← Quay lại trang sách

Chương 2 Những khúc ca cho Tự do

Mùa đông năm 1989-90 là mùa đông dài và nhiều sự kiện nhất ở Kashmir, có ảnh hưởng đến tận bây giờ. Tháng giêng và tháng hai năm 1990 đã làm thay đổi sâu sắc Kashmir. Ngày đầu tiên đến trường, tôi bị choáng bởi số ghế trống. Năm bạn học người Kashmir gốc Hindu và đám Pandit, [21] đã vắng mặt. Tôi chết lặng. “Tụi nó đã bỏ đi rồi,” đứa nào đó nói. Lời nói đó nổ tung như một chất phóng xạ, làm sáng lòa những bức tường vôi trắng của lớp học, chiếc bảng trống trơn và mấy mặt bàn bằng gỗ đánh véc-ni, chỗ mấy đứa vắng mặt và những đứa có mặt đã khắc tên viết tắt của chúng thành hình những con số gợi mở, điệu đà. Mắt chúng tôi dán chặt vào những cái ghế trống suốt một lúc lâu.

Song song với việc tiêu diệt hàng trăm người Hồi giáo ủng hộ Ấn Độ, từ những nhà hoạt động chính trị đến những tên mật thám của tình báo Ấn Độ, quân kháng chiến đã giết hại hàng trăm người Pandit vì những cái cớ tương tự hay chẳng vì một lý do nào cả. Cuộc bắt giết đã làm những người Pandit hoảng sợ và hàng ngàn người, kể cả những bạn bè cùng lớp của tôi và gia đình bọn nó, đã rời bỏ thung lũng từ trước tháng ba năm 1990 để đến Jammu, Delhi và nhiều thành phố, thị trấn khác ở Ấn Độ.

Chiến tranh là đề tài của mọi cuộc chuyện trò. Trong những giờ ăn trưa, tôi và đám bạn kể cho nhau nghe những câu chuyện về chiến sự. Chúng tôi bắt đầu vẽ bản đồ của Kashmir lên tập vở mình và sơn lên tường của trường những dòng khẩu hiệu như Chiến đấu đến khi thắng và Tự quyết là quyền từ khi sinh ra của chúng ta. Asif, thằng con trai cùng lớp tôi có đôi mắt to đen, mái tóc quăn bất cần đời rất được đám con gái ái mộ, kể chuyện nó đã từng thấy một người theo quân khởi nghĩa. “Tao đã thấy một anh đi gần trạm xe buýt. Anh ấy mặc quân phục màu xanh lá cây và đeo một cái bảng tên ghi: JKLF! Và anh ấy mang một đôi giày thể thao xanh dương đẹp lắm.” “Giày Force 10 hả?” Tôi hỏi Asif. Force 10 là hiệu giày chạy bộ nổi tiếng của một công ty Ấn Độ. “Không! Không! Hiệu Warrior! Warrior là hiệu Trung Quốc! Nó tốt hơn Force 10 rất nhiều.” Asif bắt đầu mỉm cười và kể với tôi là kiểu tóc của quân du kích giống như tóc nó vậy: những mớ tóc dài và quăn. Tôi thầm hy vọng, ít nhất có một người chỉ huy quân du kích có mái tóc thẳng, ngắn, lỉa xỉa và bóng dợn giống tóc tôi.

Chuyện hấp dẫn nhất là về khẩu súng trường kỳ diệu Kalashnikov. Được chế tạo tại Nga, một món quà của Pakistan, nó được biết đến như có phép thuật nhiệm màu hơn cả cây đèn thần của Aladdin. Tôi nhớ lần đứng ngoài phòng ăn sau bữa trưa và tham gia vào một cuộc tranh cãi nhỏ về khẩu Kalashnikov. “Nó nhỏ như một bàn tay và bắn được hai trăm viên đạn,” Shabnam anh họ tôi, lớn hơn chúng tôi một tuổi, nói. “Không phải! Nó dài như cây gậy cricket và bắn được năm mươi viên một phút,” Pervez bạn cùng phòng với tôi, cái thằng mà làng của nó là thành trì chính của quân JKLF, cãi lại. “Anh tao sờ vào một cây Kalashnikov rồi, anh ấy nói nó rất nhẹ. Đúng, nó dài như cây gậy cricket vậy. Anh nói với mẹ tao là anh muốn trở thành nghĩa quân. Mẹ tao khóc, còn cha tao tát anh ấy,” thằng Showket nhỏ hơn chúng tôi vài tuổi nói.

Pervez kể với tôi là nhiều nghĩa quân trong làng nó mặc những bộ quân phục xanh lá cây rất đẹp. Một buổi trưa chúng tôi đang ở trong sân đá banh thì một chiến sĩ đi ngang qua. Ngay cả ông thầy kênh kiệu chuyên trông chừng các trò chơi của chúng tôi cũng đi lại, cười và bắt tay anh ấy. Được khuyến khích, chúng tôi bu lại xung quanh anh. “Cho tụi em xem súng của anh được không?” thằng Pervez hỏi. Nó là tiền đạo trung tâm, mặt mày rạng rỡ trong bộ đồ thể dục màu xanh lam. Anh cởi chiếc áo pheran thùng thình, một tấm vải bằng len tựa như áo khoác, rồi cho chúng tôi xem súng của mình. “Bọn anh gọi nó là Kalashnikov, còn bọn Ấn Độ gọi nó là AK-47,” người nghĩa quân nói. Chúng tôi sướng tê người và đồng loạt vỗ tay thích thú. Từ đó trở đi tất cả bọn tôi đều đeo gậy cricket bên trong tấm pheran của mình, một kiểu bắt chước, một sự chuẩn bị.

Sáng hôm sau trước buổi tập trung dưới cờ, mấy anh lớp trên dặn chúng tôi không hát quốc ca Ấn Độ: “Chúng ta là người Kashmir và bây giờ chúng ta đang chiến đấu giành độc lập. Chúng ta không thể tiếp tục hát những bài hát Ấn Độ, cho dù thầy hiệu trưởng muốn chúng ta làm vậy.” Trong buổi tập trung, đám học sinh không chịu hát quốc ca Ấn Độ. Những thầy cô giáo, vốn bình thường sẽ cho chúng tôi ăn đòn vì không vâng lời, lại giữ im lặng. Không ai đe dọa đuổi học chúng tôi. Họ hiểu rằng thế giới của chúng tôi đã thay đổi và các quy tắc cai quản nó cũng vậy. Ông hiệu trưởng của trường, một vị lùn, hói đầu, người vùng Rajasthan, từng đề xuất với mọi người liệu pháp cười lại không hề cười chút nào. “Nếu các em không muốn hát, chúng tôi không thể ép buộc các em được. Việc hát một bài hát sẽ không có ý nghĩa gì nếu các em không tin vào ca từ của nó,” ông nói nghiêm nghị.

Bên ngoài thế giới bé nhỏ của chúng tôi, có biết bao trận bắn nhau vô hạn định giữa binh lính Ấn và quân khởi nghĩa, biết bao lựu đạn được ném ra và biết bao bãi mìn đã nổ – chết chóc, sợ hãi và sự giận dữ bao trùm Kashmir. Cho đến mùa hè năm 1990, hàng ngàn thanh niên Kashmir đã băng qua Đường Kiểm Soát để được huấn luyện vũ trang ở bên phần đất Kashmir thuộc quyền kiểm soát của Pakistan. Khi là nghĩa quân trở về, họ thành những anh hùng – dân chúng muốn được nói chuyện với họ, chạm vào họ, nghe chuyện của họ và mời họ ăn tiệc. Một số lượng nhiều hơn được huấn luyện tại những vườn cây và đồng cỏ địa phương, vì vậy họ có biệt danh là dâu tây, hoặc mục đồng . Giống như hầu hết bọn con trai, tôi cũng muốn đến với họ. Chúng tôi thèm khát được chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập như thèm khát nụ hôn đầu đời trên đôi môi tuổi mới lớn.

Vào mùa thu năm 1991, khi mười bốn tuổi, tôi cùng với bốn thằng bạn đi bộ từ ký túc xá đến một ngôi làng gần bên để tìm các du kích quân. Chúng tôi thấy một nhóm người trẻ tuổi mặc đồ dã chiến, khoác trên vai súng có lưỡi lê, đi đến từ bên kia đường. Họ cao lớn và trông như những người đàn ông phong độ nhất. Chúng tôi sững sờ nhìn họ. Cái phù hiệu trắng trên đồng phục lính màu xanh lá của họ ghi: JKLF. Đứng trong bộ đồng phục trường màu trắng và xám, tôi buột miệng, “Tụi em muốn đi theo mấy anh.” Người chỉ huy, một thanh niên dong dỏng cao, râu ria lởm chởm, bật cười. “Về nhà và lớn lên đi đã, mấy cậu nhóc!” Tôi tức lắm. “Nếu anh không muốn đem tụi em theo, thì tụi em sẽ theo HM.” Hizbul Mujahideen là một nhóm nghĩa quân mới thành lập, một đối thủ về ý thức hệ với nhóm JKLF bởi họ ủng hộ sự sáp nhập của Kashmir vào Pakistan. Những du kích quân phá lên cười. Chúng tôi tiếp tục năn nỉ cho đến khi họ bỏ đi.

Chúng tôi rầu rĩ quay về ký túc xá để bàn bạc về một cách gia nhập dễ hơn. Chúng tôi có thể nói chuyện với nhóm Mặt trận Sinh viên Giải phóng (SLF), một phe cánh sinh viên của nhóm JKLF. Một số du kích quân của nhóm JKLF và SLF đã bắt đầu đến ở trong ký túc xá của chúng tôi. Họ sẽ cùng chúng tôi chơi một trận bóng chuyền, bỏ súng bừa bãi trên thảm cỏ cạnh sân bóng. Hoặc họ sẽ ngồi trong hiên ký túc lau chùi những khẩu Kalashmikov trong khi tôi bỏ đi để vào lớp. Một nhóm nhỏ những người hiếu kỳ sẽ từ từ đông dần lên xung quanh họ. Một anh trong số họ, chắc chưa tròn mười tám tuổi, đã cho tôi cầm một khẩu Kalashnikov. Tôi cảm nhận được cái nòng thép lạnh lẽo, rà mấy ngón tay của tôi theo ổ đạn hình trái chuối, rồi làm dáng với cái báng nhôm ghì chặt vào vai phải của mình. Một cảm giác tuyệt trần! Nhưng sau đó một phút anh ấy lấy lại nó và bảo tôi đi chỗ khác chơi.

Một trong những người chỉ huy là người cùng làng với tôi. Ông cao khoảng một mét tám mươi ba, vai rộng và tóc quăn. Người đàn ông vui tính này có ba đứa con gái và từng là thợ ống nước trong các khách sạn của một khu resort tên là Pahalgam. Dân làng gọi ông là Tonga vì nhìn ông cao như một cỗ xe ngựa kéo. Ông hay cợt đùa dễ thương và những câu chuyện về các cuộc phiêu lưu của ông thường được kể lại trước mấy cửa tiệm trong làng. Trong mùa du lịch ở Pahalgam, ông nhiều việc kinh khủng. Ông sẽ nhởn nhơ với mấy ống dẫn nước rồi lắp vài cái máng chặn để ngăn nước chảy vào phòng khách sạn. Những ông chủ khách sạn đang tuyệt vọng sẽ phải trả cho ông ấy một khoản tiền xứng đáng để sửa chúng. Nhưng sau mùa đông năm 1990 khách du lịch không còn đến Kashmir nữa, các khách sạn đóng cửa và ông Tonga gia nhập JKLF. Lần nào gặp tôi, ông cũng hỏi thăm gia đình tôi và dặn tôi chăm chỉ học hành. “Chú sẽ hỏi các thầy cô của con xem con học hành ra sao.” Và “Cho chú gởi lời thăm ngài Sahib và ông hiệu trưởng nhé.”

Nhưng tôi và đám bạn bè mình vẫn còn đang mơ đến việc làm thế nào để được huấn luyện vũ trang. Cứ cách một ngày lại có những nhóm thiếu niên đi sang những trại huấn luyện ở Pakistan. Chúng tôi cần một ít tiền để mua vé xe buýt đi đến các thị trấn biên giới, cần quần áo mùa đông và những đôi giày tốt cho cuộc hành trình, mà nhiều khả năng sẽ có, xuyên qua những đỉnh núi phủ đầy tuyết. Nhưng trên hết chúng tôi cần một người chỉ huy quân du kích, một người không quen biết gia đình chúng tôi, cho chúng tôi gia nhập vào một nhóm để đi về biên giới.

Một ngày nọ, giờ hình học của chúng tôi bị gián đoạn bởi tiếng gõ cửa. Thầy tôi đi ra ngoài rồi trở lại, nói rằng chú tôi đến. Là một giám đốc ngân hàng trạc ba mươi, chú Bashir là biểu tượng về thời trang của tôi và đứa em. Tôi ngưỡng mộ những cái quần jean rộng thùng thình, những chiếc sơ mi sọc carô của chú và mái tóc bóng mượt chải hất ra sau giống tóc của tài tử John Travolta trong phim Grease và âm sắc bí ẩn khi nói tiếng Anh mà chú học lóm từ mấy ông bạn người Đức.

Tôi hét lên một tiếng mừng rỡ rồi chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Chú mang theo một cái túi và tôi nhanh nhẩu xung phong xách nó. “Nó là bữa trưa của mình đấy! Mẹ con làm món thịt gà cho chú cháu mình.” Chú choàng một tay qua vai tôi. “Thôi mình về phòng con rồi ăn đi.” Cái ý nghĩ về món thịt gà mẹ nấu sau những bữa cơm với đậu độc chiếm cái thực đơn ký túc xá làm tôi vui mừng khôn xiết.

Ngoại trừ hai cái giường, hai kệ sách nhỏ và hai tủ âm tường đựng quần áo thì phòng của tôi nhỏ xíu và trống trơn. Tôi trải một tấm vải cotton lên giường và chúng tôi bắt đầu ăn. Chú tôi ăn vài miếng thì dừng lại để nhìn tôi ăn ngấu nghiến thịt gà.

Tôi nhún vai. “Con đói mà.”

Chú cười to, nhưng dường như có cái gì đó không ổn.

“Ở nhà bình thường hết phải không chú?” tôi hỏi.

“Ừ, tất cả đều ổn.”

Chúng tôi tiếp tục ăn, rồi tôi lại hỏi, “Sao hôm nay chú không đến ngân hàng?”

“Không có gì hết! Tối qua, lúc đang nói chuyện với cha con, thì tự nhiên chú nghĩ là chú nên đến cứu con khỏi món đậu.”

Sau bữa trưa chúng tôi đi bộ xung quanh sân trường rồi ngồi xuống cạnh một thảm hoa hồng, nói về chuyện học hành của tôi. Chú nói rằng cha tôi mơ ước một ngày được thấy tôi làm việc trong văn phòng hành chính. “Cha con đã vất vả phấn đấu để lên được vị trí hiện nay. Ông ấy nuôi nhiều kỳ vọng với con lắm đấy. Chú biết con sẽ làm gia đình hãnh diện,” chú nói. “Chú đã gặp thầy hiệu trưởng và ông hết lời khen ngợi con.”

Tôi lắc đầu.

Chú nhìn chăm chú các dãy nhà của ngôi trường một lúc lâu. “Con sẽ học xong trong hai năm nữa thì phải.”

“Dạ, năm 1993.”

“Con biết gì không? Con phải đi đến Delhi.” Rồi chú tiếp tục vẽ lên bức tranh lãng mạn về những trường cao đẳng và đại học ở New Delhi. “Con sẽ có một khoảng thời gian tuyệt vời ở đó. Tối qua cha con và chú đã bàn về chuyện đó.”

Tôi lắc đầu. Ừ. Cũng có thể. “Ngoại khỏe không chú?” tôi hỏi thăm Ngoại.

“Ông đang già đi mỗi ngày. Và ông nhớ con lắm. Con nên về thăm nhà vài ngày. Ông sẽ mừng lắm đấy.”

Tôi nhanh chóng thu xếp mấy giỏ đồ của mình và không lâu sau thì chúng tôi đi bộ đến trạm xe buýt gần nhất. Một hàng chữ màu mè nguệch ngoạc trên bức tường của ngôi nhà gần đó đề: CHIẾN TRANH CHO ĐẾN KHI CHIẾN THẮNG – JKLF.

“Thì ra đó là cái nhóm mà con muốn gia nhập,” chú mỉm cười.

“Nhóm JKLF ạ? Con ấy ạ?” Tôi chối bay chối biến.

Chú chầm chậm lắc đầu. “Chúng ta biết cả rồi mà,” rồi chú nói với tôi về cuộc họp mặt đang chờ tôi ở nhà.

Xe buýt chạy ngang qua các ngôi làng ngăn cách nhau bởi những khoảng ruộng trống và các đụn rơm, gần như vàng thẫm đi trong ánh nắng của mùa thu. Chúng tôi vượt qua một cây cầu cũ kỹ vắt ngang con suối chảy xiết về hướng làng tôi. Tôi thấy đỉnh núi quen thuộc của làng mình và con kênh có từ ngày xưa chảy men theo. Trước khi dọn đến trường mình, tôi hiếm khi rời làng trừ những lần thỉnh thoảng ghé Anantnag hay Srinagar. Khi tôi đi xa dù chỉ một ngày, lúc về tôi sẽ háo hức tìm kiếm hình ảnh của một dấu mốc: túp lều mái ốp ván nằm trên triền dốc của làng. Tôi đã nhìn thấy lại nó.

Xe dừng lại ở bãi đất trống của làng. Chú tôi đi tiếp về làng bên, nơi chú đang sống. Tôi hơi khựng người lại, lo ngại cuộc gặp gỡ ở nhà. Đứng ở trạm xe buýt, tôi nhìn bao quát ngôi nhà mình – có cửa sổ xanh lá cây, và xếp thành hàng với năm ngôi nhà khác bên phải con đường. Ông hàng thịt Abu lúc nào cũng nói chuyện cricket đang chặt thịt cừu; dược sĩ lùn nhưng chắc người Amin, luôn đội mũ lưỡi trai kiểu Ailen đang đứng bên ngoài tiệm của mình; ông thợ may Kaisar chuyên chiêu đãi đám con trai trong làng những câu chuyện tục tĩu đang còng lưng bên cái máy may; ông thợ làm bánh Hasan nổi tiếng lém lỉnh ngồi đằng sau một chồng bánh trông như bánh mì vòng rắc hạt mè; lão Saifuddin anh họ của bà ngoại tôi, người ngồi trong tiệm mình nhưng để ý đến mọi động tĩnh và canh chừng chặt chẽ mọi hoạt động của láng giềng, đang quan sát những người trên xe buýt bước xuống; đám con trai hay chơi cricket với tôi tụ tập quanh tiệm văn phòng phẩm gần sạp rau củ và mấy người đàn ông đứng tuổi ngồi trước mấy cửa tiệm trống kế bên hiệu thuốc của ông Amin đang trò chuyện với nhau.

Cảm giác hệt như đứng trên một sân khấu quen thuộc, đối diện những khán giả quen thuộc. Tôi la lên chào hỏi những người ở phía đằng xa con đường và bắt tay những người ở dọc dãy cửa tiệm bên này đường. Vì đang lo lắng cho cuộc gặp tại nhà, tôi chào hỏi mọi người hơi quá kỹ lưỡng: ông thợ bánh, ông hiệu thuốc, ông hàng thịt, ông thợ may và sau cùng, một bước phóng sang đường để ôm ông Saifuddin và lập lại bài diễn văn:

“Assalamualikum! Ông có khỏe không ạ?”

“Valikumsalam! Ông vui lắm. Ông khỏe lắm. Con khỏe chứ?”

“Con vui lắm. Con khỏe ạ.”

“Con mới về à?”

“Dạ. Con vừa xuống xe buýt.”

“Chuyện học hành thế nào?”

“Học hành tốt ạ.”

“Con có chăm học không?”

“Dạ có, chăm lắm ạ.”

“Con phải học thật chăm, cho tương lai đó.”

“Dạ. Cảm ơn ông.”

“Chuyện làm ăn thế nào?”

“Cảm ơn Thượng Đế! Nó cũng tốt ạ.”

“Mọi người trong nhà khỏe chứ?”

“Họ khỏe ạ. Hôm nào ông đến uống trà nhé.”

Khi tôi về đến nhà, Ngoại bắt tôi ngồi bên cạnh ông. Cha đang trên đường từ chỗ làm ở Srinagar về nhà. Chú, bà ngoại và mẹ ngồi thành nửa vòng tròn xung quanh chúng tôi. Tôi im lặng, không chắc mình phải nói gì. “Cho con xin một tách trà được không ạ?” tôi thử hỏi. Mẹ đã rót cho tôi một tách từ ấm samovar. Tôi lần theo những bông hoa màu hồng được chạm nổi trên nền sứ trắng giữa những ngụm trà. Ngoại quay sang mẹ. “Hama à, con có nhớ ngày đầu tiên nó đi học không?”

Mẹ nhìn lên với nụ cười gượng gạo. “Dạ có! Con mặc cho nó áo sơ mi trắng, quần soóc xám và cà vạt đỏ.

Rồi cha dẫn nó theo.” Ngoại dường như đang nhìn đăm chiêu vào thời xa xăm nào đó trong một giây thật dài, rồi khẽ cười và nói với tôi, “Ông thả con ở trường con rồi đi dạy bên trường ông. Con đã khóc lóc la hét đến nỗi một tiếng đồng hồ sau, cô giáo con đem con đến văn phòng của ông.”

“Hầu hết trẻ con đều khóc mà,” tôi nói.

Rồi ông lặp lại câu chuyện được kể suốt là việc tôi bị ảnh hưởng bởi truyện tranh Siêu nhân như thế nào, khi một lần tôi đã nhảy từ cửa sổ tầng một xuống. Thằng em tôi phụ tôi cột tấm pheran lại như cái áo choàng. Tôi đã bị gãy tay phải. Cái kiểu dẫn dắt từ từ đến câu hỏi thực sự làm cho tôi bực bội. Tôi đang nghĩ đến việc bỏ ra ngoài. Họ có thể thấy điều đó.

Mẹ nhìn tôi không nói gì. Ông ngoại chăm chú nhìn tôi với đôi mắt xanh biếc ngân ngấn nước. “Con nghĩ làm sao mà lão già này có thể chịu đựng nổi cái chết của con?” ông nói. Lời của ông đập vào tôi như một cơn mưa rào lạnh buốt sáng mùa đông.

Tôi không có gì để nói và nhìn chằm chằm xuống thảm. Tôi tưởng tượng ra cảnh mình nằm chết trên một tấm ván gỗ trong bãi cỏ nhà mình, xung quanh là những người hàng xóm và họ hàng. Mẹ tôi đã ngất xỉu và người nào đó đang vẩy nước vào mặt bà. Cha đang giữ khư khư tấm ván, vùi đầu trong đôi tay mình, hai vai ông run lên. “Con không sống lâu trong một cuộc chiến tranh đâu, con trai ạ.” Lời của Ngoại mang tôi về thực tại. Đôi mắt ông đẫm lệ.

Giọng thầy muezzin vọng từ loa đền thờ kêu gọi các tín đồ đến buổi lễ chiều. Mẹ sửa sang khăn che đầu đang vấn sơ sài, còn ông ngoại đứng dậy để đi lễ. “Hãy nghĩ đến cha con! Ông ấy đang đi tuốt từ Srinagar về chỉ vì lo lắng cho con. Chỉ có trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra trên đường đi,” mẹ nói.

“Con sẽ để ý mấy chiếc xe buýt,” tôi nói và đi ra ngoài.

Tôi nói chuyện với mấy người đàn ông trong làng được một giờ đồng hồ thì cha xuống xe buýt, mặc một trong những bộ vét xanh dương của ông và ôm một chồng sách. Tất cả chúng tôi đứng dậy như một phản xạ, tôi chạy ào đến, lấy mấy cuốn sách và chồng hồ sơ của ông. Những lời chào hỏi đồng thanh theo sau. “Anh khỏe không?” “Mọi việc ở thành phố thế nào?” “Hy vọng cuộc hành trình bình an. Xa lộ đã trở nên quá nguy hiểm rồi.” Cha có vẻ mệt mỏi nhưng điềm tĩnh.

Về đến nhà, chúng tôi lại ngồi vào chỗ thường lệ của mình và một tuần trà nữa theo sau. Cha sắp xếp lại đống sách và cầm lên một bài bình luận về kinh Koran viết bằng tiếng Anh. “Con phải đọc nó. Con sẽ hiểu về tôn giáo và trau giồi vốn tiếng Anh của con. Con cũng phải đọc Kinh thánh, nó rất có ích cho những kỹ năng ngôn ngữ của con.” Cha đi thành vòng tròn, kể chuyện về Ishmael và Isaac [22] . “Con phải có sự cho phép của cha mẹ ngay cả nếu con muốn làm người chỉ huy của JKLF,” giọng ông hơi nghiêm túc. Bằng cách nào đó ông nói ra khá bình thản.

“Con biết,” tôi đáp.

“Đặc biệt là khi con mới mười bốn tuổi.” Ông mỉm cười. “Còn bốn năm nữa mới đến tuổi bầu cử.”

Tôi không nói gì.

Ông nhìn thẳng vào tôi và nói, “Cha sẽ không cản con.” Tôi không thể giấu được nỗi kinh ngạc của mình.

“Cha sẽ không cản con,” ông lặp lại. “Nhưng có lẽ con nên đọc và suy nghĩ về điều đó thêm vài năm nữa và rồi hãy tự quyết định. Khi đó cha sẽ không khuyên con nên hay không nên gia nhập vào nhóm nào.”

Tôi gật gù đồng ý.

“Theo những gì cha được đọc, cha có thể nói với con rằng bất kỳ sự vận động để giành độc lập của quốc gia nào cũng đều mất một thời gian rất dài. Ấn Độ đã mất nhiều thập kỷ để giành tự do từ thực dân Anh. Người Tây Tạng vẫn đang đòi độc lập từ Trung Quốc trong hơn ba mươi năm qua. Czechoslovakia lúc này đã giành được tự do từ tay chế độ độc tài và ngay cả việc đó cũng mất một thời gian dài.”

Cha tiếp tục tranh luận rằng những cuộc nổi dậy đó là những công việc dài lâu do các nhà trí thức lãnh đạo. “Nehru và Gandhi học luật ở Anh và đều là những nhà văn rất tài giỏi. Con đã thấy sách của họ trong thư viện của chúng ta. Václav Havel là một nhà văn rất lớn. Vị Dalai Lama [23] cũng đọc rất nhiều và có thể dạy cho mọi người biết bao điều. Không ai trong số họ dùng súng nhưng họ đã thay đổi cả lịch sử. Nếu con muốn làm một điều gì đó cho Kashmir, cha nghĩ con nên đọc sách.”

Tôi ở lại lớp học. Nhưng cuộc xung đột đã trở nên dữ dội hơn. Nỗi sợ hãi và sự hỗn loạn bao trùm Kashmir. Gần như mỗi người đều quen biết một ai đó đã gia nhập nghĩa quân hoặc bị bắt, tra tấn hay đánh đập bởi các nhóm vũ trang. Các ông bố ước ao họ có con gái thay vì con trai. Những người con trai bị giết hàng ngày. Các bà mẹ thì cầu nguyện cho sự an toàn của con gái họ. Người ta khiếp đảm những tiếng gõ cửa vào ban đêm. Đàn ông và đàn bà ban ngày rời khỏi nhà để đi làm, không chắc là họ sẽ được trở về hay không. Hàng bao nhiêu ngàn người đã không trở về đấy thôi. Các nghĩa trang bắt đầu mọc lên như nấm ở khắp nơi và những tòa nhà bị thiêu rụi như những vết sẹo chằng chịt để lại trên bộ mặt các khu chợ. Người ta dường như lúc nào cũng nói đến biên giới và việc vượt biên. Nó đã trở thành một nỗi ám ảnh, một sự hiện hữu vô hình.

Trường lớp thì lặng lẽ, trần tục. Bữa sáng. Học. Bữa trưa. Học. Đá banh. Cricket. Bài tập về nhà. Những du kích quân đôi khi tạm trú trong ký túc xá của trường tôi và thỉnh thoảng chơi banh cùng với chúng tôi. Sự quen thuộc, bằng cách nào đó, đã tước mất một phần hào quang của họ.

Shabnam, anh họ tôi, là một trong những tuyển thủ hay nhất trong đội bóng chuyền của trường. Tôi bắt đầu những buổi học chơi bóng chuyền với anh, dành nhiều thời gian hơn để hoàn thiện những cú phát bóng và đập bóng. Anh Shabnam đã học chơi cricket và bóng chuyền từ người anh lớn Tarig, người vừa học xong cao đẳng. Mỗi lần tôi đến thăm họ và ông bác Rahman, tôi lại thấy Tarig chơi cricket trên một bãi rộng mênh mông gần nhà họ, còn Shabnam thì ngồi coi bên lề.

Cha tôi rất gắn bó với bác Rahman, người anh họ lớn tuổi nhất, người đã nuôi dạy ông sau khi cha mẹ ông chết. Bác Rahman từng là cảnh sát. Người cao, da ngăm và đôi mắt to đen, bác thường kể về thời gian dài làm vệ sĩ cho Sheikh Abdullah [24] . Bác đã ủi bộ đồng phục cảnh sát của mình phẳng phiu và đánh đôi ủng cảnh sát cho đến khi chúng bóng loáng. Gần đây bác đã về hưu và trong những ngày làm thường dân, bác diện bộ com-lê hai túi và đội chiếc mũ gắn đuôi seo như Sheikh Abdullah từng đội. “Con nên làm một người giỏi toàn diện. Giỏi nhất trong lớp và giỏi nhất trong sân bóng,” ông dặn dò tôi như vậy.

Thỉnh thoảng bác lại ra sân cỏ để xem anh Tariq chơi. “Thằng Tariq nếu mặc đồ cảnh sát sẽ đẹp lắm,” bác thường nói. Anh Tariq đã tốt nghiệp cử nhân toán và hóa học, nhưng anh thiên về thể thao hơn. Anh cho rằng tôi là con mọt sách và anh mua vui bằng cách hỏi tôi những câu hú họa: Có bao nhiêu phi hành gia trên tàu vũ trụ Apollo 13? F-16 là gì? Biểu tượng của axít sunfuríc là gì? Tôi biết hết mọi câu trả lời. Shabham không mấy quan tâm đến những điều đó, nhưng anh sẽ tìm cách dạy tôi vài điều về cricket và bóng chuyền.

Nhờ sự giúp đỡ của Shabham, tôi đã huênh hoang hơn một tí trên sân bóng chuyền. Một ngày cuối thu trước một trận đấu, tôi thấy Shabham đi ra khỏi ký túc xá với mấy cái túi. Anh đi lặng lẽ và có một miền tối tăm bên trong đôi mắt của anh. “Có chuyện gì vậy anh?” tôi hỏi.

Anh buông túi xuống bãi cỏ, gương mặt anh xanh xao. “Tariq đã vượt biên rồi!”

Tôi biết rằng vượt qua biên giới để trở thành du kích quân đồng nghĩa với việc bị giết. Shabnam về quê. Vài ngày sau đó tôi đến thăm bác gái và bác trai của mình. Anh Tariq đã ra đi đột ngột mà không nói gì với bất kỳ ai. Bác Rahman đang rít liên tục ống tẩu của mình. Ông có vẻ đã già hẳn đi chỉ trong vài ngày. Bác gái tôi đang bị sốc và cố đối phó với điều này bằng cách lăng xăng với những việc dọn dẹp không cần thiết như xếp đi xếp lại chén, đĩa trên kệ bếp, chạy ra sửa sang quần áo phơi trên dây ngoài sân, rồi lại biến đi lần nữa để mua đường trong khi đường đã có sẵn ở nhà. Bác Rahman lặng lẽ nhìn bà rồi bật ra một tiếng cười nhỏ nghe như tiếng thét chứa đựng tất cả tình yêu và nỗi đau của ông. Tôi cố kìm nước mắt. Bác bập ống tẩu thêm lần nữa. “Khi bác còn trong ngành cảnh sát, không ai dưới quyền của bác dám không tuân lệnh. Con trai bác đã vượt biên mà thậm chí không nói gì với bác.” Dòng nước mắt tuôn ra và chảy xuống gương mặt nhăn nheo, xù xì của bác. Tôi chưa thấy bác khóc bao giờ.

Không lâu sau một người liên quan đến tổ chức mà Tariq gia nhập nhắn tin cho gia đình rằng anh ấy đã vượt qua biên giới và đang ở thủ đô Muzaffarabad, thuộc quyền kiểm soát của Kashmir, nơi điều hành phần lớn trại huấn luyện vũ trang cho dân Kashmir. Nhưng không ai có thể chắc chắn về điều đó và cũng không có cách nào để xác nhận là Tariq đã thật sự vượt biên an toàn.

Ở trường, Shabnam hy vọng anh Tariq an toàn và mong mỏi chờ đợi sự trở về của anh trai. Trong phòng trọ của mình, Shabnam nghe đài sada-e – Hurriyat (Tiếng nói tự do) phát sóng từ Muzaffarabad. Mỗi tối, đài phát thanh của những người ly khai lại phát một chương trình ca nhạc đại chúng xen kẽ với những lời tuyên truyền và những tin nhắn của thính giả. Khi một chiến sĩ đang được huấn luyện muốn báo cho gia đình biết tình hình của mình, anh ta sẽ yêu cầu một bài hát và gửi kèm một tin nhắn với nó. Những mẩu tin nhắn đại loại như: “Tahir Mir ở Soura, Srinagar, yêu thích chương trình và yêu cầu bài hát này được phát.” Gia đình và bà con của anh ta sẽ nghe thấy lời nhắn và biết là anh đang an toàn.

Shabnam và tôi đang cùng ngồi trên băng ghế bên ngoài ký túc xá. Anh lấy cái radio màu đen hiệu Phillips của mình ra và chúng tôi lắng nghe những bài hát cùng những lời nhắn. Những người dẫn chương trình vốn nổi tiếng về tài hùng biện trên cả tuyệt vời. Một người dẫn chương trình, tự gọi mình là Malik, tiên đoán rằng Kashmir sẽ giành độc lập trong vòng một tuần và ông ấy sẽ đi du lịch qua biên giới vùng Kashmir do Pakistan kiểm soát đến phần Kashmir do Ấn Độ kiểm soát và uống trà kahwa ở khách sạn Jehagir, một khách sạn đồ sộ ở Srinagar vào thứ sáu tới.

Shabnam và tôi đều căng thẳng mỗi khi nghe chương trình. Chúng tôi nghe những mẩu tin nhắn và chờ đợi những cái tên quen thuộc. Nhiều tháng ròng, không có cái tin nào của Tariq. Ngày ngày Shabnam ngóng chờ tin của anh trai mình, ngày ngày anh mong chờ tin tức và gạt bỏ những tin đồn: “Tariq đã bị bắt ở biên giới.” “Có người nói là anh ta đã bị giết trên đường quay về.” “Một thằng ở Pulwama khi trở về đã gặp anh ta ở trại huấn luyện.” Mỗi lần có ai đó trở về sau khi hoàn thành khóa huấn luyện, Shabnam hoặc một người anh em họ khác của tôi lại đến thăm gia đình họ để dò la tin tức của Tariq. Lời truyền miệng là nguồn tin tức duy nhất.

Một ngày nọ sau bữa tối, Shabnam đang nằm trên giường, ôm radio như ôm gối và đang lắng nghe chương trình. Tôi đang nói chuyện với bạn cùng phòng của anh ấy. Những bài hát như thường lệ được phát: “Những cô con gái của Srinagar! Hỡi những cô gái dũng cảm của Srinagar!” Một vài phút dành cho tin nhắn và một bài hát khác được phát: “Thức dậy đi! Buổi sáng đã lên rồi! Máu của những liệt sĩ đã đỏ rực! Những lá cờ chiến thắng đang tung bay! Thức dậy đi! Buổi sáng đã lên rồi!” Giọng của những người dẫn chương trình gióng lên những cái tên và địa chỉ như đang đọc kinh, trong khi tôi tiếp tục nói chuyện. Rồi bỗng có một tiếng động lớn làm hoảng hồn tôi và bạn cùng phòng của Shabnam. Shabnam đã nhảy khỏi giường và đứng cách đó vài mét, vẫn ôm radio trong tay trái. “Tariq đó! Tariq đó! Basharat ơi, anh ấy thực sự còn sống! Đài nói là, ‘Tariq Peer ở Salia, Islamabad thích chương trình và yêu cầu bài hát này.’”

Khoảng một năm sau khi vượt biên, Tariq trở về nhà. Bạn bè, người thân và láng giềng đổ dồn về ngôi nhà ọp ẹp của bác Rahman. Tôi thậm chí không tìm được một chỗ để cởi giày. Hiên nhà và hành lang đã trở thành một đống ngổn ngang đủ giày xăng đan, dép lê và giày thể thao đủ màu. Tôi bước vào một gian phòng rộng, tường màu xanh lá cây. Tấm thảm dệt hoa mới tinh được trải ra. Đàn ông, đàn bà và trẻ con ngồi dựa vào những tấm nệm dọc theo tường. Shabnam xách một cái ấm samovar bằng đồng bọc thiếc sáng choang, rót trà kahwa vào mấy tách sứ đặt trước mặt các vị khách, một đứa con trai khác xách một cái giỏ đan bằng liễu gai mời khách ăn bánh mì vòng. Hàng trăm cặp mắt nhìn chăm chú vào một gương mặt duy nhất: Tariq. Anh ngồi trên một cái đệm bọc nhung, loại dành cho những chú rể Kashmir. “Mubarak Chuv! Mubarak Chuv!” (Xin chúc mừng! Xin chúc mừng!) vị khách mới nào cũng hô lên như thế khi vừa đến cổng. “Shukr Khodayus, Sahee Salamat Vot!” (Cảm ơn Thượng Đế! Anh đã trở về bình an.) Đàn ông bắt tay anh rồi ôm lấy anh. Phụ nữ thì ghì chặt anh và hôn lấy hôn để lên trán anh. “Miyon Nabi Thayinay Vaarey!” (Cầu xin đấng tối cao bảo vệ con!)

Bác Rahman ngồi sát bên Tariq. Có vẻ bác đã chấp nhận cái sự thật khó nuốt là Tariq đã trở thành một người nghĩa quân đang đương đầu với mối nguy hiểm vô ngần. Tôi đến bên Tariq và ôm anh. “Mày đã cao hẳn lên rồi!” anh nói. Tôi mỉm cười. “Anh thì ốm đi!” tôi đáp. Khuôn mặt tròn của anh có vẻ hốc hác. Anh đã cắt mái tóc quăn dài của mình ngắn như tóc của một người lính, nhưng đôi mắt to đen của anh vẫn lấp lánh nét thân thuộc. Anh trông thật gọn gàng trong bộ pajamas trắng kiểu kurta [25] , gần giống như một chú rể. Tôi thơ thẩn nhìn sang “cô dâu” chết người của anh, khẩu Kalashnikov được giấu dưới chiếc áo khoác thể thao dày màu xanh lá đặt bên cạnh anh. Bên ngoài, đám thiếu niên trong làng căng tai và mắt canh chừng những dấu hiệu của đám xe quân đội. Gia đình anh lo ngại lính quân đội có thể vào càn nếu một tên mật thám cho chúng biết việc anh Tariq về thăm nhà.

Người con trai chinh chiến nói. Người cha cảnh sát về hưu lắng nghe, cả phòng đầy nghẹt người cũng vậy, họ lắng nghe như thể Tariq là Marco Polo mang đến tin tức của một thế giới mới. Anh kể cho chúng tôi nghe về cuộc hành trình đến Pakistan và lần trở về. Anh và bạn bè đã đón xe buýt đến Srinagar. Một người dẫn đường của nhóm nghĩa quân đợi họ tại trạm xe buýt đông đúc Batamaloo ở phía nam Srinagar. Ở đó họ lên một chiếc xe buýt để đi về thị trấn Baramulla ở phía bắc Srinagar. Chuyến xe đông nghẹt nhân viên trên đường đi làm về. Tài xế mở nhạc Bollywood, còn hành khách chuyện trò về phong trào đấu tranh. Một vài hành khách có vẻ nhận ra Tariq và bạn bè là những chàng trai sắp sửa vượt biên giới và mỉm cười với họ. Không hề có một trạm kiểm soát hay toán tuần tra quân đội nào. Những chàng trai đã ở lại Baramulla một đêm trong nhà một người lạ cùng với hai nhóm thanh niên nữa cũng muốn vượt biên giới. Sáng hôm sau, cả ba nhóm lên một chiếc xe buýt đi đến Kupwara, thị trấn gần Đường Kiểm Soát nhất. Người soát vé đã không lấy tiền vé của họ. Kupwara ngập tràn những thanh niên đến từ mọi vùng của Kashmir chờ vượt qua biên giới.

Tariq và bạn bè anh được giới thiệu với một người sẽ đưa họ vượt qua dãy núi. Những người như anh ta được xem như người dẫn đường. Họ thường là dân địa phương của những bản làng biên giới, biết rất rõ địa hình ở đó. Mang giày cao su hiệu Duck Back, đeo balô chứa đầy quần áo và thức ăn, họ rời Kupwara trong một chiếc xe tải. Đến tối, họ đã đến được làng Trehgam, cách Đường Kiểm Soát vài dặm. Họ chờ trong một nơi ẩn náu cho đến khi đêm xuống. Trong bóng đêm, họ lần theo người dẫn đường. Họ leo lên các vách đá, trườn qua những boongke của các toán quân Ấn Độ, rồi lại leo lên lần nữa suốt cả đêm. Người dẫn đường đã dặn họ không đốt thuốc lá hay bỏ lại rác. Thuốc lá có thể mời gọi hỏa lực nếu bị ống nhòm của một tên lính phát hiện, giấy gói bánh quy trong rừng có thể bóc trần lộ trình của họ. Họ nắm tay nhau và bước đi trong yên lặng. Đến rạng đông, họ ẩn mình trong những bụi rậm, đằng sau rặng vân sam và thông mọc trên núi tạo thành đường biên giới. Họ ở yên một chỗ trong ngày hôm đó, nơm nớp lo sợ bị các toán tuần tra Ấn Độ phát hiện. Đêm xuống. Họ lại trèo đèo lội suối cho đến tận trạm kiểm soát cuối cùng của quân Ấn. Trời vẫn còn tối khi họ trườn bò bên dưới trạm canh gác của quân Ấn và sang đến trạm của Pakistan phía bên kia. Ngày hôm sau Tariq đã ở Muzaffarabad. Anh được đưa đến một trại huấn luyện vũ trang do quân đội Pakistan điều hành. Trong sáu tháng anh tập sử dụng các loại vũ khí nhỏ, mìn và súng chống tăng.

Tariq đi quanh quẩn ở Pakistan trong vài tháng, đợi đến lượt của mình trước khi trở lại nhà một năm sau. “Họ có phim Ấn Độ ở đó,” anh nói. “Tôi đã xem vài phim rồi. Và ở đó còn bán băng cát xét có tất cả bài hát mới.” “Thật chứ, ở Pakistan ư?” ai đó hỏi. “Anh đã xem phim nào chưa?” một người khác hỏi. Shabnam và tôi nhìn nhau rồi mỉm cười. Vài phút sau, một người hỏi thăm về cuộc hành trình ngược lại băng ngang vùng núi ở biên giới. Tariq nói, “Tuyết đang tan nhưng vẫn còn nhiều lắm.” Anh đã bạo dạn hơn khi trở về. Mỗi du kích quân trong nhóm của anh đeo một túi đầy đạn và một khẩu Kalashnikov. Quãng đường đi mất ba ngày. Những túi đạn rất nặng. “Ai mệt thì làm cho nhẹ túi đi. Chúng tôi chôn mấy gói thực phẩm và những ổ đạn trong tuyết.” Kể từ cuộc hành trình đến Pakistan của anh một năm trước, đã có hàng ngàn chàng trai như Tariq vượt qua băng tuyết như thế. Trên đường đi anh đã thấy bằng chứng những cuộc đụng độ của quân họ với các toán tuần tra biên giới của Ấn Độ: những bộ xương người nằm dưới những cây vân sam, một đôi giày nằm cạnh một hòn đá. Họ suýt bị giết khi chạm mặt với một nhóm các chàng trai đang vượt biên từ phía Srinagar sang. Nhóm kia mặc thứ đồ dã chiến đang thịnh hành trong nghĩa quân ngày ấy. Tariq và nhóm của anh tưởng họ là bọn lính Ấn Độ. Người dẫn đường của họ huýt sáo, một kiểu mật mã cho biết là họ cùng phe. Người dẫn đường bên Sri Lanka đáp lại, các chàng trai bắt tay nhau và đi tiếp. Tariq và bạn của anh đã có một trận đụng độ với quân dự bị ở gần thị trấn biên giới Kupwara. “Ba người trong nhóm tôi đã bị giết,” anh kể. “Một trong số họ là người ở Kupwara. Chỉ còn nửa tiếng nữa là anh ấy về đến nhà rồi!” Tâm trạng mọi người thay đổi và gian phòng tràn ngập những lời khích lệ: “Sự sống và cái chết thuộc quyền định đoạt của Thượng Đế tối cao.” “Những người chết vì chân lý luôn sống mãi.” “Tạ ơn Thượng Đế! Con đã về nhà an toàn.” “Đấng tối cao của ta sẽ bảo vệ con!” Một viên đạn xoáy vào chân Tariq, xé toạc một lỗ trên quần anh. Một lát sau, Shabnam chỉ cho tôi xem cái quần đó.

Khách khứa tiếp tục kéo đến, trong số họ có một phụ nữ hốc hác mang một chiếc pheran chùng thêu hoa. Bà đứng cách Tariq vài mét, nhìn anh chằm chặp một lúc lâu. Anh đứng dậy khỏi ghế mình và ôm bà. Bà ở làng bên cạnh. Con trai bà đã vượt biên để đi huấn luyện vũ trang. Bà nghe kể lại là anh ấy đã chết trên đường quay về. Những gia đình có con trai chết trong lúc băng qua Đường Kiểm Soát, nơi xác họ phải nằm lại mãi mãi, tổ chức một tang lễ vắng mặt. Người ta cầu nguyện trong tang lễ với một quan tài rỗng hoặc không cần quan tài. Người phụ nữ này đã có một tang lễ như vậy cho con trai bà, nhưng bà đã không thể chấp nhận được hung tin về cái chết của anh ấy. Bà ngồi xuống trước mặt Tariq, cầm tay anh: “Tariq, con yêu quý, con trai ta ơi, người ta nói với ta là nó đã tử nạn tại biên giới!” Gian phòng chùng xuống trong im lặng, mọi ánh mắt đổ dồn lên khuôn mặt tang thương, buồn bã của bà. “Trái tim ta không đồng tình. Tariq ơi, con yêu quý ơi, hãy nói với ta là họ đang dối trá. Nói với ta là con đã gặp đóa hồng của ta! Con cũng đã ở đó mà. Con hẳn đã thấy đóa hồng của ta!”

Tariq ôm chặt bà. “Dạ, con thấy anh ấy. Anh đang chờ đợi để quay về. Anh đang chờ đến lượt mình.”

Tôi không chắc là anh nói thật với bà hay không, nhưng bà hôn lên trán anh thêm nhiều lần nữa và òa khóc. “Con trai ta sẽ trở về nhà.”

Những chuyến thăm nhà của nghĩa quân rất ngắn ngủi. Anh Tariq sẽ về thăm cha mẹ mình một hay hai lần một tháng nhưng những lần ghé thăm của anh luôn vội vã và lén lút. Anh sống trong những nơi ẩn náu cùng với quân du kích, cùng họ sắp xếp kế hoạch tấn công các đoàn xe quân sự và các doanh trại của quân Ấn. Dù đã thấy những lính du kích tầm tuổi anh đi lại làng và thậm chí chuẩn bị tấn công một đoàn xe quân sự gần nhà tôi, tôi vẫn không thể hình dung anh Tariq trong một trận chiến, xả súng, quăng lựu đạn, làm nổ tung một quả mìn và giết chóc như thế nào. Nhưng đó là cuộc đời anh đã chọn. Và bọn lính Ấn đang lùng tìm anh. Bọn chúng thường gõ cửa nhà bác Rahman, lục soát để tìm anh, đánh đập bác Rahman và hai người anh của anh và bắt bác Rahman hoặc kêu gọi Tariq đầu hàng hoặc sẽ phải chết vào cái ngày bọn chúng tìm thấy anh.

Tôi nhìn thấy anh Tariq lần cuối vào tháng tám năm 1992, cách nhà bác tôi vài trăm mét, trên một bình nguyên được dùng làm địa điểm cho những cuộc hành lễ Eid và trở thành sân cricket trong thời gian còn lại.

Ngày 14 và 15 tháng tám là ngày Độc lập của Pakistan và Ấn Độ. Nghĩa quân Pakistan đã tổ chức diễu hành chào mừng vào ngày 14 tháng tám và một ngày sau đó, ngày Độc lập của Ấn Độ được công bố là Ngày đen . Vào ngày 15 tháng tám, giao thông ngừng lại, cửa tiệm đóng cửa, trường học nghỉ, quân Ấn tăng cường kiểm tra chứng minh thư và cuộc sống đóng băng. Tuy vậy ở Srinagar, những chính trị gia ủng hộ Ấn Độ – những người đã lập ra chính quyền tiểu bang, tập họp những người ủng hộ họ và buộc các trường công lập gom các nhóm học sinh vào một sân cricket bị canh giữ bởi hàng trăm quân dự bị Ấn Độ. Rồi những chính trị gia này kéo cờ Ấn Độ lên. Bên ngoài sân vận động, đường phố vắng tanh.

Vào ngày 14 tháng tám năm 1992, Shabnam và tôi xem những lính du kích khác mừng lễ Độc lập Pakistan trong một sân cricket. Hàng ngàn người đã tụ tập lại xem cảnh tượng này. Chúng tôi len lỏi qua đám đông để lên hàng đầu xem cho rõ. Các lãnh tụ kháng chiến đọc những bài diễn văn đầy nhiệt huyết cổ vũ cho phe Pakistan và giương cao những biểu ngữ đòi ly khai. Chúng tôi chăm chú nhìn quân kháng chiến trong quân phục xanh lá cây, tay ôm súng. Họ biểu diễn những pha chiến đấu và hát theo tiếng vỗ tay của khán giả. Một lãnh tụ kháng chiến giương cao cờ Pakistan sau mỗi bài hát. Lính của ông bắn súng chỉ thiên. Rồi ai đó báo tin rằng toán tuần tra quân sự đang đến gần làng và thế là cuộc tụ họp lập tức bốc hơi.

Một năm sau lần tôi nhìn thấy anh Tariq trong nhóm tuần hành, bọn lính đã không còn gõ cửa nhà cha mẹ của anh nữa. Chúng đã giết anh trong một trận càn qua nơi ẩn náu của anh.