhà mình, Ngoại lại quay sang bảo tôi: “Này, con thấy ai không?” “Con thấy con Vện [2] ạ.” Tôi đáp. Và chúng tôi cười phá lên. Vóc người thấp, dẻo dai với khuôn mặt nhăn nhúm, gã Vện chuyên đầu têu những chuyện dẫn đến cãi vã, như tháo nước sang đồng của hắn hay dùng xẻng cào đất ruộng nhà chúng tôi để làm mảnh ruộng thuê của hắn rộng thêm vài phân.
Gã Vện, Ngoại và tất cả dân làng đều lo lắng về tiết mây và những trận mưa. Mưa không đúng lúc có thể làm hỏng mùa màng. Người ta nói, nếu có mây ở đường chân trời phía bắc thì sẽ có mưa. Và vào khoảng xế chiều, nếu thấy những vệt đỏ trên bầu trời, họ sẽ nói, “Chắc có một vụ giết người ở đâu đó. Nếu ai đó bị giết, bầu trời sẽ chuyển sang sắc đỏ.”
Đến mùa thu, chỉ trong vài tuần trà kahwa là lúa đã được đập xong. Thóc được chứa trong những vựa gỗ và mấy đụn rơm cứ cao dần lên như những trái núi nhỏ, xung quanh là mấy đứa trẻ con chơi trò trốn tìm. Táo trong vườn sẽ được hái, phân loại và đóng vào những chiếc thùng mỏng bằng ván liễu rồi bán cho lái thương. Bởi lũ trẻ trong làng hay ăn trộm táo, tôi và đứa em trai phải thay phiên nhau canh chừng sau khi đi học về. Rất ít đứa dám trộm trong vườn chúng tôi, bởi bọn nó sợ Ngoại. “Nếu hôm nay chúng ăn trộm táo thì ngày mai chúng sẽ ăn cướp ngân hàng. Mấy thằng bé này lớn lên sẽ giống như thằng Janak Singh,” Ngoại nói vậy. Nhiều năm trước, gã Janak Singh ở làng bên đã giết một người bảo vệ trong lúc cướp ngân hàng. Gã bị bắt và lãnh án mười bốn năm tù. Trước và sau vụ đó không có ai trong vùng chúng tôi giết người cả.
Trên đường từ nhà đến trường trong những buổi trưa, giữa những năm tám mươi, tôi thường nhìn chằm chằm vào ngôi nhà mái lợp rạ của gã Janak Singh qua cửa sổ xe buýt như thể nếu nhìn nó thêm lần nữa thì có thể khám phá thêm vài điều bí mật. Nhà tôi, một hình hộp chữ nhật ba tầng xây bằng gạch đỏ và gỗ đánh véc-ni, mái lợp tôn, chỉ cách đường cái chừng một dặm. Tôi sẽ đứng trên bậc cửa và nhìn xe buýt chở khách du lịch chạy ngang qua. Đám xe buýt sặc sỡ chở khách tham quan từ những thành phố xa xôi như Bombay, Calcutta và Delhi và cả rất nhiều angrez – từ dùng để chỉ người Anh và từ duy nhất chúng tôi dùng để chỉ người phương Tây. Các angrez rất thú vị. Một số để tóc rất dài và một số cạo trọc. Họ chạy những chiếc mô tô to đùng và có khi còn cởi trần nữa. Chúng tôi vẫy tay với họ và họ vẫy tay lại. Tôi đã hỏi một người hàng xóm làm trong khách sạn, “Sao người angrez đi du lịch còn chúng ta thì không?” “Bởi vì họ là angrez còn chúng ta thì không,” ông nói. Nhưng tôi cũng đoán ra được lý do. Họ phải đi du lịch để được nhìn thấy Kashmir chứ.
Cha mua cho tôi một cuốn từ điển truyện tranh của Mỹ, loại sách dạy từ vựng qua những truyện Siêu nhân, Người dơi và Robin và Tia chớp . Tôi thường đọc nó dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu và nghĩ, nếu Tia Chớp sống ở Kashmir, chúng tôi có thể nhờ anh ta sửa nguồn điện chập chờn của nhà mình. Tôi thích đọc truyện tranh hơn mớ sách Ngoại muốn tôi đọc cho tinh thông. Người ta đã thêm thắt những câu chuyện mới vào tuyển tập các huyền thoại của xứ Ba Tư và Kashmir mà tôi đã được nghe kể bởi bà ngoại và ông giúp việc Akram của chúng tôi – những huyền thoại đại loại như chuyện cổ tích về tình yêu của chàng Farhad dành cho nàng Shirin. Ông Akram luôn bắt đầu câu chuyện bằng cách kể, “Chuyện kể rằng, ngày xửa ngày xưa ở Iran, có một hoàng hậu xinh đẹp tuyệt trần tên là Shirin...” Chàng điêu khắc trẻ Farhad đã phải lòng Shirin và cứ quanh quẩn gần bên, tìm kiếm một ánh mắt của nàng. Thời gian trôi qua, Shirin bắt đầu thấy thích chàng. Chồng nàng là vua Khusro nổi cơn thịnh nộ và các quan tham mưu của vua dâng lên một kế sách nhằm trừ khử chàng: nàng Shirin sẽ thuộc về chàng nếu chàng có thể đào một con kênh từ ngọn núi Behistun xa xôi đến cung điện. Shirin nói với Farhad về nhiệm vụ bất khả thi này và chàng tình-nhân nghệ-sĩ đến ngọn núi với cái mai đào đất của mình. Farhad đã quần quật làm việc một mình nhiều năm trời, đẽo núi đá, gào tên người mình yêu và tạc khuôn mặt nàng Shirin vào vách đá dọc theo con kênh.
Khi con kênh sắp sửa hoàn thành, vua Khusro rất lo lắng khi nghĩ đến việc phải giữ lời hứa và để vợ mình lấy một người đàn ông khác, một phó thường dân. Những quan tham mưu của vua đã hiến kế: họ đưa một mụ già tới ngọn núi để báo với Farhad rằng nàng Shirin đã chết.
Điều này sẽ bẻ gãy quyết tâm của Farhad và làm chàng bỏ dở việc đào kênh. Farhad đang quần quật làm việc thì một mụ già đến, khóc lóc, nghẹn ngào không nói nên lời. “Sao bà lại khóc?” chàng hỏi. “Ta khóc thương một sắc đẹp đã chết,” mụ nói. “Và ta khóc thương con, chàng trai dũng cảm ạ!” “Khóc thương con ư?” Farhad ngạc nhiên hỏi. “Con đã xẻ núi, chàng trai dũng cảm! Nhưng người con yêu, nàng Shirin xinh đẹp đã chết rồi!” Farhad đã tự đánh gục mình bằng chiếc mai và ngã xuống, tiếng gào cuối cùng của chàng vang rền qua những ngọn núi: Shirin nàng ơi!
Gia đình tôi ăn tối cùng nhau trong gian bếp đồng thời là phòng khách, cùng ngồi quanh một tấm thảm dài màu vàng trải trên sàn, dọc đường biên của nó là những dòng thơ tiếng Farsi [3] và Urdu [4] được viết bằng mực đen ca ngợi vẻ đẹp của lòng hiếu khách. Bữa tối thường bắt đầu với cảnh ông ngoại dựa lưng vào chiếc đệm ở giữa phòng và quay sang mẹ tôi: “Hama à, có vẻ như hôm nay mẹ con sẽ bỏ đói chúng ta đấy.” Bà ngoại sẽ ngừng bập bập cái ống tẩu [5] và nói, “Tôi đang nghĩ đến những lời cầu nguyện buổi tối. Nhưng thôi, để tôi cho ông ăn trước đã.” Rồi bà sẽ thong thả đến bên chiếc ghế gỗ của bà ở gần lò sưởi, bên trên là chén đĩa bằng đồng tráng thiếc đặt trên nhiều kệ khác nhau. Mẹ sẽ bỏ bộ kim đan hay mớ bài vở học trò của mẹ xuống và nhanh chóng đến sắp xếp chén đĩa gần chỗ “ngai vàng” của bà. Tôi sẽ cho nước vào vại và lấy riêng một chậu để rửa tay. “Gọi đám con gái đi,” mẹ sẽ nói thế và tôi sẽ chạy lên lầu gọi các dì xuống ăn tối.
Hai người dì trẻ – Tasleema và Rubeena – sống cùng chúng tôi, những dì khác đã có chồng nhưng thường xuyên ghé thăm cùng chồng và con họ. Dì Tasleema như con mọt sách, lúc nào cũng cắm đầu vào những cuốn sách hóa học và động vật học dày cộp hoặc chuẩn bị mấy bài thuyết trình cho nhóm tranh luận ở trường đại học và còn tập các điệu bộ bằng tay trước gương. Dì Rubeena không quan tâm lắm đến sách vở nhưng đặc biệt thích những cuốn tạp chí phụ nữ, truyện trinh thám và những bài hát Bollywood luôn được mở nho nhỏ trong chiếc máy thu thanh được đặt có tính toán bên cạnh dì để được tắt thật nhanh nếu dì nghe có tiếng ai đó đi lên lầu.
Chúng tôi sẽ ngồi thành vòng tròn xung quanh ông ngoại và cùng ăn. Hầu hết những lần chúng tôi nấu thịt, ông cắt một phần của mình rồi để vào dĩa của tôi và kêu dì Tasleema mang một ly sữa cho ông Akram, người hẳn mệt mỏi sau một ngày dài làm việc trong vườn hay ngoài đồng.
Vào buổi sáng, chúng tôi sẽ tụ tập quanh chiếc ấm samovar đựng hồng trà mằn mặn và sau đó ông ngoại và mẹ sẽ đi dạy, còn các dì, em trai tôi và tôi đi học. Trường tôi là một tòa nhà gỗ xập xệ trong thị trấn nhỏ cạnh Mattan, được đặt là Lyceum. Ngày thứ bảy đồng nghĩa với các bài vấn đáp, các cuộc thảo luận và thi viết luận. Một lần tôi giành được giải nhất – phần thưởng là ba cây bút chì than và hai cuốn tập được gói trong giấy hồng – cho bài viết về những mối nguy của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Hiroshima và Nagasaki rồi mấy trái bom có tên kỳ lạ – Thằng Bé [6] và Ông Mập [7] – chỉ là những cái tên được học thuộc lòng cho một kỳ kiểm tra. Tôi quan tâm hơn đến việc tập chạy xe đạp, chơi cricket cho đội của trường và chộp lấy phần bánh fireen (một loại bánh pút-đinh ngọt làm bằng hạnh nhân, nho khô, sữa và bột hòn, trên mặt là những hạt anh túc, được dùng vào lúc nghỉ ngơi trong những buổi cầu nguyện thâu đêm ở đền thờ trước lễ Eid) hoặc cố kéo dài thời gian ăn uống trước bình minh trong kỳ lễ Ramadan [8] .
Chúng tôi thức dậy trước bình minh rất lâu trong thời gian diễn ra lễ Ramadan. Bà ngoại và mẹ hâm nóng thức ăn và món trà mặn truyền thống. Ông ngoại đọc kinh Koran, còn Wajahat em trai tôi và tôi ngáp vắn ngáp dài cho đến lúc ăn. Chúng tôi ăn nhanh để khỏi phải ngưng bữa khi nghe gọi cầu kinh. Chúng tôi thường cắn thêm vài miếng sau khi nghe azaan, tiếng nhắc nhở cầu nguyện, rồi ngó ra cửa sổ bếp và quay lại nói, “Ta không thể thấy được lông cánh tay nếu không có ánh sáng nhân tạo.” Câu thành ngữ này có từ xa xưa khi chưa có đồng hồ. Người ta xác định rạng đông bằng cách nhìn vào cánh tay mình. Nếu họ có thể thấy được lông cánh tay, thì họ biết đó là thời điểm rạng đông và ngừng ăn. Dù đã có những chiếc đồng hồ điện tử của Nhật, truyền thống này vẫn có ích khi bạn đang cố nuốt thêm một ít trà và ăn thêm một miếng gì đó. Ông ngoại, một người ăn rất ít, sẽ nhắc nhở chúng tôi mục đích của việc nhịn ăn: “Để hiểu thế nào là đói và học cách cư xử tử tế với người nghèo.”
Đến cuối kỳ lễ Ramanda, việc nói về ý nghĩa của sự nhịn ăn thưa dần, tôi và em trai càng thêm háo hức về lễ Eid. Vào tối ngày hai mươi chín, mọi người tràn trề hy vọng tìm kiếm trên bầu trời một mảnh trăng non bàng bạc báo hiệu thời gian nhịn ăn đã qua. Nhưng vầng mặt trời màu cam dường như còn do dự sau những đỉnh núi nhấp nhô, như thể nó đang bị cầm tù trong đêm. Tất cả trẻ con trong làng sẽ đứng trong sân nhà chúng tôi nhìn chăm chú về phía đường chân trời khi nó chuyển dần từ sắc đỏ sang cam rồi sang xanh thẫm. Chúng tôi nhìn và hét toáng lên với nhau, “Mày thấy nó chưa?” “Chưa.” Ngay sau đó chúng tôi sẽ chạy lên cầu thang nhà mình, tiếp tục cuộc tìm kiếm qua những ô cửa sổ. Tiếng hò hét của bọn tôi ngày càng lớn khi bọn tôi chạy từ tầng một lên tầng hai rồi đến tầng ba. Nếu vầng trăng lưỡi liềm vẫn còn lẩn khuất, tôi và thằng em sẽ vọt xuống nhà bếp, nơi ông ngoại đang dò hết đài này đài khác, hy vọng nghe được một tin về việc mảnh trăng lưỡi liềm xuất hiện.
Trong suốt lễ Eid, sáng nào mẹ cũng pha trà kahwa . Em trai và tôi đi theo cha và ông ngoại ra khoảng đất trống trên sườn núi nhìn xuống ngôi làng thấp thoáng những cây óc chó, khoảng đất đó được dùng làm Eidgah – nơi hành lễ một năm hai lần của làng dành cho những dịp cầu nguyện của lễ Eid và được đánh dấu bằng một cái bục vòng cung đặt ở góc hướng tây, nơi vị Imam [9] dẫn dắt lễ cầu nguyện và thuyết giảng. Chúng tôi gặp bà con và bạn bè trên đường đi. Ai cũng mặc đồ mới và cười hết cỡ. Chúng tôi ngồi thành những dãy dài trên những chiếc chiếu đay được mang đến từ đền thờ của mình. Những lần cầu nguyện chỉ kéo dài vài phút, nhưng theo sau là một bài thuyết giảng dài. Năm nào ông giáo sĩ cũng giảng bài đó và tôi với đám bạn đều tìm cách chuồn ra ngoài. Cha mẹ, bà con và hàng xóm cho chúng tôi tiền để mua đồ chơi và bánh quy.
Đám trai tráng trong làng sẽ mướn một xe buýt để đến rạp xinê Thiên Đường ở thị trấn Anantnag cạnh bên và xem bộ phim mới nhất của Bollywood [10] . Tôi không được phép đi theo họ, nhưng khi họ quay về, tôi mê mẩn nghe kể lại từng chi tiết của bộ phim. Tôi liên tưởng các phim của họ với những khuôn mặt trên các biển quảng cáo phim. Những tấm bạt phủ đầy các màu đỏ vàng, lục và nâu, được treo lên các cây cột điện dọc theo đường làng hay lên chiếc tonga, loại xe ngựa kéo, rồi được chở vòng chiếc loa qua quanh làng mỗi tuần một lần trong lúc người phát thanh đứng bên cạnh người đánh xe ngựa, gọi là tonga wallah, thông báo qua chiếc loa về bộ phim mới đầy kịch tính. Mỗi poster đều được chắp ghép những cảnh lâm li cao độ: một anh hùng vận áo sơ mi xanh lá và quần tây xanh dương đang giận dữ, lăm lăm trong tay khẩu súng lục, trên mặt máu chảy thành dòng; một phụ nữ vận tấm sari [11] đỏ bị trói vào cột bằng dây chão, tóc tai rũ rượi và gương mặt thì hoang mang; một tên côn đồ với bộ ria mép bóng bẩy, mặc com-lê vàng, miệng ngậm tẩu hoặc cười đểu giả.
Tôi làm bài tập vào hầu hết buổi tối. Một tối nọ tôi bị xao nhãng bởi giai điệu một bài hát Bollywood vọng sang từ nhà hàng xóm. Tôi cắm mặt vào quyển vở, nhưng tiếng nhạc làm người tôi bồn chồn, không yên. Tôi cố tập trung vào những bài toán cộng nhưng không ra được đáp án đúng. Ông ngoại bạt tai tôi và bỏ ra khỏi phòng. Đứa học trò nào cũng bị vài gậy hay bạt tay vì tội không làm bài tập đàng hoàng. Ngoại đã cố gắng không để tiếng nhạc vang lên trong nhà tôi, bất kỳ cái gì ông cho rằng không thuộc về đạo Hồi đều bị cấm. Cách diễn giải cứng nhắc của đạo Hồi cho rằng âm nhạc – ngoại trừ ở đám cưới – là phi Hồi giáo. Mohammed Iqbal [12] , nhà thơ viết tiếng Urdu vĩ đại và triết gia của tổ tiên người Kashmir, học triết ở Munich, chịu ảnh hưởng của Nietzsche, tuyên truyền thứ lý tưởng về giới trẻ đạo Hồi tựa như siêu nhân, lại được chào đón. Những nữ diễn viên Bollywood nhảy múa quanh các thân cây, hát những bài ca ngợi tình yêu và khát vọng có thể đưa đến một sự tụt dốc và tệ hơn nữa: một đức tin bị mềm yếu. Có một lần tôi không đứng đầu lớp và phải trốn dưới gầm giường của cha tôi để thoát một trận đòn. “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi,” Ngoại rất thích nói như vậy. Ông bỏ hai tiếng đồng hồ mỗi tối để dạy tôi học, kiểm tra bài tập của tôi, mỉm cười khi hài lòng và la mắng khi thất vọng. Ngoại muốn tôi giống như người học trò xuất sắc nhất của ông: cha tôi.
Vào cuối những năm 1960, khi đang dạy tại một trường cấp ba ở làng bên, Ngoại để ý đến một cậu học trò lớp tám. Ahmad thông minh nhất trường và cũng nghèo nhất trường – một cậu bé mồ côi được nuôi bởi anh chị họ, cậu bé mặc toàn quần áo cũ thùng thình và mang dép dùng trong nhà tắm thay vì mang giày. Ngoại cảm thấy nếu được giáo dục tốt và được sự hỗ trợ của gia đình, Ahmad có thể tiến xa và ông thường nói với bà ngoại về cậu. “Đi nói chuyện với gia đình nó đi. Chúng ta có thể hỗ trợ nó,” bà nói với người chồng trẻ của mình. Và thế là ông trở thành thầy kèm cặp kiêm người cha không chính thức của cậu bé Ahmad.
Ahmad dạy ở một trường tư thục trong khi học đại học. Sau khi tốt nghiệp anh làm giáo viên cấp ba, giống như ngoại tôi. Rồi một số bạn bè của Ngoại gợi ý ông nên gả Ahmad cho cô con gái lớn nhất của ông là cô Hameeda, người cũng đã tốt nghiệp đại học và trở thành cô giáo. Ahmad và Hameeda quen biết nhau từ thời đi học. Họ ưng thuận lời mai mối và lấy nhau. Một năm sau, Ahmad vượt qua kỳ tuyển chọn khắc nghiệt vào ngành hành chính dân sự của Kashmir và được bổ nhiệm làm thẩm phán. Và rồi tôi, đứa con trai đầu lòng của họ, ra đời vào mùa xuân năm 1977. Công việc ở những thị trấn khác nhau trên khắp Kashmir làm ông gần như vắng nhà suốt.
Vào những năm tám mươi, hầu như tối thứ bảy nào trong thời thơ ấu của tôi cũng có một chiếc xe jeep hiệu Willys chạy về làng tôi ở phía nam Kashmir. Nó sẽ chạy theo con đường trông như một dải ruy băng màu đen ngăn cánh đồng lúa bát ngát với cánh đồng mù tạt trong một thung lũng nhỏ được trấn giữ bởi dãy Himalaya linh thiêng. Những ngôi nhà hai, ba tầng bằng gạch và bùn có mái lợp tôn và rạ hướng mặt ra đường. Hầu hết được xây bằng gạch trần và dù một số được sơn phết sáng sủa, bụi thời gian đã phủ một màu nâu sẫm lên những cánh cửa sổ và cửa đi làm bằng gỗ thô sơ. Cứ ba nhà thì có một nhà sửa gian tầng trệt thành cửa tiệm. Dân làng ngồi trên bục gỗ trước các cửa tiệm, nói chuyện chính trị và các trận cricket, vẫy tay mỗi khi có xe jeep chạy qua. Một người đàn ông không cao lắm khoảng ba mươi tuổi, hầu như lúc nào cũng mặc vét, thắt cà vạt cùng màu và mang giày hiệu Bata, sẽ giơ tay phải của ông ta lên chào. Ông có đôi mắt sâu màu nâu thẫm, chiếc mũi dọc dừa, hai má hồng đầy đặn và một cái bụng bắt đầu phệ. Chiếc Willys sẽ từ từ dừng lại ở bãi đất của làng, cách không xa lắm biển chỉ đường màu xanh dương và xanh lá cây viết tên làng chúng tôi: SEER, cây số 0.
Cha sẽ bước ra khỏi chiếc xe jeep, đi ngang qua tiệm rau và tiệm thuốc tây để đến chỗ chúng tôi. Những người ở trước các cửa tiệm sẽ nói, “Ngài Sahib đã về.” Họ đứng dậy, đồng thanh chào rồi bắt tay chào mừng ông về nhà. Người đầu tiên cha bắt tay là Ngoại, người hẳn sẽ đỏ ửng mặt vì hãnh diện. Tôi sẽ chạy về phía cha và vơ lấy chồng sách báo và hồ sơ văn phòng ông đang mang. Ông sẽ ngồi xuống góc thường lệ của mình trong phòng khách, nhìn ra đường. Tôi sẽ chạy đến tiệm bánh mì gần hiệu thuốc tây để mua bánh mì mới ra lò. Mẹ sẽ mang ra một ấm samovar đang sôi đựng noon chai, một loại hồng trà mặn của Kashmir.
Cha kể cho tôi nghe những câu chuyện trong sách báo và khuyến khích tôi đọc các tạp chí tin tức, trả lời những câu hỏi của tôi trong lúc uống vài tách trà. Trong một lần như vậy, ông nói là ông muốn tôi tham gia vào bộ máy hành chính dân sự của Ấn Độ khi tôi lớn. Đó là một kỳ sát hạch chuyên nghiệp khó hơn kỳ thi vào hệ thống hành chính của tỉnh Kashmir, nghĩa là sẽ dẫn đến một vị trí cao hơn vị trí của cha tôi hiện tại. “Cha không có được nguồn lực và thời gian như con,” mẹ nói. Cha bắt đầu chuẩn bị cho tôi, đem về cho tôi những cuốn sách dành cho trẻ con, viết về chính trị, lịch sử và văn chương Anh, như cuốn Các câu chuyện của Shakespeare của hai chị em Charles và Mary Lamb hay cuốn Một trăm cuộc đời vĩ đại . Chúng tôi sẽ cùng đọc với nhau mỗi khi cha về nhà. Một trong những vị anh hùng của ông là Abraham Lincoln và ông kể rất nhiều về việc Lincoln đã đọc sách dưới ánh nến và bằng sự chăm chỉ cùng với tính trung thực, đã trở thành tổng thống của nước Mỹ như thế nào. Trong vòng vài năm, chúng tôi đã chuyển sang đọc Othello, Hamlet và Người lái buôn thành Venice vào những ngày chủ nhật. Mặc dù cuộc sống hoàn toàn yên bình, tôi đã bắt đầu có một cảm giác mơ hồ về nền chính trị hỗn loạn ở Kashmir. Năm 1986 Ấn Độ và Pakistan thi đấu với nhau trong trận chung kết của giải cricket tại Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất. Vào ngày diễn ra trận đấu, không khí trên chuyến xe buýt tôi đi từ trường về nhà rất sôi động. Đàn ông, đàn bà, trẻ em – một số đứng ở lối đi, số khác ngồi trên ghế – tụm lại quanh mấy chiếc radio, rướn người lên lắng nghe từng lời bình luận. Đội Pakistan đang rượt đuổi tỉ số với đội Ấn Độ và số lượng banh họ được đánh đang giảm đi nhanh chóng. Tôi đứng trong cái góc đằng sau ghế tài xế và để ý bác tài đạp chân ga mạnh hơn và liên tục bỏ tay ra khỏi vôlăng để tăng núm âm lượng chiếc đài bán dẫn trên bảng điều khiển xe. Mọi người đều muốn về nhà để kịp xem phiên cuối của trận đấu. Mỗi lần Javed Miandad, cầu thủ đánh banh của đội Pakistan, bỏ lỡ một trái, cả xe buýt bùng nổ trong những câu chửi rủa. Mỗi lần anh ta đánh trúng banh và ghi điểm, chúng tôi thét lớn phấn khích.
Chiếc xe buýt dừng lại ở một cái chợ bé xíu gần nhà tôi. Những đám đông phấn khích đang tụ tập ở hiệu thuốc và tiệm thịt. Trận đấu đang đến hồi kết thúc. Ông già hàng thịt Abu đang bặm môi. Tôi vọt thật nhanh về nhà để bỏ cặp. Trong phòng khách nhà tôi, ông, các dì và mẹ ngồi quây xung quanh cái radio. Trên chiếc chiếu cầu nguyện bà ngoại ngồi hướng về Mecca [13] , cầu viện một sự giúp đỡ siêu nhiên cho đội Pakistan. Tôi phóng ra ngoài và nghe bình luận viên nói, “Đội Pakistan cần ba đợt chạy trong một đường banh để thắng trận này. Chetah Sharma sẽ đánh banh cho Javed Miandad từ đầu bên kia sân.” Đám đông im bặt, căng thẳng. Tay Abu rũ xuống hai bên người. “Không có cơ may nào. Không có một cơ may nào!” Ông chộp lấy cái radio của mình rồi đập nó xuống đường. Chúng tôi nhìn những mảnh vỡ văng tung tóe, rồi tụ tập lại quanh cái radio của ông dược sĩ. Chetah Sharma, người giao banh đội Ấn Độ sắp sửa giao trái banh quyết định của trận đấu cho Miandad, cầu thủ đánh banh đội Pakistan. Bình luận viên nói với chúng tôi là Miandad đang lướt nhìn quanh sân, cân nhắc xem sẽ đánh banh đi đâu khi nó bay đến chỗ anh. Rồi anh ta cúi đầu về hướng tây, hướng Mecca, cầu nguyện. Anh ngẩng đầu lên và đối mặt Sharma, người đang chạy về phía tam trụ môn [14] . Sharma đến gần tam trụ môn và trước mặt anh là gương mặt căng thẳng của Miandad. Cả cầu trường im phăng phắc. Sharma ném trái banh. Đó là một cú ném hết tốc lực. Miandad vung gậy. Hầu như mọi người đều lùi lại một bước và chờ đợi. Im lặng. Ông Amin kéo tay áo sơ mi lên tận khuỷu, ông Abu tiếp tục cắn môi mình và tôi đấm nắm tay phải vào lòng bàn tay trái. Bình luận viên hét lên, “Sáu điểm rồi [15] ! Đội Pakistan đã giành chiến thắng. Họ đã ghi được hơn mức cần thiết ba điểm.” Người ta ôm nhau, nhảy vòng quanh, gào hét trong tiếng pháo nổ giòn giã.
Kashmir là tiểu vương quốc lớn nhất trong số khoảng năm trăm tiểu vương quốc [16] thuộc chủ quyền của thực dân Anh cho đến năm 1947. Người đạo Hồi chiếm đa số nhưng Kashmir chịu sự cai trị của maharaja [17] Hari Singh theo đạo Hindu, còn nhà lãnh đạo nổi tiếng Sheikh Mohammned Abdullah lại thích Ấn Độ hơn Pakistan và thích một Kashmir độc lập đối với cả hai nước kia hơn. Khi Ấn Độ bị chia cắt bạo liệt vào năm 1947, cả Singh và Sheikh Abdullah đều do dự trước việc quyết định số phận của Kashmir. Tuy nhiên vào tháng mười năm 1947, các thành viên bộ lạc ở biên giới tây bắc Pakistan, được sự hỗ trợ của quân đội Pakistan, đã chiếm được Kashmir, buộc họ phải chọn lựa. Singh quyết định theo Ấn Độ và Sheikh Abdullah, bạn của vị thủ tướng mới của Ấn Độ Nehru, đã ủng hộ ông. Tháng giêng năm 1949, cuộc chiến tạm dừng sau khi Liên Hiệp Quốc can thiệp. Liên Hiệp Quốc ủng hộ một cuộc trưng cầu dân ý cho người Kashmir để họ quyết định thuộc về nước nào và lập ra một đường ranh giới ngừng bắn. Ranh giới này vẫn chia Kashmir thành hai phần đất thuộc quyền kiểm soát của Pakistan và Ấn Độ và bây giờ được biết đến với cái tên Đường Kiểm Soát [18] .
Hiệp định sáp nhập mà ông hoàng Hari Singh đã ký với Ấn Độ vào tháng mười năm 1947 đem lại cho Kashmir một quyền tự trị mạnh mẽ. Ấn Độ chỉ kiểm soát việc quốc phòng, đối ngoại và hạ tầng viễn thông. Kashmir có hiến pháp và cờ riêng và người đứng đầu chính phủ địa phương được gọi là tổng thống và thủ tướng. Dần dần sự tự trị này biến mất. Năm 1953, Ấn Độ bỏ tù Sheikh Abdullah, thủ tướng của Kashmir lúc bấy giờ, sau khi ông này thi hành triệt để việc cải cách đất đai và có một bài diễn văn gợi ý đến khả năng một Kashmir độc lập. Trong suốt những thập kỷ sau đó, Ấn Độ thiết lập những nhà lãnh đạo bù nhìn để làm suy yếu tính hợp pháp của một Kashmir tự trị, làm ngơ trước quyền lợi dân chủ của người dân Kashmir. Seikh bị cầm tù trong khoảng mười bảy năm. Khi được thả, ông ký một thỏa ước với chính phủ Ấn Độ, theo đó từ bỏ yêu cầu trưng cầu dân ý mà Liên Hiệp Quốc đã đề nghị. Sheikh đã sống quãng đời còn lại của mình trong quyền lực và quãng thời gian đó (cũng là thời thơ ấu của tôi) tương đối yên bình. Năm 1987, năm năm sau cái chết của Sheikh, chính phủ Ấn Độ tổ chức những cuộc bầu cử tiểu bang gian lận, bắt bớ những ứng cử viên đối lập và khủng bố những người chống đối.
Mùa hè năm 1988, một năm sau những cuộc bầu cử lộn xộn – khi tôi mười một tuổi – cha gửi tôi vào một trường nội trú do nhà nước trợ cấp ở Aishmuqam, một thị trấn nhỏ cách làng tôi năm dặm. Tôi chơi thể thao rất tệ nên dùng những khoảng thời gian yên lành ở trong thư viện để đọc Stevenson, Dickens, Kipling và Defoe. Tôi gặp cha ngày càng ít khi ông thuyên chuyển sang Srinaga, thủ đô của Kashmir. Nhưng khi ở nhà cùng nhau, chúng tôi lại ngồi vào chỗ thường lệ của mình và cha lại dạy tôi về thơ ca. Cha sẽ đọc một vài trích đoạn trong một bài thơ rồi nói, “Nếu con giải thích được ý nghĩa thì con sẽ được hai rupee.” Đó là một số tiền khá nặng túi và tôi đã hết sức cố gắng.
Vào tháng mười hai năm 1989 tôi trở về nhà trong kỳ nghỉ đông, hy vọng được ở bên cha trong mùa đông ở Srinaga. Một tuần sau, một nhóm thanh niên Kashmir có vũ trang, cầm đầu bởi chàng trai hai mươi mốt tuổi Yasin Malik, bắt cóc con gái của vị bộ trưởng Bộ Nội vụ liên bang Ấn Độ. Malik và các đồng chí của mình đòi thả những người bạn đang bị cầm tù của họ. Sau nhiều lần thương lượng, chính phủ Ấn Độ đã bằng lòng. Dân chúng hò reo cổ vũ cho những chàng du kích trẻ.
Yasin Malik, người cầm đầu nghĩa quân của Mặt trận Giải phóng Jammu và Kashmir, là một trong những người bỏ phiếu bị bắt và tra tấn sau cuộc bầu cử lộn xộn năm 1987. Sự chống đối nền cai trị của Ấn Độ và cách họ đối đãi với người dân Kashmir bùng nổ như một ngọn núi lửa. Những du kích trẻ tuổi, dẫn đầu bởi Malik và bạn bè của anh, thách thức Ấn Độ và được xem như những người anh hùng – hầu hết họ được huấn luyện ở các trại của Pakistan trong thời kỳ đầu năm 1988 và cuối năm 1989 và cũng chính họ lại bí mật huấn luyện thêm nhiều quân ngay trong lòng Kashmir. Trong vòng hai tháng tiếp theo, chính phủ Ấn Độ đáp trả không thương xót. Hàng trăm người bị giết và bị bắt sau khi những toán lính Ấn Độ xả súng vào những người biểu tình Kashmir ủng hộ độc lập. Đó là tháng giêng năm 1990. Khi đó tôi mười ba tuổi.
Cuộc chiến tranh thời niên thiếu của tôi đã bắt đầu. Lúc này tôi không thể nhớ những sự kiện khởi đầu. Tôi không thể nhớ ai đã kể cho tôi nghe về chữ aazadi, tức tự do, ai đã kể cho tôi nghe về nghĩa quân, ai đã bảo tôi rằng chiến tranh đã bắt đầu. Tôi không thể nhớ chính xác ngày tháng, tên người, nơi chốn, những hình ảnh loan báo về cuộc chiến – một cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn. Dần dần tôi nhìn trở lại và cố bóc tách mình khỏi ký ức về cái giây phút đã làm thay đổi con người tôi đã và sẽ là. Đêm 20 tháng giêng năm 1990 là một đêm dài buồn thảm. Trước bữa tối, gia đình tôi tụ họp lại quanh chiếc radio như thường lệ để nghe tin tức từ đài BBC Thế giới. Hai ngày trước, Jagmohan, một quan chức người Ấn có tiếng ghét dân Hồi giáo, đã được chỉ định làm thống đốc bang Jammu và Kashmir. Ông ta đã ra lệnh nghiền nát mầm mống nổi loạn. Suốt đêm 19 tháng giêng, lính bán quân đội Ấn Độ đã đạp tung những cánh cửa ở Srinagar và lôi cổ các thanh niên ra ngoài. Đến sáng mấy trăm người đã bị bắt, lệnh giới nghiêm được thực thi. Hàng vạn dân Kashmir tuôn ra đường hô to những khẩu hiệu đòi độc lập khỏi Ấn Độ.
Một cuộc biểu tình bắt đầu ở khu vực phía nam Srinagar nơi cha mẹ tôi đang sống, đi qua Lal Chowk, trung tâm thành phố và qua Maisuma, một quận lân cận, rồi hướng về đền thờ thánh Sufi ở trước đó vài dặm. Khi những người biểu tình băng qua cây cầu gỗ Gawkadal xiêu vẹo của quận Maisuma thì lực lượng bán quân đội Ấn Độ, tức Lực lượng cảnh sát Dự bị Trung tâm, xả súng. Hơn năm mươi người đã bị giết. Đó là cuộc thảm sát đầu tiên ở thung lũng Kashmir. Khi tin tức lan truyền, tất cả chúng tôi đều nức nở. Vụ thảm sát xảy ra cách văn phòng cha tôi vài trăm mét. Mẹ tôi chắc chắn ông sẽ được an toàn. “Cha con sẽ không đi làm vào một ngày căng thẳng như thế. Ông ấy sẽ ổn thôi mà,” bà nói. “Và nó sẽ không bao giờ đến gần một đám diễu hành,” Ngoại nói thêm. Nhưng không có cách nào giúp chúng tôi nhận được một sự đảm bảo từ phía cha bằng việc được nghe giọng nói của ông trong vài phút: trong làng tôi không có một chiếc điện thoại nào. Ngoại bước ra ra sân, những người hàng xóm của chúng tôi cũng đi ra ngoài. Chúng tôi nhìn nhau. Không ai nói gì nhiều. Khuya hôm đó, nằm trên giường tôi hình dung về cuộc thảm sát ở Srinagar.
Các buổi sáng ở Srinagar rộn ràng mọi hoạt động. Tôi thức dậy sau tiếng khua khoắng của vật dụng nhà bếp, tiếng mấy con gà chạy vòng quanh sân sau khi được Ngoại thả ra khỏi chuồng, tiếng mấy người hàng xóm lùa đàn gia súc của họ ra đồng cỏ trên sườn núi, tiếng trò chuyện và bước chân rộn ràng của những người đàn bà đi trên đường từ rừng trở về làng, khiêng những bó thông và vân sam về làm gỗ, tiếng còi liên hồi của chiếc xe buýt đầu tiên rời khỏi làng giục giã hành khách, giọng của phát thanh viên phát ra đều đều từ chiếc radio màu đen hiệu Phillip đặt trên thành cửa sổ bếp nhà tôi.
Buổi sáng hôm ấy, làng xóm yên tĩnh một cách bất thường. Ông thợ làm bánh Hasan cạnh nhà tôi thường tếu táo đùa trong khi chúng tôi chờ ông ấy nướng bánh iawasa nóng hổi, lần này ủ rũ và hậm hực trong khi đập những khoanh bột nhồi. Ông nhìn trừng trừng ngọn lửa đang hé ra ngoài lò nướng, quay lại tôi và nói, “Bọn sát nhân đó sẽ bị thiêu cháy trong ngọn lửa chói chang hơn cả ngọn lửa này. Tối hôm qua bác đã khóc khi nghe tin đó từ radio.”
Các cửa tiệm không mở cửa và những chiếc xe buýt không rời khỏi làng. Không có cách nào để liên lạc với cha. Như hầu hết dân Kashmir, chúng tôi và bạn bè phụ thuộc vào cái điện thoại công cộng ở bưu điện quận trong thị trấn Anantnag gần bên. Nhưng bưu điện bị đóng cửa vì cuộc nổi loạn. Dân làng đứng xung quanh đó kể đi kể lại việc họ đã nghe tin trên radio thế nào. Tôi cảm thấy một nỗi giận dữ lan tỏa khắp người. Một chàng trai trẻ hô khẩu hiệu: Hum Kya Chahte? Aazadi! (Chúng tôi muốn gì ư? Tự do!) Anh lặp lại và chúng tôi nhắc lại theo anh: Chúng tôi muốn gì ư? Tự do!
Cuộc biểu tình dần dần có đà. Những giọng nói ban đầu còn yếu và do dự đã trở nên mạnh mẽ và vững vàng. Đám đông bắt đầu một cuộc tuần hành dài, chậm rãi nhưng đầy nhiệt huyết theo con đường chính của làng. Những người phụ nữ trẻ, già xuất hiện bên các ô cửa sổ. Những khẩu hiệu mới được ứng tác và dùng ngay. Một thanh niên giơ tay về nhóm phụ nữ đang ở vòi nước công cộng quan sát đám rước, hét lên: “Những bà mẹ của chúng ta đòi gì?” Đám đông đáp: Aazadi! Anh ta lặp lại: “Những người chị của chúng ta đòi gì?” Đám đông đáp: Aazadi! Thấy nóng người, tôi bước lên phía trước, chỗ đám bạn của mình để nhập vào nhóm dẫn đầu cuộc tuần hành. Có một ông đang cõng đứa con trai nhỏ của ông ta trên vai thét to: “Con cái của chúng ta đòi gì?” Aazadi!
Đến tháng Hai năm 1990 Kashmir đã mờ mịt trong đỉnh điểm cuộc nổi dậy chống lại Ấn Độ. Tối nào chúng tôi cũng nghe tin tức về những cuộc biểu tình và số người chết ngày một nhiều hơn trên đài BBC Thế giới. Biểu tình theo sau giết chóc và giết chóc theo sau biểu tình. Tin tức từ Srinagar cho hay hàng trăm ngàn người dân đã tuần hành để cầu nguyện cho nền độc lập ở đền thờ thánh bảo hộ Nooruddin Rishi của Kashmir trong một thị trấn cách Srinagar khoảng một giờ đồng hồ. Trên khắp vùng Kashmir, những cuộc tuần hành tương tự đến các đền thờ thánh Sufi nổ ra. Một ngày nọ, tôi tham gia vào một đoàn tuần hành đến ngôi đền của vị thánh Sufi, Zain Shah Sahib, rất được tôn sùng tại vùng Aishmuqam gần trường tôi. Vài thanh niên dẫn đầu đoàn chúng tôi khoác những tấm vải liệm trắng. Họ như bị thôi miên, xoay mòng mòng như những giáo sĩ, hát những bài hát yêu chuộng độc lập. Tôi đi phía sau, lặp lại lời họ trong nỗi băn khoăn tận cùng. Đàn ông, đàn bà và trẻ em đứng trên lề đường mời chúng tôi thức ăn, nước giải khát, ném những cánh hoa và cả bánh shireen – những viên tròn màu trắng làm bằng gạo và đường nấu – lên người chúng tôi, một kiểu hành lễ chỉ diễn ra trong đền thờ và các đám cưới.
Bản thân đám đông đó là một mớ hỗn tạp đủ loại người. Những tay thầu khoán đem theo uýt-ki trong can xăng, ông luật sư nghiêm nghị chờ những người đi đường chào hỏi mình, ông thợ may luôn mua vui cho đám thanh niên rỗi việc trong tiệm của mình bằng những mẩu chuyện phóng đại trong lúc đạp máy may, ông dược sĩ lúc nào cũng ngủ gật sau quầy tính tiền, ông già ranh ma hay khoác lác về mối quen biết với các nghị sĩ ở Delhi, anh chàng tân cử nhân thất nghiệp tự bổ nhiệm mình làm bình luận viên tiếng Anh cho các trận đấu cricket của đội làng, người phục hưng tôn giáo dòng Salaf bán giày nhựa và ông đan giỏ Cộng sản có bộ ria kiểu Stalin cùng sánh bước với nhau, tiếng hô của họ hòa vào tiếng hô kêu gọi tự do vang rền. Giữa những cái đụng chạm thân thể, cái bắt tay, các ánh mắt giao nhau trong sự quả quyết và xác tín, sự giao hòa của hàng ngàn giọng nói, tôi đã không còn là một cậu bé mọt sách nhút nhát, khúm núm trước niềm kỳ vọng của gia đình. Tôi không còn sợ bị la mắng nữa. Tôi cảm thấy mình là một phần của một điều gì đó lớn hơn thế rất nhiều. Tôi để cho mình bay cùng đám đông. Aazadi! Suốt mùa đông đó, hầu hết những người Kashmir đều là những chàng Farhad, sẵn sàng đẽo núi vì nàng Shirin của mình: nàng tự do!
Biểu ngữ “ Chiến đấu đến khi chiến thắng ” được giăng khắp nơi ở Kashmir, được viết song song với một câu khẩu hiệu khác: tự quyết là quyền từ khi sinh ra của chúng ta! Dường như chính phủ Ấn Độ đã triển khai hàng trăm ngàn lính để đè bẹp cuộc nổi dậy. Gần như mỗi ngày, binh lính tuần tra làng chúng tôi theo lối vừa hung hăng vừa lo lắng, những ngón tay chúng đặt sát cò của các khẩu súng máy tự động và bán tự động. Các doanh trại quân đội và bán quân đội mọc lên ở hầu hết làng xóm và thị trấn.
Việc cha về thăm nhà vào những ngày cuối tuần ngày càng trở nên khó khăn hơn. Ông đã thôi đi lại bằng xe công vì nó làm ông bị chú ý. Chuyến đi từ văn phòng cha ở Srinagar về làng tôi, từng là một chuyến đi hai giờ thú vị, đã trở thành một việc nguy hiểm đến tính mạng. Hầu như lần nào về nhà ông cũng mất khoảng năm tiếng đồng hồ. Nếu vào một ngày may mắn thì chuyến xe buýt của ông chỉ bị chặn lại mười lăm phút một lần và ở mỗi trạm kiểm soát quân đội, ông và những hành khách khác sẽ bị xếp hàng một, cầm chứng minh thư và bất cứ cái gì khác mà họ mang theo. Sau khi bị lục soát cả người, cha sẽ cuốc bộ tiếp nửa dặm và lại nối đuôi xếp hàng chờ xe buýt đến. Có những ngày, ông đã thoát chết trong gang tấc.
Cha làm việc trong một khu văn phòng phức hợp thời thuộc địa to như lâu đài cách Lal Chowk, trung tâm thành phố và Maisuma, khu vực gần kề và quê của nhà lãnh đạo phe JKLF [19] Yasin Malik vài phút đi xe. Những trận đấu súng giữa quân du kích JKLF và binh lính Ấn Độ và những trái lựu đạn nổ gần các boongke và toán tuần tra của quân dự bị, xảy ra như cơm bữa bên cạnh văn phòng của cha.
Một buổi trưa ông bước ra khỏi khu văn phòng cùng vài đồng nghiệp, một nhóm công chức trung niên bận vét và cà vạt, tay ôm những tập hồ sơ văn phòng. Họ băng qua một đồn kiểm soát quân sự trước cửa văn phòng và bắt đầu đi về hướng Lal Chowk để đón xe buýt về nhà. Đột nhiên, những người trông cửa hàng hai bên đường nhảy ra khỏi quầy, kéo cửa sập xuống và bắt đầu chạy. Những tràng súng nổ dồn dập vang lên trong những ngõ hẻm đằng sau văn phòng, những tiếng nổ lớn vọng đến từ phía Lal Chowk. Khi chiếc xe buýt chở hành khách cháy ngùn ngụt lao trên đường, cha và các đồng nghiệp đang túm tụm sau những chiếc cột khổng lồ bằng gạch đá của cổng văn phòng, chờ dứt tiếng súng.
Một tiếng quát lạnh lùng từ ngoài đường làm họ giật bắn người. “Giơ tay lên!” Một nhóm lính bán quân đội Ấn Độ giận dữ đứng bên kia con đường hẹp, chĩa súng vào nhóm của cha. Một số cảnh sát đứng gác khu văn phòng xông đến và gào lên với bọn lính, “Đừng bắn! Họ là nhân viên văn phòng chính phủ! Họ làm việc ở đây!”
Một tuần sau, cha và một người bạn đang đi bộ về hướng Lal Chowk sau giờ làm việc thì một trái lựu đạn nổ bên kia đường. Họ muốn chạy nhanh về lại văn phòng nhưng tiếng súng đạn rần trời có vẻ như vang lên từ mọi phía. Cha và bạn ông chạy về phía quầy bán nước trên vỉa hè. Người bạn của ông trượt chân và mắc vào miệng cống, cha lôi ông ta lên và họ núp trong tiệm nước, dưới mấy cái bàn gỗ. Họ nằm trên nền đất bùn lầy, bụi bặm một lúc lâu.
Mùa đông đó cũng là lúc tôi bắt đầu học chính trị. Ban đầu là những cụm từ viết tắt: JKLF (Mặt trận Giải phóng Jammu và Kashmir), JKSLF (Mặt trận Sinh viên Giải phóng Jammu và Kashmir), BSF (Lực lượng Bảo an Biên giới), CRPF (Lực lượng Cảnh sát Dự bị Trung tâm). Tôi đã học những cụm từ mới: lục soát, đàn áp, boongke, tìm kiếm, chứng minh thư, bắt bớ và tra tấn. Cũng trong mùa đông đó, những chuyến xe buýt đông nghẹt thanh niên Kashmir chạy về các thị trấn biên giới rồi băng qua phía Pakistan và khu vực Kashmir thuộc quyền Pakistan để đưa họ tham gia những cuộc huấn luyện vũ trang. Trở về, họ là những chiến sĩ mang theo những khẩu Kalashnikov, lựu đạn, súng máy hạng nhẹ và súng bắn hỏa tiễn do phía Pakistan cung cấp.
Đám bạn bè tôi bàn tán về cuốn tiểu thuyết Pahadoon Ka Beta , kể về một thiếu niên Afghanistan chiến đấu chống lại quân Nga. Tôi muốn đọc nó và đã cùng với một đứa em họ tìm được một bản copy vào cuối kỳ nghỉ đông. Đó là một cuốn sách mỏng bìa mềm, tấm bìa xanh in hình một cậu bé cầm súng. Nội dung giống như một truyện kinh dị của Frederick Forsyth [20] . Ali, nhân vật chính trẻ măng trong đó, vừa là James Bond vừa là Rambo. Có vẻ cậu ta đã phá hủy hàng trăm chiếc xe tăng của Nga, thực hiện các phi vụ gián điệp trong lòng nước Nga và thậm chí đã giải cứu cha cậu khỏi một nhà tù của Nga. Danh tiếng và sức hút của cậu có vẻ nằm trong sự lãng mạn hóa người lính vào thời điểm hầu hết những người trẻ tuổi ở Kashmir đều muốn trở thành lính du kích hoặc quen biết một người như vậy.
Và có một bộ phim ai cũng muốn xem: Sư tử sa mạc của nhà làm phim người Mỹ gốc Ả Rập Mustafa Akkad. Cha đã mua một cái tivi đen trắng nhưng chúng tôi không có đầu video. Một người hàng xóm của tôi có và con trai ông hứa sẽ cho tôi xem phim Sư tử sa mạc nếu tôi có thể tìm được một bản chép của bộ phim. Tôi đã không thể tìm được. Nhưng có một ngày tôi nghe mấy người đàn ông ngồi trước cửa tiệm gần nhà tôi nói về nó. Rashid, ông tài xế xe buýt thường chở khách đi từ Anantnag đến Srinagar, nói đã được xem Sư tử sa mạc nhiều năm trước.
Ông ấy đã xem nó ở rạp Regal Talkies ở Lal Chowk. Ông thuật lại câu chuyện về Omar Mukhtar, người lãnh tụ già của một bộ tộc Libăng đã chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của quân đội Ý của Mussolini cho đến khi bị bắt và bị treo cổ. “Ông cao to, đẹp trai và có bộ râu quai nón trắng như cước,” ông Rashid tả về Mukhtar, do Anthony Quinn đóng. “Sau khi quân Ý bắt được ông, tên chỉ huy người Ý yêu cầu ông thu xếp cho lính mình đầu hàng. Omar Mukhtar tuy già và bị xích nhưng nói với tên tướng Ý rằng họ sẽ không bao giờ đầu hàng, rằng người Ý không có quyền sang Libăng và không đất nước nào có quyền chiếm đóng một đất nước khác. Quân Ý đã treo cổ ông.”
Những cuộc trò chuyện huyên náo trước cửa tiệm sẽ dừng lại đột ngột mỗi khi chúng tôi thấy một toán lính hay một đoàn xe tải và xe bọc thép đi qua. Dường như chính phủ Ấn Độ đã triển khai hàng trăm ngàn lính để nghiền nát cuộc nổi loạn. Từ sáng đến tối lính tuần tra khắp con đường làng chúng tôi. Chúng đi thành những hàng dài suốt hai bên đường trong quân phục và giáp chống đạn, ngón tay tì sát cò súng. Một số tên vác những ống súng to dùng để bắn đạn cối. Mỗi lần chúng tôi thấy một tên lính vác súng cối, sẽ có ai đó kể chuyện quân lính dùng súng cối đốt nhà sau khi chúng bị nghĩa quân tấn công như thế nào. Ông Rashid còn kể chuyện một thị trấn tên là Handwara, gần biên giới, đã bị đốt bởi quân đội Ấn Độ. “Chúng nó ném thuốc súng lên những ngôi nhà rồi nã đạn cối vào, cả một thị trấn bị đốt trụi trong vòng một giờ.”
Nhiều doanh trại quân quân đội và bán quân đội mọc lên gần như trong khắp các làng xóm và thị trấn. Gần làng tôi cũng có một trại: những bao cát chèn cửa sổ và cửa đi, những cuộn dây thép gai rào quanh ranh giới của trại, những chai rượu cạn treo lủng lẳng trên hàng rào thép gai và những tên lính mặt đằng đằng sát khí đứng trong các boongke cát dọc theo hàng rào ôm chặt mấy khẩu súng máy của chúng. Mọi người đi bộ và xe hơi phải dừng cách doanh trại một trăm mét, dân chúng phải giơ tay lên và nối đuôi nhau đi đến một boongke để bọn lính rà soát người họ và kiểm tra chứng minh thư. Không một nông dân, chủ tiệm, hay thợ thủ công nào có giấy tờ chính thức ngoại trừ có thể có một thẻ khẩu phần thực phẩm có đề địa chỉ và tên các thành viên gia đình. Chỉ vài người như cha hay ông ngoại tôi, những người làm việc cho chính phủ địa phương, là có chứng minh thư của tiểu bang.
Trường tôi đã đóng cửa nghỉ đông cho đến tháng ba. Tôi mua một cái chứng minh thư ở tiệm văn hóa phẩm trong vùng. Ông chủ tiệm đã mua một đống thẻ từ gã lái thương trong thị trấn Anantnag lân cận. Gã khoác lác rằng các chứng minh thư gã bán là hiệu quả nhất đối với bọn lính. Người ta nói chứng minh thư của Ấn Độ có hình quốc huy Ấn Độ: một cái trụ với bốn con sư tử ở bốn bên, một bánh xe và một cặp bò đực dưới bệ của nó. Tôi đem chứng minh thư của mình cho tòa án địa phương ký và đóng dấu và sẽ lập tức lôi nó ra khi nào tôi bị bọn lính chặn lại trên đường hoặc khi đi bộ qua một trong vô số trạm kiểm soát của chúng. Nó đã trở thành một phần của tôi.
Trong đền thờ của chúng tôi, sau những lần cầu nguyện và trước khi hát bài darood – một lời khấn ca ngợi nhà tiên tri Muhammad – dân chúng tự ý phát biểu và hô to những câu khẩu hiệu aazadi . Riêng tôi cầu xin Thượng Đế ban sự tự do cho chúng tôi vào năm tới. Nhưng đồng thời cũng có những giây phút bông lông: một ngày nọ một thanh niên làng chúng tôi làm việc ở Srinagar có một bài phát biểu tại đền thờ. Anh ta giành lấy micro rồi hét lên bằng tiếng Ả Rập, “Kabiran kabira!” Câu khẩu hiệu có nghĩa là “Ai là người vĩ đại nhất?” Nhưng không ai hiểu gì cả. Không ai trong số chúng tôi nói tiếng Ả Rập. Anh ta hét lên lại và một lần nữa chỉ có sự im lặng – rồi mấy thằng choai choai ngồi hàng cuối, cái đám ngồi ghế hạng chót của lòng tin, bắt đầu phá lên cười. Ngượng ngùng, anh thanh niên giải thích lẽ ra chúng tôi phải hô to, “Allah o Akbar! (Thượng Đế vĩ đại nhất) để đáp lại câu khẩu hiệu. Rồi anh lại hét lớn, “Kabiran kabira!” Anh đã được đáp lễ bằng một câu do dự, sượng sùng “Allah o Akbar.” Trong khoảng một năm sau đó, chúng tôi cứ trêu anh mãi.