← Quay lại trang sách

Phần Hai Những Cuộc Hành Trình Chương 9 Gặp lại anh

Tôi đã bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc đến việc quay về Kashmir, nơi những việc còn tàn nhẫn hơn như vậy rất nhiều vẫn đang xảy ra. Tôi có kể vài câu chuyện với một số bạn bè ở Delhi, nhưng không bao giờ có thể nói hết mọi điều. Tôi sẽ thấy mình bỏ lửng câu nói bởi bị những ký ức khuấy động. Việc kể chuyện ngay cả trong một không khí thân mật cũng thật đau đớn. Và một cảm giác xấu hổ chiếm lĩnh tôi mỗi lần tôi vào hiệu sách. Hầu hết người dân của những vùng có xung đột đều đã kể ra câu chuyện của họ: người Palestin, người Israel, người Bosnia, người Kurd, người Tây Tạng, người Libăng, người Đông Đức, người châu Phi, người Đông Timor và rất nhiều dân tộc khác nữa. Tôi cảm nhận được sự thiếu vắng những cuốn sách viết về trải nghiệm của người Kashmir. Những ký ức và câu chuyện về Kashmir trong tôi có thể sẽ phai mờ. Tôi phải tìm ngay các từ ngữ để cứu chúng khỏi bàn tay tàn nhẫn của thời gian. Tôi phải viết. Và để viết được, tôi phải quay về và thăm lại những con người và những nơi chốn đã ám ảnh tôi suốt bao năm qua.

Trong số những mẩu văn chương về Kashmir, các bài thơ của nhà thơ người Mỹ gốc Kashmir Agha Shahid Ali [30] là hay nhất. Tôi thường tìm đến những vần thơ của ông, những vần thơ gợi lên nỗi sợ hãi, căng thẳng, cảm giác giận dữ và niềm tuyệt vọng chúng tôi đã trải qua. Tôi chỉ gặp Shahid trong những cuốn sách của ông – đất nước không có bưu điện , Nửa inch Himalaya và Những gian phòng không bao giờ xây xong . Tôi đã thấy ông mỉm cười trong các khung cửa bằng gỗ ở phía nam Srinagar và thấy bố ông, cụ Agha Ashraf Ali, một giáo sư về hưu, kể câu chuyện về người con trai làm thi sĩ cho những lượt khách thăm viếng liên tục. Nhà thơ Shahid mất năm 2001 tại Brooklyn. Trong những ngày cuối đời vào tháng Tám năm 2001, cứ cách một ngày ông lại được các tờ báo ở Kashmir in những bài thơ của mình. Kinh cầu nguyện cho ông vang lên trong tất cả đền thờ ở Kashmir.

Tôi bắt được vài hình ảnh thoáng qua của ông Shahid trong một bài mà bạn ông là nhà văn Amitav Ghosh, [31] đã viết trên tờ The Nation . Một ngày nọ, ông Ghosh đưa Shahid và anh em của ông ấy đến bệnh viện để thực hiện một trong nhiều cuộc phẫu thuật không thành công của ông ấy. Ông Shahid cố gắng tự mình bước đi nhưng bị ngã và được đặt vào xe lăn. Ghosh viết, “Khi người hộ lý trở lại cùng với chiếc xe lăn, Shahid cười rạng rỡ với anh ta và hỏi anh ta đến từ đâu. Ecuador, anh nói và Shahid vỗ tay hớn hở. ‘Người Tây Ban Nha!’ ông gào lên hết cỡ. ‘Tôi đã luôn muốn học tiếng Tây Ban Nha. Chỉ để đọc Lorca.’ Nghe nói vậy, người hộ lý mệt mỏi với đôi vai thõng xuống đột nhiên tươi tỉnh lại. ‘Lorca ư? Ông vừa nói Lorca ư?’ Anh trích vài dòng thơ, trước niềm thích thú vô bờ của Shahid. ‘À! “la Cinque de la Tarde”, Shadid reo lên, hớn hở uốn lưỡi theo các âm tiết. ‘Tôi mê mấy cái từ đó quá. “la Cinque de la Tarde”!’”

Với tôi, nhà thơ Shahid vẫn tiếp tục trò chuyện qua những con chữ màu đen:

Tôi viết trên sự trống rỗng:

Kashmir, Kaschmir, Cashmere, Qashmir,

Cashmir, Cashmire, Kashmere, Cachemire,

Cushmeer, Cachmiere, Casmir

Một trưa hè, biên tập viên của tôi gọi điện để thảo luận về những ý tưởng có tính khả thi. Tôi báo với ông ấy là tôi sẽ rút lui. Ông đề nghị tăng lương cho tôi. Nhưng tôi sẽ quay về nhà. Về Kashmir. Người biên tập chúc tôi may mắn.

Đêm ấy tôi không để đồng hồ báo thức. Tôi bỏ mấy tuần sau đó để mua sách: những cuốn tôi thèm đọc, những cuốn tôi đã hoặc chưa bao giờ nghe nói đến. Tiếp đó, là các cuộc thảo luận với bạn bè, và những lời chia tay thật khó khăn.

Ngó vào tài khoản tiết kiệm, tôi đã dẹp ngay khả năng đi về bằng máy bay. Vài tuần sau tôi ôm mấy cái túi, đón xe buýt về Kashmir. Ánh hoàng hôn rọi vào mái vòm bằng đá sa thạch và những ngọn tháp của Pháo đài Đỏ. Những chiếc xe buýt và xe hơi rít bánh chạy qua, những chiếc xe lôi chất đầy hàng được kéo bởi những người đàn ông có làn da cháy nắng nhễ nhại mồ hôi đang cố len lỏi trên đường. Người phu xe kéo dừng lại bên một dãy lán bằng tôn với các biển chỉ dẫn du lịch sặc sỡ nằm song song với hàng rào của pháo đài. Mấy tay phe vé chợ đen bu lại, nài ép những hành khách còn nghi ngại. Họ hành động hung hãn đến nỗi tôi tự hỏi, họ có làm theo lệnh của mấy gã chủ bụng to như trống đang ngồi sau bàn gỗ trong các văn phòng du lịch như hóa thân của những vị hoàng đế Mughal hay không.

Tôi làm ngơ trước bọn con buôn, đốt thuốc và chậm rãi rít những hơi thật dài trong khi nhìn lướt qua mấy tấm biển. “Anh là dân Kashmir phải không?” người đàn ông gầy với mái tóc quăn rối và chiếc mũi diều hâu hỏi tôi. Tôi cười đáp lại. Cả cái mũi lẫn câu hỏi của anh ta đều rất Kashmir. Theo kiểu Kashmir, câu hỏi đó có nghĩa là một lời chào, mà người Kashmir này có thể hỏi người Kashmir kia trong bất kỳ tình huống nào, ở bất kỳ ngõ ngách nào trên thế giới, ngay giây phút anh ta nhận ra người đồng hành với mình là dân Kashmir. Tôi đã từng trả lời và từng hỏi câu đó. Nó đi kèm với một nụ cười thân mật và nhiều câu hỏi nữa, để xác nhận bạn chính là dân Kashmir.

Ramesh là người theo đạo Hindu ở quận Budgam ngay trung tâm Kashmir. Gia đình anh dời đến Delhi đầu những năm 90. Anh sống trong một khu ổ chuột ở phía nam Delhi. Tôi đã từng đến đó trong vai trò một phóng viên. Nó là một khu nhà đổ nát bị bỏ hoang nhiều năm trước khi chính quyền Delhi cho các Pandit [32] nhập cư người Kashmir định cư tại đó. Những chiếc màn tơi tả được cột vào đinh trên tường bằng những dây nylon, được dùng như những liếp ngăn giữa hàng tá gia đình có từ năm đến sáu người. Trong sân chung bên ngoài tòa nhà, những người phụ nữ đã dựng lên mấy cái bếp tạm bợ. Mùi hôi thối từ toa lét chung tỏa ra khắp nơi. Ramesh còn than về cái nóng ở Delhi. Anh nhớ ngôi làng của mình; ánh mắt anh như hàm chứa hình ảnh bóng râm của rặng dương liễu, những dòng suối lạnh căm và những vườn táo nơi anh lớn lên. “Anh được về nhà, thật là may mắn,” anh nói. Mấy gã buôn vé chợ đen vẫn lượn lờ, tìm kiếm khách để gạ gẫm. Hình như họ gợi cho anh điều gì đó, anh có vẻ không thoải mái.

“Anh có sao không?” tôi hỏi.

“Tôi bình thường mà. Mải nói chuyện nên tôi quên cả công việc.”

“Anh làm ở đây ư?”

“Ừ. Tôi ăn hoa hồng cho mỗi lượt khách tôi đưa đến văn phòng du lịch,” anh hạ giọng. Anh hy vọng lôi kéo được tôi mua vé của văn phòng anh.

Tôi nhìn gương mặt u buồn của anh. “Tôi muốn mua một vé đi Srinagar. Lấy vé đi nào.”

Ramesh lấy cho tôi một vé hạng nhất có điều hòa nhiệt độ. Chiếc xe buýt sẽ đến đây trong mười lăm phút nữa và khởi hành sau đó nửa tiếng. Tôi ngồi trên băng ghế dài bằng gỗ bên ngoài văn phòng du lịch. Chúng tôi bắt tay nhau rồi Ramesh đi tìm khách. Tôi ngắm cái dáng cao gầy của anh di chuyển chầm chậm về hướng đường cái, trong khi tìm kiếm các hành khách khác. Anh vẫy một chiếc xe kéo đang mồi chài những người mang hành lý, rồi người cùng xe lẫn vào đám đông.

Khoảng nửa tiếng sau, một chiếc xe buýt màu trắng cũ mèm chạy đến. Đường phố vắng người, bóng đêm bao trùm Delhi và mấy ngọn đèn đường sáng lên như những vầng trăng nhân tạo. Chúng tôi cần năm khách nữa để xe chạy. Tôi xuống xe và đi tản bộ. Tôi đang lo ngại phản ứng của gia đình tôi trước quyết định bỏ việc và những ý tưởng viết lách của mình. Tôi cứ suy nghĩ về những phương án khác nhau cho việc đi lại ở Kashmir, việc ghé những nơi chốn và người quen cũ và viết về họ. Tôi có những nỗi lo riêng phải đối diện. Có thể nào tôi sai chăng? Hay là tôi nên đợi thêm ít lâu và trang bị cho mình tốt hơn? Cuối cùng chiếc xe buýt cũng lăn bánh. Đây sẽ là một chuyến đi dài – hai mươi bảy tiếng đồng hồ.

Tôi thức dậy khá muộn vào buổi sáng. Khoảng giữa trưa chiếc xe đã lê bánh trên con đường cao tốc uốn lượn ngoằn ngoèo trên núi. Chúng tôi sắp sửa vào thung lũng Kashmir thì một đoàn xe quân đội Ấn Độ bọc thép bắt đầu chạy qua đều đặn. Bọn lính mặc đồ ngụy trang và giáp chống đạn, mũ cối tuần tra trên đường, chĩa súng hung hãn vào những kẻ thù vô hình. Một tên lính chĩa súng ra trước, ra lệnh cho chúng tôi dừng lại. Một hành khách chế giễu, “Chào mừng đến Kashmir!”

Chúng tôi đến đường hầm Baniha, được đào xuyên qua núi bởi những kỹ sư người Thụy Sĩ vào năm 1953. Phía bên kia đường hầm là thung lũng Kashmir. Hai tên lính leo lên xe buýt và bắt đầu kiểm tra hành lý của chúng tôi. Chúng tôi bước thành hàng đến một trạm kiểm soát dựng bằng mấy bao cát. Từng người một bước vào, tay giơ cao. Bọn lính nhìn chằm chặp vào chứng minh thư và rà soát cả người chúng tôi. Có một sự thân thuộc đến kỳ lạ trong cái nghi thức này. Nó vừa bức bối vừa gần gũi. Theo một cách quái gở nào đó, nó cũng cho biết rằng chúng tôi sắp về tới quê hương.

Chiếc xe buýt chạy vào con đường hầm dài hai dặm, được thắp sáng leo lét bằng bóng đèn natri. Tiếng rên rỉ của máy hòa với dàn đồng ca bánh xe dội vào những bức tường đá đen. Mười phút dường như trôi qua thật lâu. Rồi cửa ra đường hầm xuất hiện như một hình bán nguyệt sáng lóa.

Tôi mở cửa sổ, nhón chân, thò đầu ra: Kashmir kia rồi! Nàng đấy: cái bầu trời xanh nhất trên đời che ngang dãy Himalaya cao hàng nghìn mét, lấp lánh các sắc màu nâu, xanh lá, xanh dương. Chiếc xe bẻ cua và nàng lúc này là một thung lũng bát ngát trải dài trong những cánh đồng lúa chập chờn như sóng, hướng về vòng cung uy nghi của núi. Làn gió nhẹ chữa lành cho tôi vết thương gây ra bởi mùa hè Ấn Độ. Tôi vươn cổ và nhìn về phía các đỉnh núi, tìm kiếm rặng núi tôi đã lớn lên cùng nó. Tôi nhìn thấy dãy núi che chắn làng mình và một rặng núi cao hơn, xanh biếc hơn gần trường tôi. Con đường rải đá giống như một dải ruy băng đen hướng về phía thung lũng. Những cây liễu cao thanh tú hai bên đường và những cây dương thấp, xanh hơn, mọc sát rìa những cánh đồng xếp thành từng hàng ngay ngắn, trong khi xe chạy qua hết làng này đến làng khác, qua những ngôi nhà bé tí bằng gỗ và gạch, mái lợp tôn. Ánh mặt trời le lói phản chiếu lên nóc một đền thờ, mấy ông chủ tiệm hạ cửa xuống, những người bán vé xe buýt gào tên khách và tên làng cho chuyến đi về nhà và bọn trẻ con thì vẫy lia lịa những khuôn mặt ẩn hiện thấp thoáng sau cửa sổ xe.

Một tiếng rưỡi sau tôi bắt đầu vào địa phận Srinagar. Thị trấn Srinagar thời hiện đại bắt đầu bằng doanh trại quân đội lớn nhất ở Kashmir: Badami Bagh, tức khu vườn hạnh nhân, nằm trên đường cao tốc nối liền Srinagar với phía nam tỉnh Jammu. Nó nằm đối diện với khu chợ nghèo có vài quán trà, tiệm may và hàng rau quả, được vây quanh bởi mấy bức tường xi-măng cao, nơi hàng hàng lớp lớp những chướng ngại vật bằng sắt, những boongke cát và những tên lính mặc áo giáp chống đạn luôn trong tư thế cảnh giác. Dọc theo đường xa lộ là một hàng dài xe quân đội. Phía trước đó một chút, ba con chó hoang và một con bò đực đang giành nhau đống rác để bới đồ ăn thừa. Mấy con chó xúm vào sủa con bò, còn con bò chĩa sừng về phía chúng.

Mặt trời đã lặn, hàng quán đã nghỉ và binh lính đi tuần tra khắp các ngả đường. Những cửa sắt đóng kín của các tiệm ngó trừng trừng sang phía Lal Chowk. Mấy tấm biển quảng cáo sặc sỡ phô bày tên cửa tiệm đã chìm vào bóng đêm. Vài chiếc xe kéo ở góc đường Lambert bắt đầu tách khỏi quảng trường trung tâm. Ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn đường rọi lên những bác tài đang nằm túm tụm trên bậc thang của một văn phòng thiên văn. Xa xa về phía trước, cách chỗ chiếc xe bọc thép của quân đội một quãng, là một đại lộ hoang vắng, hai bên là hàng cây chinar dẫn đến chòi canh có chiếc đồng hồ đã hỏng. Tôi leo lên một chiếc xe kéo ba bánh màu xanh-đen, luồn lách qua khe hở của những chiếc xe buýt và taxi. Bác tài bật đèn lên và chúng tôi đẫm mình trong thứ ánh sáng vàng nhợt của nó. Bạn luôn phải bật chiếc bóng đó lên để bọn lính thấy được bạn. Luật Quyền hạn Đặc biệt của các Lực lượng Vũ trang, một bộ luật do chính phủ Ấn Độ ban hành, cho phép binh lính đóng quân ở Kashmir được bắn bất cứ ai tình nghi. Nó cũng cho chúng quyền được miễn tố trước tòa. Đi xe lôi mà không có đèn có thể gây ra một sự nghi hoặc chết người cho đám lính tuần tra. Chúng tôi chạy qua những con ngõ và con lộ vắng tanh, dừng lại tại các trạm kiểm soát, trình chứng minh thư và phải mở hết túi xách. Chiếc xe tiếp tục chạy qua những con đường không có đèn, mà chỉ có những tia sáng yếu ớt của ngọn đèn cầy và đèn dầu leo lét phát ra từ các ngôi nhà. Có tiếng chó hoang tru lẫn với tiếng sủa ăng ẳng khi tôi bước vào ngôi nhà của cha mình.

Trong mấy tuần lễ sau đó, tôi nói cho cha biết ý tưởng viết một cuốn sách. Ông vừa gắn mạng internet. Trong quá trình chỉ ông cách lướt web, tôi đưa ông dạo một vòng các trang chuyên san và tạp chí văn học. “Mấy trang web này có ích hơn mấy tờ báo,” cha tuyên bố sau vài tuần. Nhưng ông đã choáng váng khi tôi nói với ông, “Đó chính là điều con muốn làm. Con muốn viết về cuộc sống và xã hội của chúng ta như thế này. Thực ra con đã nghỉ việc chỉ để làm điều này”. Ông nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính, trang có bài phỏng vấn nhà thơ, phóng viên người Ba Lan vĩ đại Ryszard Kapuscinski trong một tạp chí văn học. Cha bảo tôi tắt máy tính đi. “Bây giờ đã khá muộn.” Ông bước chậm rãi ra khỏi phòng tôi. Ông sẽ phải giải thích với những người bà con nhiều chuyện và bạn bè của ông, vì sao đứa con trai đã trưởng thành không đi đến văn phòng hoặc có một công việc bình thường như hầu hết người trạc tuổi nó.

Tôi dành mấy ngày đầu để gặp gỡ bạn bè cũ. Có một hôm, chúng tôi nhận được một thiệp cưới. Như thường lệ, trên tấm thiệp đề: HÔN NHÂN ĐƯỢC SẮP ĐẶT SẴN TRÊN THIÊN ĐƯỜNG VÀ ĐƯỢC TÔN VINH DƯỚI MẶT ĐẤT. Ashraf, con trai một người trong làng chúng tôi, sẽ lấy vợ. Thuở chúng tôi còn là mấy đứa trẻ con cùng chơi cricket với nhau trong sân đập lúa của làng, cậu ấy là một thằng cao lòng khòng. Giờ đây cậu là trợ lý của một tay thầu chuyên xây tường phòng hộ, đường xá và cầu cống. “Đích thân cậu ta đem thiệp đến đây đấy. Con phải đi dự thôi,” mẹ tôi nói.

Nhiều năm nay tôi không sống trong nhà mình ở làng. Việc học hành và sau đó là công việc, buộc tôi phải xa quê. Sau vụ nổ mìn, cha mẹ tôi đã dời đến Srinagar và tôi thường ở lại đó trong những chuyến viếng thăm của mình.

Hôm sau, tôi đón xe buýt đi Anantnag. Con đường dẫn về làng nhắc tôi về những tấm hình chụp Kosovo. Chính phủ trong nỗ lực mở rộng đường và cung cấp cơ sở vật chất tốt hơn cho du khách thăm Pahalgam – một đồn trên đồi cách đó vài dặm – đã phá dỡ tất cả nhà cửa hai bên đường. Những miếng gạch cẩm thạch nhiều màu từng được dán trên các bức tường nhà bếp và nhà tắm giờ đây đăm đắm nhìn tôi qua mấy cái lỗ nham nhở sau những lần cày xới của xe ủi của chính quyền. Làng tôi dường như đã thay đổi rất nhiều, nhiều nhà mới mọc lên trên những cánh đồng bên ngoài làng.

Ngôi nhà mới của ông ngoại tôi là một trong số đó. Nhưng dãy núi của chúng tôi – đường vòng cung dài hàng dặm tạo bởi rừng thông và cao hơn là những vách núi đá lởm chởm – thì vẫn như xưa, vẫn những bậc thang của các thửa ruộng đã được thu hoạch trống trơ trất, những đụn rơm hình nón nằm rải rác và tiếng chảy róc rách của dòng suối Lidder xa tít mang tôi về lại với những âm thanh của tuổi thơ. Đêm đầu tiên ở đây, tôi đi bộ thư thả xuyên qua những thửa ruộng và vườn táo của chúng tôi, ngắm chúng từ từ đổi sắc màu khi mặt trời di chuyển xa hơn về hướng Tây. Tại nơi này, tôi đã học nói, đi, đọc, viết, chạy, chửi thề và chơi bời. Tại nơi này, tôi đã ngủ giấc ngủ ngon lành nhất của mình.

Sáng hôm sau tôi dậy khá muộn. Giống như những phân cảnh của thời thơ ấu được tái hiện, Ngoại gõ cửa phòng tôi. Từ tiếng thét kinh hoàng, giọng ông chuyển sang thì thào êm dịu. Sau một tuần trà, chúng tôi đi về làng cũ của mình. “Thằng Ashraf bây giờ cũng kiếm được khá tiền, nên gia đình nó quyết định cưới vợ cho nó,” Ngoại nói. Chúng tôi đi đến một con hẻm dẫn về nhà cậu ta. Cái nhà cũ mái tranh tường gạch bùn được trang trí bằng những bóng đèn nhỏ xíu bọc giấy kiếng xanh, vàng, đỏ. Một cái lều trắng dựng ngay giữa sân.

Ashraf ngồi trên một cái ghế giữa đám phụ nữ và trẻ em. Cậu ta trông lịch sự trong bộ kurta [33] có cổ và khoác bên ngoài một cái áo vét đen. Cậu phát hiện tôi đang đứng trong một góc. Cậu đứng dậy; chúng tôi gặp lại nhau với một cái ôm chặt và một tiếng cười thật to. “Thế là hôm nay cậu lấy vợ rồi đấy!” tôi nói. Cậu cười và nói, “Trước sau gì ai cũng phải lập gia đình thôi.” Cậu ta cầm tay tôi và dẫn tôi đến chỗ chiếc ghế. “Tôi rất mừng vì cậu đến dự. Cũng khá lâu rồi nhỉ.” Tôi ngồi cạnh Ashraf trên chiếc ghế ai đó đã vội vã mang đến. Mấy cô gái hát véo von. Mấy cậu trai mặt đầy mụn và râu được cạo nhẵn cứ tìm lý do để đứng xung quanh chú rể rồi len lén liếc nhìn bọn con gái. Những người đàn ông trông rất bận rộn trong những bộ kurta rộng thùng thình, la hét các mệnh lệnh mà chẳng ai buồn để ý. Ashraf phải cắt tóc trước khi sang nhà cô dâu. Ông thợ cắt tóc trong làng mang đến một thùng đồ nghề. Khi ông bắt đầu xuống tay thì tôi đi gặp các vị phụ lão.

Phía sau ngôi nhà, một hẻm nhỏ được tận dụng như một gian bếp tạm bợ. Thức ăn được nấu trong những nồi nhôm đặt trên đống lửa nhóm giữa hai hàng gạch xếp lại. Các vị phụ lão ngồi tán gẫu và quan sát. Những người hàng xóm và họ hàng đã từng là các nhân vật thường trực trong thế giới của tôi. Cha của Ashraf, ông Khazer, một người đàn ông thấp, dẻo dai thường đội mũ để che cái đầu hói của mình, sẽ cho tôi một mẩu đường thô khi tôi đến nhà họ chơi. Còn kia là bác Amjad của cậu ta, người lúc nào cũng trông như sắp chết và hay nhờ lũ trẻ con đấm thùm thụp vào lưng để làm giảm cơn đau lưng. Tôi hay đấm ông mạnh tay hơn một tí rồi bỏ chạy trước khi ông có thể đánh tôi bằng cây gậy cũng già không kém gì ông ấy. Trong số những thanh niên đang phụ giúp có Nissar, bạn ấu thời của tôi. Một ông hói đầu ngồi trên pategih , một loại chiếu đan bằng rơm, đang bập tẩu thuốc. Còn kia là ông hàng xóm bán rau tên Bashir, là người phải chịu đựng nhiều trò nghịch ngợm đã làm tôi cười nôn ruột trong những ngày đầu của cuộc xung đột.

Tôi nhìn ông Bashir từ xa. Tôi thật mừng khi nhìn thấy ông sau nhiều năm và mừng vì ông vẫn còn sống.

Ông ấy suýt té xuống ghế khi tôi đến chào hỏi. “Trời ơi! Cậu đã trưởng thành rồi, thực sự là đã trưởng thành rồi!” ông ôm lấy tôi và cứ bắt tay tôi mãi. Chúng tôi cùng ngồi xuống và ông kể cho tôi nghe về cuộc hôn nhân của con gái mình. “Cậu đã không đến dự đám cưới của con bé Alia.” Giọng ông hơi tổn thương. Tôi giải thích, “Cháu ở Delhi, bị kẹt cứng vì công việc.” Ông hỏi thăm tôi, còn tôi trả lời chiếu lệ. Nhưng có một điều làm tôi lo lắng, là thái độ của ông đã thay đổi. Ông dùng lời lẽ rất khách sáo và một thái độ cung kính mà chúng tôi chỉ dùng với khách khứa. Tôi tiếp tục gặp Khazer, Amjad, Nissar và những người khác nữa. Tôi chờ đợi sự đối xử thân mật như ngày xưa, nhưng họ cũng như những người khác, cư xử với tôi như một người khách. Ông Khazer bảo tôi vào ngồi trong phòng dành cho khách. Khi tôi tình nguyện làm việc vặt, ông Amjad ngăn tôi lại. Thằng Nissar, cái thằng chưa bao giờ đi khỏi làng, bưng chồng đĩa và phục vụ khách khứa. Những việc vặt mà bọn thanh niên trong làng hay phụ giúp bây giờ không còn dành cho tôi nữa.

Tôi đã đi nhiều nơi và sống một cuộc sống khác. Nhưng mỗi lần điền địa chỉ thường trú vào đơn, tôi vẫn viết: Seer Hamdan, Anantnag, Kashmir . Mặc dù rất tệ với những con số, tôi không bao giờ quên mã vùng của làng mình: 192129. Tôi không thể quên trạm bưu điện của làng, có làn khói ẻo lả bay ra từ cái ống thiếc rỉ sét của cái bukhari , có bảng yết thị màu đỏ đầy bụi bặm và những nhân viên bưu điện mặc đồ kaki. Và còn ông Ramji, người phát thư của chúng tôi, người tôi cứ nghĩ là đã già ngay từ lúc mới sinh ra, với mái tóc muối tiêu rối bù phủ lòa xòa lên khuôn mặt nhăn nheo, bên dưới là đôi vai chùng trên thân hình dẻo dai. Buổi sáng ông nhận sửa mấy cái lò ở gần chỗ ông hàng thịt và buổi trưa ông chạy xe đạp quanh làng, đeo túi đay trên vai trái, rung rung chuông và dừng lại ở những nơi ông cần giao thư. Lũ trẻ trong làng chạy theo ông, đồng thanh hò reo, “Có thư cho cháu không, ông Ramji?” cho đến khi ông bực bội quá và đuổi chúng đi. Những lá thư ông Ramji giao thường không có số nhà, tên đường mà chỉ có tên người nhận và tên làng. Ông Ramji biết hết mọi người, những lá thư đều đến tận tay họ. Tôi không còn nhận được lá thư nào ở địa chỉ cũ nữa. Nhưng mỗi lần tôi điền một lá đơn, những khuôn mặt của thế giới thất lạc đó lại hiện lên trong ký ức tôi.

Cho đến giữa những năm tám mươi, không ai có điện thoại, chỉ một vài gia đình có tivi. Dân chúng thường tụ tập tại nhà Gani Haji, ông đánh xe ngựa, để xem tivi. Ông từng đến Mecca – thánh địa của người Hồi giáo – và mang về một chiếc tivi trắng đen. Hầu hết những người có máu mặt đều tập trung tại nhà Haji. Chiếc tivi đó từng được để trong căn phòng dưới tầng trệt và bạn có thể thấy nó qua cửa sổ. Trước khi gia đình tôi có tivi vào khoảng cuối những năm 80, tôi và thằng bạn Aafaiz thường trèo lên vai nhau để xem ké tivi qua cửa sổ.

Chúng tôi nghe tin tức qua radio, còn báo chí thì rất hiếm hoi. Lúc ấy ý nghĩa của tin tức khác nhiều so với hiện giờ. Nó không nhắc đến số lượng người chết hàng ngày, loại tin đó chỉ bắt đầu có từ sau năm 1990. Tin tức không nói đến sự tự quyết, tự chủ, chủ nghĩa khủng bố, các hội nghị, chiến lược, địa chính trị, trào lưu chính thống, lòng khoan dung, hay chủ nghĩa thế tục. Người ta lấy tin tức ở những nơi không người nào trong làng chúng tôi từng đến. Tin tức không nói về chúng tôi. Tôi nhớ cái ngày tôi về nhà, mang theo bản copy một tờ báo tiếng Anh bán chạy nhất ở Ấn Độ, tờ Thời báo Ấn độ, từ Anantnag. Trước khi tôi về đến nhà, một nhóm bô lão nhàn rỗi của làng ngồi trong một tiệm gần nhà chúng tôi, vẫy tôi lại. Tôi đã phải đưa họ xem tờ báo. Họ gần như nín thở trước mấy tấm hình và những dòng chữ in trên báo. Và vì nó là một tờ báo tiếng Anh, tôi được yêu cầu dịch rồi đọc nó lên. Hơn một thập kỷ đã trôi qua kể từ ngày ấy vào giữa những năm tám mươi. Những người già đã già hơn, lũ trẻ con đã thành thanh niên. Ông Amjad và bác Khazer vẫn còn ngồi lê đôi mách ở một cái tiệm cũ với những người khác. Báo chí đã về làng chúng tôi thường xuyên. Mọi nóc nhà đều hãnh diện khoe ăng-ten tivi. Trong làng có ba đại lý truyền hình cáp, cung cấp đến năm mươi kênh, kể cả BBC, CNN và bảy kênh tin tức khác của Ấn Độ, với giá chín mươi rupee một tháng. Người ta xem tin tức và đọc báo. Bây giờ tin tức cũng nói nhiều về chúng tôi. Aafaiz, thằng bạn thời chỉ có một cái tivi trong cả làng, lúc này đang điều hành một mạng lưới truyền hình cáp.

Màn đêm buông xuống và sau bữa tối Ashraf được đưa vào trong lều. Đây là đêm của cây lá móng: maenziraat . Những người đàn bà và các cô gái quây tròn lấy cậu ta và hát những bài hát đám cưới truyền thống. Mẹ của Ashraf bôi lá móng lên ngón tay nhỏ nhất của cậu; bạn bè và bà con chụp hình với chú rể. Tôi quyết định chống lại cơn buồn ngủ. Đây là dịp những bài hát Kashmir được hát sôi nổi theo nhịp của tumbaknaer , một loại nhạc cụ giống như cái trống, có một đầu bịt kín bằng da dê, được những người đàn bà gõ rất thuần thục. Căn lều rộn ràng tiếng hát của những phụ nữ và thiếu nữ mặc áo quần thêu thùa láng bóng, với một bài hát Kashmir truyền thống:

Hooreh Chayyih Wanwaan Nooreh Mahraazo

Aakho Shahrekih Sheerazo Aakho Shahrekih Sheerazo

(Houris hát tặng chú rể với khuôn mặt thiên thần,

Anh ấy chính là viên đá quý của thành phố)

Một giờ sau, mấy cậu thiếu niên đem vào lều hai cái loa và một máy nghe CD. Hầu hết chúng nó mặc áo thun và quần jean nhái của Calvin Klein, Lee và Levi. Hai chàng nhóc có thân hình đẹp nhờ tập thể hình mặc hai áo sơ mi vải sợi tổng hợp có in hai chữ HERO và SPORTY lo sắp đặt hệ thống âm thanh. Tiếng nhạc phim Hindi đinh tai nhức óc át hết những bài hát truyền thống. Một số bà lớn tuổi phản đối. Mấy cô gái mặt ửng hồng vì hạnh phúc, vây thành vòng tròn quanh các chàng trai, nhảy theo một bài hát ăn khách của Bollywood. Dần dần, đám con gái tiến đến gần hơn và ngắm nhìn các chàng trai đang xoay tròn tự giác theo những bài hát Hindi. Tiếng nhạc ầm ĩ, ca từ nhạt nhẽo và những động tác nhảy kiểu Bollywood đã trội hơn kiểu ăn mừng truyền thống.

Vào buổi sáng, cha của Ashraf bảo tôi ngồi cùng với những người đàn ông sẽ hộ tống Ashraf đến nhà cô dâu, nơi tổ chức nikah – lễ hát cho hôn lễ, với hai nhân chứng của mỗi bên, theo sau là tiệc wazawaan , một dạng nghệ thuật nấu nướng truyền thống có ba mươi sáu món thịt các kiểu của Kashmir. Vị trí đó chỉ được dành cho bà con thân thuộc và những người khách đặc biệt.

Trong một khoảnh khắc, tôi lang thang qua những con đường mòn, thoáng gặp quá khứ của mình ở khắp nơi, cho đến khi tôi đứng trong sân một ngôi nhà hai tầng mái lợp tôn. Không có đứa bé nào trong bãi cỏ trước sân, không có con bò nào với những đốm đen trên bộ da trắng bị cột vào cái cọc trong góc sân đăm chiêu nhai cỏ, cũng chẳng có chiếc xe đạp màu xanh da trời nào nằm bên cạnh chuồng bò. Bức tường bao làm bằng xi-măng tôi nhìn thấy lần đầu. Một người phụ nữ xa lạ đang tò mò liếc nhìn tôi qua cửa sổ nhà bếp. “Cậu đang tìm ai vậy?” bà ấy hỏi. Tôi không biết phải trả lời thế nào. Tôi cũng đang hỏi câu đó với chính mình; căn nhà mà bà sở hữu hiện nay là nơi tôi đã được sinh ra. Nó là tổ ấm chất chứa bao nhiêu kỷ niệm tôi mang theo mình. Nó mãi là tổ ấm trong suy nghĩ của tôi, dù đã được chuyển nhượng cho người khác.

Ashraf đang chuẩn bị để sang nhà cô dâu. Cậu mặc bộ vét màu nâu nhạt, đôi giày da cũng màu nâu và một khăn vấn tóc màu trắng thêu chỉ bạc. Trên cổ cậu là hai vòng hoa cúc vạn thọ và ba vòng tiền giấy mười rupee. Những người hộ tống cậu đang chờ trong sân. Người ta lại trò chuyện về việc ai sẽ là người tiếp theo và đám cưới đó sẽ diễn ra như thế nào, khi mà, từ lúc chiến tranh bắt đầu, tuổi lập gia đình trung bình ở Kashmir đã tăng từ hai mươi mấy lên trên ba mươi. Ashraf đã ba mươi hai tuổi, còn cô dâu thì ba mươi. Sự trì hoãn trong việc học và những khó khăn khi tìm việc làm đã đẩy lùi các ngày cưới lại trước sự bực bội của các bậc cha mẹ và ông bà. Điều này trở nên đặc biệt đáng lo đối với cha mẹ của các cô gái. Phần lớn người chết trong chiến tranh là thanh niên và còn có hàng ngàn người khác bị thương, bị trầm cảm và không có cơ hội tìm được việc.

Các phụ nữ và thiếu nữ quây thành vòng tròn, nắm tay nhau và hát. Họ di chuyển tới lui, nhịp chân, lắc đầu, lên giọng rồi hạ giọng. Đó là một phong tục cũ, được thực hiện trước khi chú rể sang nhà cô dâu lúc hoàng hôn và quay về sau bữa ăn tối. Người dân Kashmir đã bỏ phong tục được lưu truyền từ nhiều thế kỷ này kể từ sau đêm 16 tháng Năm 1990, khi lực lượng bán quân sự Ấn Độ xả súng vào một tiệc cưới và hãm hiếp cô dâu.