← Quay lại trang sách

Chương 10 Thành phố không niềm vui

Trong các bức ảnh cũ, Srinagar là những ngôi nhà, thánh đường và đền thờ có hàng rào mắt cáo trang nhã nằm đối diện nhau trên hai bờ của dòng sông Jhelum; là những người dân đi bộ thong dong trên bảy cây cầu gỗ, hay lang thang trong những khu chợ cũ bán gia vị, bán khăn và thảm được thêu thùa rất đẹp và bán ấm samovar được chạm trổ cầu kỳ, hay vừa râm ran cầu nguyện vừa bước vào trong ngôi đền cổ xưa phô bày các đoạn kinh Koran và câu thơ thần thoại trên các cửa sổ và cửa chính, với nội thất làm bằng giấy bồi màu xanh ngọc và xanh lục nhẹ nhàng. Nhưng tiếc thay sự trang nhã đó đã biến mất vào thời chiến. Những cây cầu gỗ đã sập hoặc xuống cấp. Bộ khung của chúng vẫn còn đó trong bóng của những chiếc cầu mới xây bằng xi-măng.

Cha mẹ tôi sống gần tả ngạn sông Jhelum, chỉ cách cây cầu thứ tám một đoạn đi bộ ngắn, cây cầu được xây sau này và được đặt tên là cầu Zero. Lal Chowk, trung tâm thành phố, tọa lạc ngay bên kia cầu. Tôi cuốc bộ ngang qua ba boongke, một máy ATM, một thánh đường, vài cửa hàng rau quả, mấy tiệm thuốc tây và cửa hàng văn hóa phẩm trước khi đến được bờ sông. Quần áo được phơi trên mấy sợi dây nylon buộc vào cột buồm của những nhà thuyền màu trắng và nâu nhạt đang neo chờ khách. Bên kia bờ sông, những con đại bàng chao lượn trên những cây chinar uy nghi, rồi bay vòng quanh bên trên cầu Zero và bay vút lên tận trời cao, cao hơn cả những ngọn núi tạo thành một lằn ranh ở phía đông thành phố. Một lão chài ngồi đợi khách trên chiếc shikara [34] , tay cầm một thân liễu làm mái chèo. Ông giục tôi ngồi ở phía đuôi thuyền để chừa chỗ cho người khác. Tôi khiếp vía khi đi trên những tấm ván lót thuyền đã mục đến nỗi nước đang từ từ tràn qua khe. Ông lão bật radio lên rồi đẩy chiếc thuyền xuống sông bằng cách tống mạnh cành liễu vào bờ. Hành khách nắm lấy hai bên mạn thuyền. Một bài hát vang lên giữa sự im lặng căng thẳng.

Vài phút sau, chúng tôi sang đến bờ bên kia, mỗi người trả một rupee và sau khi trình chứng minh thư với đám lính tuần tra bờ sông thì cuốc bộ vào trung tâm thành phố. Lal Chowk là một đại lộ đông đúc với những tòa nhà kiểu thập niên sáu mươi. Những người bán hàng rong rao bán giày nhái các thương hiệu và đồ điện cải tiến tràn ra khắp lối đi và những tiệm bán thảm thì treo thảm và khăn choàng rồi tuyên bố đầy tự tin rằng họ chuyên bán hàng thủ công chất lượng tuyệt hảo của Kashmir. Vài băng nhóm nhỏ côn đồ đập rầm rầm vào cửa các sạp báo chỉ để mua báo và những bài hát kiểu Bollywood tục tĩu phát ra từ mấy tiệm bán CD và VCD lậu. Lính Ấn Độ tuần tra đường phố, dáo dác quay đầu như chong chóng. Tôi đã bị bất ngờ bởi cái tên sơn trên một chiếc xe tải bọc thép của quân đội đậu bên đường. Tôi từng thấy những cái tên như thế nhưng chưa bao giờ chú ý lắm. Những mẫu tự Hindi, mà chỉ có vài người Kashmir có thể đọc được: MAHAKAAL – nghĩa đen là: cái chết cao cả, và cũng là một trong những tên của Shiva, vị thần hủy diệt của đạo Hindu.

Tôi đi ngang qua chiếc xe Mahakaal để đến một quán cà phê internet đáng tin cậy hơn nằm trong một khu thương mại cũ. Cạnh lối vào, một nhóm thanh niên và đàn ông đứng tuổi xúm quanh một xe bán trà lưu động. Những mảng xi-măng trên tường của tòa nhà bị tróc ra, và một cầu thang tối tăm dẫn lên tiệm cà phê. Tôi bước vào bên trong một căn phòng sáng rực. Những căn buồng bé tí ôm chặt lấy mấy bức tường trang trí hoa hòe hoa sói. Một người quản lý trẻ và một cô gái son phấn dày cộp ngồi sau quầy gỗ. Bài “Sexy Lady” phát ra từ một cái loa ở đâu đó. Mỗi buồng có hai ghế và những tấm ván gỗ tếch để lộ ra toàn chân với cẳng: giày thể thao, giày xăng đan, rồi lại giày thể thao, giày xăng đan. Những cặp đôi trẻ mua một giờ riêng tư với giá ba mươi rupee. Tôi chỉ vừa loay hoay gửi một email thì đường kết nối tắt phụt sau nửa tiếng. Chẳng ai than phiền gì. Tôi nghĩ đến cái lần đầu tiên tôi đến quán này vào năm 2001 ngay sau khi nó được mở. Vì những lý do an ninh, chính quyền đã ra lệnh cho mọi người phải trình chứng minh thư và cung cấp địa chỉ trước khi được dùng internet. Ít nhất thì cái ngày đó cũng đã qua.

Bên ngoài, số lượng xe hơi trên các con đường bắt đầu tăng lên. Người ta không thể lái xe qua Lal Chowk mà không bị kẹt đường. Mọi người nói về những khoản vay cá nhân dễ dàng và lượng tiền khổng lồ mà cả Ấn Độ lẫn Pakistan đổ ào ạt vào Kashmir để giành lấy sự tín nhiệm – một cuộc chiến tranh kinh tế. Thứ tổ chức duy nhất đã vươn lên mạnh mẽ tại Kashmir trong suốt thời kỳ xung đột là ngân hàng. Đi tản bộ vòng vòng Srinagar, thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp một bản tin, thông báo một nhà môi giới chứng khoán nữa được cấp giấy phép ở Bombay hay Delhi. Rất nhiều tiền đang được đầu tư vào cổ phiếu và chứng khoán. Trong chuyến quay về nhà, tôi đã gặp Ayaar, bạn cũ thời đại học. Là một kỹ sư cơ khí được đào tạo bài bản, một kẻ hâm mộ điên cuồng truyện trinh thám, cậu ta quay sang thị trường chứng khoán sau ba năm thất nghiệp. Chúng tôi cuốc bộ đến phòng làm việc của cậu nằm ở một trong những khu mua sắm xấu xí mới xây tại Srinagar. Có một bảng hiệu. Rồi chúng tôi vào một căn phòng sáng lờ mờ với những bức tường trống trơn. Cậu ta kiểm tra mấy màn hình nhấp nháy. Sau một tuần trà theo thông lệ, cậu cố thuyết phục tôi đầu tư vào cổ phiếu.

Vài phút sau, hai chàng trai trẻ bước vào. “Chúng tôi muốn đầu tư vào cổ phiếu,” một người nói, “nhưng không biết một chút gì về cách nó hoạt động.” Cậu bạn tôi biến thành một người môi giới chứng khoán. Cậu lấy ra hai chiếc ghế, bảo cậu bé giúp việc văn phòng đi lấy trà cho khách, đưa ra vài tờ quảng cáo và bắt đầu nhiệt tình giải thích về việc kinh doanh với anh chàng mù tịt kia. Mười lăm phút sau, cậu trở lại màn hình lập lòe và giải thích thêm lần nữa. Cậu chỉ ra những cổ phiếu đang lên hay đang xuống, nhận dạng những cổ phiếu bảo đảm và kể chuyện một người kiếm được năm ngàn rupee trong vòng năm tiếng đồng hồ. “Cậu cứ canh chừng thật kỹ, để ý tìm những manh mối và đây chính là nơi cậu sẽ hái ra tiền.” Như một nhà truyền giáo đầy nhiệt huyết, Ayaar tiếp tục thuyết giảng để củng cố lòng tin của những người cải đạo. Thị trường chứng khoán xem ra giống như một truyện trinh thám: những manh mối chính xác sẽ dẫn đến đúng mỏ vàng. Cổ phiếu và chứng khoán là những chữ đến từ một ngôn ngữ xa lạ với tôi: ngôn ngữ của Wall Street, của Bombay, của các tập đoàn Ấn Độ.

Nó hiện diện cùng với những chiếc xe bọc thép, các đám tang, bãi công, sự sợ hãi và nỗi tuyệt vọng. Thành phố Srinagar đã dựng đài tưởng niệm cho những thanh niên đã mất, song song với các khu mua sắm với bề mặt bằng kính lòe loẹt.

• • •

Tôi dần dần ổn định cuộc sống trong nhà cha mẹ, sắp xếp những quyển sách và đặt bàn làm việc cùng chiếc máy tính cạnh cửa sổ trông ra những cây dâu tằm và cây chinar. Lũ chim vẹt, sẻ và đại bàng bay ra bay vào lùm cây rồi vút lên bầu trời xanh trong vắt. Đó là mùa thu: mùa của những chiếc lá chinar vàng rơi xuống đám cỏ khô, rơi trên những lối mòn và rơi chạm vào người đi đường. Tôi thấy hạnh phúc được ở đây và dành các buổi trưa để chuyện trò cùng bạn bè trong những quán cà phê gần Lal Chowk.

Srinagar còn là một lời chào hỏi, một cuộc gặp gỡ với bạn tâm giao trên mọi con phố. Nó không cung cấp tình huống hay mốc thời gian cho các câu chuyện của tôi, cũng không giải thích các chi tiết hay ý nghĩa. Chỉ trong một lời nói, nó truyền tải còn nhiều hơn những trang viết bằng các thứ ngôn ngữ vay mượn của tôi. Nó không ngừng kể về cái quá khứ mà chúng tôi cùng chia sẻ, không hẳn là quá khứ xa xăm trong lịch sử mà là quá khứ gần đây – thời thơ ấu đẹp như mơ vào những năm tám mươi và sự kinh hoàng của những năm chín mươi.

Khi còn là một đứa học trò vào những năm tám mươi, tôi đã viếng thăm Pari Mahal – Cung điện thần tiên – được xây dựng vào thế kỷ mười bảy bởi vị hoàng tử Mughal phóng khoáng, Dara Shikhoh. Ngài Dara Shikhoh, vốn yêu thích học thuật uyên thâm hơn là nghệ thuật lãnh đạo đất nước, đã mời các nhà trí thức đến cung điện của mình để dịch những bài viết về triết học, tôn giáo và văn chương Ấn Độ sang tiếng Ba Tư và tiếng Ả Rập. Cha tôi đã kể đi kể lại câu chuyện này cho tôi nghe vì ông muốn tôi nhìn Pari Mahal như một nơi đa tôn giáo. Nhưng cũng như những đứa trẻ khác, tôi thích đứng chụp hình với lũ bạn học, chơi trốn tìm trên các thành lũy, hay ngắm cung điện lấp lánh trong đêm như đang được treo lên bởi những tia sáng kỳ diệu.

Một buổi tối tháng Chín, sau khi trình giấy phép tham quan và qua vòng kiểm tra an ninh, tôi lại trèo lên một đỉnh của dãy núi Zabarvan ở phía tây Srinagar, để về với Pari Mahal. Những bức tường đồ sộ gồ ghề của nó được trang trí bằng đá, với các khung cửa tò vò dẫn vào những căn phòng mái vòm, tương tự như trong những mái hiên ngoài vườn. Bên dưới cung điện là một khu rừng xanh tráng lệ và một sân gôn rộng bát ngát – nơi các chính trị gia, quan chức, cảnh sát và sĩ quan quân đội được bảo vệ bởi một toán lính có vũ trang, chơi gôn và xã giao trên thảm cỏ nhập từ Mỹ – trải dài đến tận hồ Dal, như một con tắc kè hoa cứ liên tục đổi màu mỗi khi ánh sáng cợt đùa rọi xuống mặt nước phẳng lặng, đẹp đến nao lòng. Du khách chụp cảnh mặt trời đang trôi về hướng những ngọn núi đứng duyên dáng và lặng lẽ. Cạnh lối vào, hai gian phòng được bao bọc bởi những cổng vòm bằng đá granite giờ đã biến thành trại lính, và là một nơi rất bừa bộn. Một tên lính đang bận rộn nấu nướng bên bếp lửa và vài tên khác đang chơi bida. Phía sau chúng, trong một gian phòng trần vòm le lói sáng, những khẩu súng máy nằm ngổn ngang trên những tấm cói. Xa hơn một chút phía bên trong cung điện, trên một phần đất cao hơn, là một tên lính gác đeo súng máy đứng trong một tháp canh đắp bằng bao cát. Pari Mahal đã trở thành doanh trại bán quân đội đẹp nhất thế giới.

Tôi bắt đầu hồi tưởng lại những cuộc viếng thăm của mình đến những khu tưởng niệm khác của Kashmir. Tôi nghĩ đến thư viện của trường cao đẳng Islamia, trường cao đẳng xưa nhất ở Srinagar đã bị thiêu trụi trong một trận đánh cùng với nhiều bản thảo, kể cả bản kinh Koran 1400 năm tuổi được viết bằng tay bởi Usman, vị calíp [35] thứ ba của thế giới đạo Hồi. Ngôi đền 600 tuổi của Nuruddin Rishi, vị thánh bảo hộ Sufi của Kashmir, đã bị phá hủy trong một trận đánh giữa lính Ấn Độ và quân khởi nghĩa. Các đền đài đạo Hindu và những tháp chứa hài cốt các vị sư và điện thờ Phật có mái vòm đang hấp hối trong quên lãng hay đang bị trưng dụng sai mục đích cũng là nạn nhân của cuộc xung đột này, như bao nhiêu con người khác.

Ashoka vị hoàng đế Ấn Độ vĩ đại cai trị một vương quốc bao gồm gần như toàn bộ vùng Nam Á, lập nên Srinagari (Thành phố của sự Phồn thịnh) vào khoảng năm 250 trước công nguyên bên rìa của khu vực Srinagar hiện đại. Sau một trận chiến đẫm máu, hoàng đế Ashoka đã từ bỏ bạo lực, trở thành phật tử và cống hiến đời mình cho việc giảng đạo. Từ những khóa đào tạo về Phật giáo như vậy ở Kashmir mà các nhà truyền đạo đã đưa đạo Phật sang Trung Quốc và Nhật Bản. Năm 1905, một nhóm nhà khảo cổ dẫn đầu là ông Daya Ram Sahari, khi đó là trưởng nhóm khảo cổ học của Kashmir, đã khai quật những phần còn sót lại của các ngôi tháp chứa hài cốt và tìm thấy những pho tượng Phật và hình ảnh của các vị thần Hindu trên sườn núi Pandrethan. Hầu hết các di vật đó được lưu giữ trong bảo tàng Sri Pratap Singh, được đặt theo tên một vị vua trong thế kỷ mười tám. Bảo tàng duy nhất ở Srinagar cách cầu Zero một quãng ngắn. Mấy cuộn dây kẽm gai nằm ngay trước cổng bé tí của bảo tàng đã xuống cấp; bọn lính tráng chiếm giữ một boongke ở gần đó. Những người canh giữ bảo tàng đang tán gẫu phía sau quầy tiếp tân bằng gỗ trên tiền sảnh bụi bặm. Họ chằm chằm nhìn tôi, người khách đơn độc, như thể tôi vừa bước vào phòng khách nhà họ.

Sau khi sự ngượng ngập ban đầu tan biến đi, tôi gặp ông Mohammed Iqbal, một nhà khảo cổ học trung niên của địa phương, người mặc cho cuộc xung đột vẫn tiếp tục xuất bản những quyển sách nho nhỏ về các khu tưởng niệm cổ xưa ở Kashmir. Sảnh chính bày đầy tác phẩm điêu khắc của vùng Pandrethan. Ông Iqbal dừng lại gần một hộp kính chứa hai bức tượng đứng không giá đỡ, một bằng đá granite xám ngả xanh lục miêu tả Đức Phật sau khi ngài từ bỏ thế giới. Khuôn mặt của ngài bị bể nhưng ngài vẫn tiếp tục ngồi thiền. “Hãy nhìn đôi mắt khép hờ và cặp chân mày cao kiểu người Mongoloid của ngài. Đó là phong cách Gandharan, chịu ảnh hưởng của Hi Lạp rất lớn,” ông Iqbal nói trong khi nhìn bức tượng với một nụ cười. Rồi ông hướng sự chú ý của tôi đến một tượng đá granite màu đen mô tả tích Phật đản, đó là việc Hoàng tử Siddhartha được sinh ra bởi Hoàng hậu Maya. Hoàng hậu Maya đầu đội vương miện châu báu, cổ đeo hai sợi dây chuyền và tay đeo một vòng chạm trổ, ngồi dưới một thân cây, tay này níu lấy nhánh cây còn tay kia thì được nâng đỡ bởi người chị gái cũng mang trang sức tương tự ngồi phía bên kia. “Nó không chỉ là một bức tượng, nó là cả một câu chuyện,” ông Iqbal giải thích. “Hoàng hậu Maya, khi mang thai Đức Phật, đau đẻ trong một khu rừng ở Lumbini trên đường đến nhà cha của bà ấy. Trong cơn đau đớn, một tay bà nắm lấy nhánh cây và một tay được chị mình trợ giúp. Những đường nét trên gương mặt của hai chị em bà Maya đậm chất người Mongoloid, giống như những đường nét của Đức Phật. “Kiểu trang trí chịu ảnh hưởng phong cách điêu khắc Maurya và Gupta của Ấn Độ, những đường nét trên mặt được định đoạt bởi trường phái Gandharan. Sự kết hợp hai phong cách này đã làm nên trường phái Kashmir,” ông Iqbal giải thích.

Vào sâu hơn một chút bên trong bảo tàng, chúng tôi bắt gặp một tác phẩm điêu khắc khổng lồ bằng đá granite về vị thần Hindu Shiva, được khai quật gần Pandrethan. Nó được xác định thuộc thế kỷ thứ ba, sau khi Kashmir đã trở về với đạo Hindu. Mặc dù tôn giáo thay đổi, Phật giáo vẫn có ảnh hưởng rõ ràng – thần Shiva ở đây trông giống như Đức Phật, ngoại trừ con mắt thứ ba trên trán. Rất nhiều tượng Phật và tượng các môn đệ của ngài, cùng tượng những vị thần Hindu khác nhau đứng xếp hàng dọc theo đại sảnh của bảo tàng. Ông Iqbal tin rằng nhiều cổ vật sẽ được phát hiện thêm nếu việc khai quật được tiếp tục. Nhưng rất ít khả năng điều đó sẽ xảy ra. “Sau khi chế độ quân chủ chấm dứt và vị hoàng tử đồng ý sáp nhập vào Ấn Độ năm 1947,” ông ấy nói, “quân đội đã thành lập cơ quan đầu não trong khu vực Pandrethan. Sau đó, vì những lý do an ninh, không có một cuộc khai quật nào được cho phép tại đó. Mọi việc càng trở nên tồi tệ hơn sau cuộc xung đột và tôi không cách nào đến tham quan những khu khảo cổ của Pandrethan đã lọt vào tay các doanh trại quân đội.”

Tôi rời bảo tàng để đến thăm nơi mà những bức tượng này đã được khai quật, cách cơ quan đầu não của quân đội chừng một dặm về hướng nam. Tôi đi bộ ngang qua một doanh trại có những bản tin tuyên truyền và ảnh bọn lính đang cố tươi cười khi rót nước cho các cụ người Kashmir hoặc cố tỏ ra quan tâm đến đám con nít Kashmir. Bên dưới mấy tấm ảnh là những lời: TÌNH YÊU VƯỢT LÊN TRÊN MỌI CHƯỚNG NGẠI.

Xa hơn một chút, tôi đến một ngôi làng – thật ra là một chợ nhỏ có mấy biển báo bán nước ngọt, khoai tây chiên. Một cụm nhà tồi tàn làm bằng gạch và xi-măng trải dài từ chỗ đất bằng đến tận ngọn núi phía trên. Không có gì để thăm thú – chúng vẫn còn nằm trong quyền kiểm soát của quân đội – nhưng tôi thấy tò mò, không biết dân làng có biết chút gì về thành phố Srinagar của hoàng đế Ashoka. Có hai cụ già làng nhớ mang máng đến những vụ khai quật hàng nhiều thế kỷ trước, nhưng chưa hề nghe chuyện gì về vị hoàng đế hay cái thành phố của ông.

Khi tôi còn nhỏ, cha đã kể cho tôi nghe câu chuyện về Hội nghị Phật tử Thế giới lần thứ tư được tổ chức tại Kashmir vào thế kỷ thứ hai dưới sự cai trị của Kanishka, vị vua theo Phật giáo ở Gandharan. Thỉnh thoảng lại có người tuyên bố đã tìm thấy địa điểm thật của hội nghị, nhưng hầu hết đều tin rằng nó được tổ chức gần vườn Harwan cổ xưa trên phần đất ven rừng phía tây bắc của Srinagar. Trong một chuyến du ngoạn cùng gia đình đến khu vườn – nơi có vô số con lạch và được che mát bởi những bóng cây chinar cao sừng sững – cha tôi đã chỉ vào một cồn đất phía trên và nói với tôi, đó chính là nơi người ta tin rằng hội nghị đã diễn ra.

Tôi đến đó vài ngày sau chuyến viếng thăm bảo tàng Srinagar. Như một điềm báo, những di tích của Phật giáo đã dẫn đường cho tôi đến một khu vực có nền cao, nơi năm 1905 các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một cái tháp cất giữ cốt, một sảnh cầu nguyện và những gian dành để ở. Ngay tại trung tâm của khu vực này là những phần sót lại của cái tháp. Tôi nhìn chăm chú vào phần nền và hai hình vuông đồng tâm làm bằng đá được đánh bóng sơ sài phủ đầy cỏ dại. Thật khó mà tưởng tượng hình thù nó sẽ ra sao. Bên trái là bốn bức tường đá đã đổ, phủ đầy rêu. “Đó là vihara, nơi các nhà sư gặp gỡ,” ông Mohammed Khazer nói. Ông làm việc cho Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ Ấn Độ với nhiệm vụ coi sóc khu tưởng niệm này. Theo nhà du khảo người Trung Quốc Hieun Tsang, hơn năm ngàn nhà sư đã tập họp về đây để thảo luận và tranh cãi về đức tin.

Trong bảo tàng, tôi đã nhìn thấy những vật được khai quật ở Harwan. Chúng không dính dáng gì đến Hội nghị Phật tử nhưng là những ví dụ có ích về công trình nghệ thuật ở Gandharan – những miếng gạch sành có hoa văn trang trí, một người đàn ông trông như có gốc Ấn – Hi Lạp tay cầm mũi tên đang đuổi theo một con hươu, một phụ nữ đeo hoa tai mỏng manh đội một chiếc bình trên đầu và một đôi vợ chồng đang chuyện trò trên ban công. Các phế tích của Harwan khó có thể thu hút du khách. “Trước đây, du khách từ Nhật và thậm chí từ Mỹ cũng đến đây,” ông Khazer nói, “nhưng không ai đến đây nữa kể từ khi cuộc chiến bắt đầu.” Bất chấp cuộc xung đột đã làm tan nát làng quê mình, ông vẫn tiếp tục đến đây hàng ngày. Công việc canh giữ tượng đài được dành cho những người bảo vệ giống như ông Khazer sau khi Trung tâm Nghiên cứu Khảo cổ Ấn Độ dời văn phòng từ Srinagar đến một thành phố ở phía nam Jammu.

Ngay cạnh trung tâm của những tàn tích, ông Khazer chỉ cho tôi xem một bức tường bằng đá cuội trộn với đá thô bóng loáng mới được xây gần đây. “Vào khoảng thế kỷ thứ nhất, những chùa chiền và tháp hài cốt được xây kiểu này. Hiện nay, một số nhà khảo cổ của chúng ta đang cố gắng tạo ra các bản sao, bằng cách sử dụng cùng một loại vật liệu,” ông nói. Không có dấu hiệu của việc trùng tu. Đêm hôm trước, một anh bạn nhà thơ gửi cho tôi một e-mail: “Các cặp tình nhân để lại những mảnh vỡ cũng như các nền văn minh”. Tôi nhìn những mảnh vỡ của tòa tháp và nghĩ, Các nền văn minh để lại những mảnh vỡ như các cặp tình nhân.

Quay về Srinagar, tôi ghé thăm đền thờ Akhund Mullah do Dara Shikhoh, vị hoàng tử Mughal ngộ đạo xây cho thầy của mình, trên sườn đồi Hari Parbat ở Srinagar. Tôi thấy có những phần đất bị chiếm dụng bất hợp pháp. Mấy bức tường đá vôi xanh của ngôi đền hình vuông sắp đổ xuống. Cái trần hình vòm đang lở ra từng mảng. Nhiều cửa sổ vòm đã biến mất và được thay thế bằng những kiểu cửa mô phỏng xấu xí. Một nhà tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ nằm cạnh đền thờ đã bị lũ choai choai trong làng biến thành phòng thể dục và mấy tấm áp phích hình Arnold Schwarzenegger [36] treo lủng lẳng trên tường. Tôi đọc được những bài thơ và đoạn kinh Koran được viết bằng thư pháp thật tinh tế trên những viên đá lát của mặt tiền ngôi đền. Lũ chim câu bay ra bay vào những lỗ hổng trên trần nhà. Một cái khóa bằng đồng đơn độc dính trên cửa, trong khi cái cửa đang cố bám vào những bản lề của nó như là một kỷ niệm của người tình đã bị lãng quên từ lâu.

Srinagar là thành phố cổ đang hấp hối vì một cuộc chiến của thời hiện đại. Nó là những ngã đường hoang vắng, những cửa tiệm đóng chặt, những tên lính dữ tợn và những bé trai cầm trên tay cục đá. Nó là hàng ngàn boongke quân sự, bốn sân gôn và ba tiệm sách tàm tạm. Nó là những chính trị gia xảo quyệt lặp đi lặp lại những lời dối trá về chiến tranh và hòa bình trước ống kính truyền hình và đám đông nhỏ bé tụ tập lại vì lời hứa về một công việc mơ hồ hay một khoản thù lao vài trăm rupee. Nó là việc phải dừng lại trên đường và tại những ngã tư khi đoàn xe bọc thép được hộ tống bằng hàng loạt súng máy của bè lũ cai trị và những kẻ bảo hộ cho chúng nghiến bánh xe rầm rầm trên các con đường đã bể nát. Nó là việc đăm đăm nhìn lại hoặc nhìn đi nơi khác trong nỗi cam chịu. Srinagar không bao giờ thắng, cũng không bao giờ bị đánh bại.

Báo chí Srinagar thường xuyên đăng cáo phó cho những nghĩa quân tử trận có khuôn mặt trẻ măng, u uất cạnh những dòng bi ai cho các khuôn mặt đứng tuổi mỉm cười trong bộ vét đắt tiền, những người nắm giữ các đặc quyền. Một số tiêu đề in bằng mực đỏ, thông báo về những cái chết. Những con số thống kê được cập nhật hàng ngày trên trang nhất. Srinagar là việc ngồi trong một tiệm cà phê, trong một văn phòng, bên ngoài trường đại học, hay băng ngang qua một cây cầu và cảm nhận, chạm vào, hít thở mùi vị của lịch sử, chính trị và chiến tranh, trong những dấu hiệu và địa điểm mơ hồ. Srinagar là việc nhìn vào một cây cầu, một vùng đất hoang, một tòa nhà tầm thường để biết rằng nơi đó đã có những người đàn ông ngã xuống, có những cậu bé bị tra tấn.

Là người làm báo, tôi đã có cơ hội gặp Merajuddin, cựu phóng viên ảnh người Kashmir, trông rất “ra dáng” trong cái áo khoác dành cho nhiếp ảnh gia. Merajuddin luôn đeo kiếng đen sau khi bị mất con mắt trái vì mảnh vỡ của một quả lựu đạn. Có lần tôi hỏi ông làm thế nào ông có thể đương đầu với bạo lực như thế khi còn là phóng viên. Ông nói như một người đã chứng kiến tất cả. “Tôi đã khóc như một đứa bé khi những người biểu tình bị thảm sát trên cầu Gawkadal. Sau sự kiện đó, không gì có thể làm tôi khóc được nữa.” Tôi nhớ lại cảnh mình đang ngồi cùng với gia đình và nghe tin về vụ thảm sát tại cầu Gawkada trên đài BBC Thế giới và hầu như mắt ai cũng ngấn lệ. Trưa hôm sau, tôi đi biểu tình cùng với các thanh niên và phụ lão, đàn ông và đàn bà, con trai và con gái của làng mình, hô to các khẩu hiệu chống đối vụ thảm sát. Tôi còn quá nhỏ để hiểu được sự tàn bạo dã man đến thế nào. Nhưng khi tôi lớn và bắt đầu hiểu rõ, ký ức đó luôn ám ảnh tôi.

Cầu Gawkadal cách trung tâm Lal Chowk vài trăm mét. Một buổi trưa nọ khi tôi đang đi ngang Lal Chowk, một đám con gái trong những bộ đồng phục trắng rạng rỡ ùa ra từ các cổng của trường cao đẳng gần bên, khuấy động mấy tốp con trai đang quanh quẩn gần đó ăn mặc như được nhân bản vô tính từ các ngôi sao nhạc pop. Đó là giây phút duy nhất bạn được thấy cơ man là phụ nữ Kashmir, những người chỉ thích màu hồng tươi, màu đỏ, xanh dương, xanh lá cây. Lũ con trai trong áo thun sặc sỡ như cầu vồng và quần vải đúng quy định có vẻ vô cùng kinh ngạc. Nhìn chúng nó, tôi nhớ lại một bức tranh biếm họa gần đây trên một tờ báo địa phương, vẽ một đứa con trai trên tay là một cái chén ăn xin bên ngoài cổng trường cao đẳng nữ.

Đó là cảnh tượng lặp đi lặp lại mỗi buổi trưa trước cổng các trường cao đẳng và trung học ở Kashmir. Mặc dù là một xã hội gia trưởng, Kashmir vẫn dành một khoản tiền cho việc giáo dục của nữ giới và việc đó đang diễn ra thuận lợi, khi nữ giới giành được nhiều giải thưởng trong các cuộc thi cạnh tranh cao – dù là trong những trường y, trường kỹ sư, hay các hệ nghiên cứu về luật, báo chí, hóa sinh, hay điện toán tại trường Đại học Kashmir hoặc một trường nào đó. Sau khi tốt nghiệp, họ nhận những vị trí xứng đáng trong xã hội – giáo viên, quản lý ngân hàng, bác sĩ, giáo sư, luật sư, nhà báo và kiến trúc sư. Tôi luôn tận dụng điều đó khi lớn lên trong sự bảo bọc của năm chị em gái của mẹ tôi, mỗi người đều có tấm bằng cao học ngành nhân văn và được đào tạo kỹ năng sư phạm trước khi tham gia giảng dạy ở nhiều trường trung học và cao đẳng.

Cách đám đông lộn xộn đáng yêu này không quá vài trăm mét là khu Maisuma, một căn cứ hùng mạnh của phe ủng hộ độc lập thuộc Mặt trận Giải phóng Jammu và Kashmir. Báo chí gọi nó là dãy Gaza của Kashmir. Maisuma là một cái chợ đông nghịt, đầy mùi quế và bạch đậu khấu từ những bao đay chồng chất trước các cửa tiệm tỏa theo gió sang bên kia đường. Một mùi khác của Maisuma là mùi bánh xe khét lẹt trộn lẫn hơi cay khi các cửa tiệm đóng chặt và dân chúng biểu tình chống bắt bớ và giết hại tù nhân. Cây cầu Gawkadal đã chết cùng với những người biểu tình vào tháng Giêng năm 1990. Bộ khung còn đó, hai cái trụ xơ xác trên con kênh bẩn thỉu.

Phía bên kia cầu là một boongke và bên ngoài boongke có hai tên lính gác. Gần đấy, một người bán chuối đang rong ruổi trên chiếc xe kéo. Hai người đàn ông đứng bên cạnh đang ăn chuối ngấu nghiến. Tôi hỏi thăm họ về vụ thảm sát. Một trong hai người, người đàn ông ngoài ba mươi có cái bụng phệ đang khổ sở trong chiếc áo gió rẻ tiền màu xanh nói, “Tôi có mặt trong đám biểu tình đó.” Anh ta quăng vỏ chuối xuống con kênh sình lầy và bảo tôi rằng nơi đó bị giới nghiêm suốt ba ngày liền, bọn lính đã rào khu vực xảy ra vụ thảm sát bằng dây thép gai và xe bọc thép của quân đội được lệnh đậu chắn tất cả lằn đường. Lực lượng bán quân đội đã cung cấp bánh mì và đậu lăng cho cư dân trong vùng. “Nhưng chúng tôi từ chối nhận thức ăn của bọn chúng. Mẹ chúng tôi bảo chúng tôi mang giày vào rồi đi sang Pakistan để được huấn luyện vũ trang,” anh kể. Rồi anh nhặt lên một trái chuối nữa và nói, “Sau cuộc thảm sát, tôi đã khiêng mười lăm cái xác đến đền thờ. Mắt của họ vẫn mở, chính tay tôi đã vuốt mắt họ. Tôi sẽ dẫn anh đến đền thờ và chỉ anh xem nơi chúng tôi đã để những cái xác đó. Tôi sẽ cho anh xem các tấm ảnh chụp xác, rồi anh có thể gặp gỡ những người phụ nữ có chồng bị giết. Nhưng tôi không thể cứ nói chuyện thế này. Anh nên mang một máy quay phim đến, thu hình cuộc phỏng vấn với tôi và chiếu lên Aaj Tak (một kênh tin tức của Ấn Độ).” Tôi chăm chú nhìn anh, từ chối vì tôi không có máy quay phim truyền hình, nhưng anh vẫn khăng khăng, “Lấy một máy quay phim đi, rồi đến đây trước thứ Hai. Tôi có việc làm vào ngày thứ Hai. Cứ hỏi thăm bất cứ ai về Babloo thợ sơn và họ sẽ dẫn anh đến chỗ tôi. Ở đây, tôi nổi tiếng tầm cỡ thế giới.”

Một tiếng sau, khi uống cà phê cùng bạn bè, tôi tường thuật lại cuộc gặp gỡ với Babloo thợ sơn tầm-cỡ-thế-giới cho một số người. Một người bạn nhắc tôi về một người kỹ sư đã thoát chết trong cuộc thảm sát. “Tôi nghĩ anh ấy vẫn còn làm việc tại sở cấp nước,” anh bạn tôi nói. Những cuộc gọi đến sở cấp nước chẳng giúp được gì cho tôi. Tôi nhất định gặp bằng được người kỹ sư đã sống sót trong vụ Gawkadal.

Một tuần sau tôi nhận được điện thoại của một người bạn. Lúc đó tôi đang dạy đứa em họ mười tuổi cách dùng Internet. Chúng tôi chỉ vừa mở được vài trang với tốc độ kết nối chậm đau chậm đớn thì có tiếng điện thoại reo. “Cậu Basharat này, cái tay kỹ sư đó sống gần nhà cậu đấy. Tên anh ta là Farooq Wani. Lưu số điện thoại của anh ta này.”

Farooq Wani đang ở nhà khi tôi gọi đến. “Tôi sống ở đường Green, khu Rajbagh. Cậu đến đi, chúng ta sẽ cùng uống trà,” anh ấy nói. Đường Green cách nhà tôi khoảng một dặm, là con đường của giới thượng lưu có một hàng dài các biệt thự xây bằng gạch đỏ và mái hình nón kiểu Kashmir. Một cô gái đang tưới hoa bên ngoài nhà của người kỹ sư. Cô ấy chỉ tôi đi thẳng vào phòng khách. Một người đàn ông phốp pháp ngoài bốn mươi với đôi mắt xanh và mái tóc nâu, mặc bộ vét màu xanh đậm, mở cửa. “Tôi là Farooq.” Anh mỉm cười và bắt tay tôi. Những chiếc bàn và ghế làm bằng gỗ óc chó chạm trổ đặt trên thảm. Những hình thù bằng giấy bồi được đặt trên các kệ của chiếc tủ đựng chén đĩa. Anh Farooq và tôi ngồi đối diện nhau.

Tháng Giêng năm 1990, anh là kỹ sư phụ tá trong chính phủ tiểu bang, quản lý việc cung cấp nước cho nhiều nơi ở Srinagar. Anh đang thực hiện một nhiệm vụ rất quan trọng vào ngày 19 tháng Giêng và rời khỏi nhà vào buổi sáng cùng với tờ giấy được phép thông hành trong đêm giới nghiêm. Vài tên lính của lực lượng bán quân đội chặn anh lại vài lần trên đường đi làm. Anh trình giấy phép và chúng để anh đi. Sau khi lắp đặt thiết bị cấp nước, anh đi bộ về Maisuma để thăm một ông chú. “Chúng tôi đã nghe tin về những vụ soát nhà và bắt bớ ở đó. Tôi rất lo lắng cho gia đình chú tôi nên quyết định đến thăm họ.” Gần Lal Chowk, anh thấy một toán diễu hành hùng hậu hướng về Maisuma. “Tôi đi theo toán diễu hành đó. Chúng tôi đến cầu Gowkadal. Có rất nhiều lính thuộc lực lượng bán quân đội trông rất căng thẳng đứng dài theo con đường, chĩa súng vào những người biểu tình.”

Anh Farooq ngừng lại, uống ít nước, rồi nhấn một cái chuông. Một người hầu mang trà, bánh mì và harisa, món thịt cừu được nấu thật lâu trong nồi đồng cùng với quế, nghệ và bột bạch đậu khấu cho đến khi nó trở nên giống như sáp. “Ông chú tôi sống ở bên kia cầu, tôi định sẽ rời toán diễu hành khi đến nhà chú ấy. Những người biểu tình rất giận dữ, dốc hết sức gào thét những khẩu hiệu nảy lửa,” anh kể. Lính bán quân đội đứng trên cầu. Những người biểu tình vẫn thét vang những khẩu hiệu đòi tự do. Giữa những tiếng hô khẩu hiệu, anh Farooq nghe thấy một tràng đạn. Loạt đạn đã làm đoàn biểu tình tan tác, người ta la hét, ngã xuống, rồi lại la hét. Anh phóng lên một lối đi và nằm sát mặt đất. “Đạn bay vèo vèo ngang tai tôi. Cây cầu đã phủ đầy xác người và lênh láng máu. Bọn lính CRPF vẫn tiếp tục xả súng. Tôi thấy nhiều người ngã xuống hơn, rồi tôi nhắm mắt lại, giả vờ chết.”

Farooq co rúm người lại trên ghế, bỏ dép trên thảm. Tôi không ăn được nữa, anh Farooq cũng bỏ ly trà của mình xuống. Ký ức đã nhấn chìm mùi vị của món harisa, những tấm thảm trang nhã và mấy món đồ trang trí nội thất cũng trở nên mờ nhạt. Anh Farooq không còn ngồi trong căn phòng này để trò chuyện với tôi. Anh đang ở trên cây cầu, giả vờ chết. Anh đang nghe thấy những tiếng hét đau đớn và loạt đạn cứ vài giây lại bắn một lần. Lính bán quân đội rảo bước quanh cây cầu. Anh nhìn thấy một tên sĩ quan đi đến từng cái xác một, kiểm tra xem có ai còn sống không. “Tôi nằm bất động và từ khóe mắt, tôi thấy hắn bắn thêm vài viên đạn mỗi lần phát hiện ra một người còn sống hay chỉ bị thương.” Anh Farooq chờ cho bọn lính bỏ đi. Càng lúc càng khó giả vờ chết. Gần chỗ anh nằm, ai đó đã làm rớt một cái kangri, loại bình lửa nhỏ mà người Kashmir luôn mang theo trong mình vào mùa đông. Những viên than đá đỏ hồng trong cái kangri rơi vung vãi trên lề đường. Gò má anh phồng rộp vì sức nóng của chúng. Anh xoay mặt đi thật chậm để tránh bị phỏng. Tên sát nhân nhìn thấy anh. “Cái thằng khốn này còn sống,” Farooq nghe hắn hét lên. Tên sĩ quan đó chạy lại chỗ anh, đá anh và xả một loạt đạn xuyên thủng người anh. Rồi anh bất tỉnh.

Một xe cảnh sát chạy đến. Những cái xác được chất lên xe, bọn cảnh sát thảy anh lên đó. Chiếc xe chạy đến phòng kiểm soát của cảnh sát, nơi người dân Kashmir sẽ đến nhận xác người thân trong những ngày sắp đến. Bên trong xe, anh Farooq tỉnh lại và nằm im. Xe dừng lại tại bệnh viện của cảnh sát cách cầu Gawkadal hai dặm. Khi cảnh sát ở bệnh viện bắt đầu đem xác xuống, anh la to, “Tôi còn sống!” Những viên cảnh sát, tất cả đều là người Kashmir, ôm chầm lấy anh. Khi họ mang anh đi thì một thằng nhóc quần áo mặt mày đẫm máu nhảy ra khỏi đống xác chết. Thằng bé lấy tay rờ khắp người nó rồi hét lên, “Tôi không dính đạn. Tôi không dính đạn. Tôi còn sống.” Nó đứng im một lúc rồi chạy ùa ra khỏi tòa nhà. Anh Farooq phải nằm viện. Gia đình anh được tin anh còn sống một ngày sau đó. “Họ tưởng là tôi đã chết.”

Nhiều tháng sau đó, anh phục hồi sức khỏe và trở lại làm công việc kỹ sư. “Hôm ấy Thượng Đế đã ban tặng cho tôi một cuộc đời mới. Tôi biết ơn ngài và sống trọn vẹn từng giây phút. Tôi cũng thường nghĩ về thằng bé đã chạy ra khỏi bệnh viện. Những ký ức như thế làm cho tôi trăn trở mãi. Nhưng tôi không phải là người duy nhất, mà có hàng trăm người giống như tôi vậy.”

Chúng tôi dùng thêm một tuần trà kahwa nữa và trò chuyện về Kashmir thêm một lúc. Anh băn khoăn, không biết cuộc xung đột có được giải quyết hay không và làm sao để có một nền hòa bình dài lâu. Đó là câu hỏi của hầu hết người Kashmir. Không ai trong chúng tôi biết câu trả lời. Bỗng điện thoại của anh reo: một nhân viên của anh gọi. Farooq hướng dẫn anh kia một loạt kỹ thuật phức tạp. Nhìn anh nói chuyện với sự tập trung căng thẳng, thật khó mà tưởng tượng được chính người đàn ông này đã sống sót qua một trong những vụ thảm sát kinh hoàng nhất ở Kashmir. Trong góc nhà có một bộ gậy đánh gôn. Anh hiện là thành viên của câu lạc bộ gôn thượng lưu của Srinagar.

• • •

Iffat, cô em họ mười tuổi của tôi, đang đợi tôi ở nhà để giúp nó viết một bài tập làm văn. “Anh đi gặp ai vậy?” con bé hỏi ngay lúc tôi vừa bước vào.

“Một người bạn của anh,” tôi nói.

“Anh ấy làm nghề gì?”

“Anh ấy là kỹ sư.”

“Tại sao anh lại đi gặp anh ấy?” Những câu hỏi của nó có thể kéo dài vô tận, nên tôi gợi ý là chúng tôi nên cùng nhau làm bài văn của nó. Sau khi xong xuôi hết, tôi ngồi một mình trong phòng, nghĩ về anh Farooq, về anh chàng Babloo thợ sơn và cây cầu Gawkadal. Với tôi, vụ thảm sát trên cầu Gawkada đã gắn chặt với ký ức về hàng loạt các vụ thảm sát khác. Trong mùa đông của năm 1990, Srinagar là thành phố của những cuộc thảm sát. Các nhóm nghĩa quân nổi dậy cùng với các lực lượng Ấn Độ đã phơi bày một sự tàn bạo. Ông Mushirul-Haq, hiệu phó trường Đại học Kashmir, đã bị bắt cóc và giết chết sau khi chính phủ Ấn Độ từ chối đòi hỏi của quân nổi dậy là thả các con tin. Những Pandit và người Hồi giáo Kashmir xuất chúng, được xem là thân Ấn Độ, trở thành mục tiêu kế tiếp. Ngày 21 tháng Năm 1990, phe nổi dậy thuộc Hizbul Mujahideen, một nhóm nghĩa quân ủng hộ Pakistan, đã ám sát vị giáo chủ của Srinagar, ông Maulvi Farooq, một chính trị gia lừng lẫy. Cuộc tuần hành của những người để tang cho ông bắt đầu từ nhà ông ở khu vực phía bắc của Srinagar.

Gần ngôi trường một trăm tuổi cổ kính ở trung tâm Srinagar, được cha ông Maulvi Farooq xây dựng với mục đích giáo dục dành cho những người Kashmir Hồi giáo, lực lượng bán quân đội đã xả súng xối xả vào đoàn người đưa tang. Các viên đạn xuyên thủng quan tài, còn những người khiêng quan tài và đưa tang thì ngã xuống. Khoảng một trăm người bị sát hại. Những đôi giày dính đầy máu của họ nằm lại trên đường sau khi xác của họ được mang đi. Người ta quên đi vụ ám sát vị giáo chủ và thay vào đó, cơn thịnh nộ đối với Ấn Độ dâng trào. Omar Farooq, đứa con trai mười tám tuổi vừa làm lễ nhậm chức giáo chủ của ông, đã khẩn khoản kêu gọi sự giúp đỡ của các nhà lãnh đạo trên thế giới nhằm mang lại cho Kashmir quyền tự quyết. Những hình ảnh của vụ thảm sát đó đã đi vào thơ ca và hội họa.

Nhiều người đưa tang hôm đó đã được an táng tại một nghĩa trang mới, được xây gần Eidgah, mảnh đất truyền thống ở Srinagar dành cho việc cầu nguyện trong lễ Eid. Trong bao thế kỷ nay, người Kashmir đã chôn cất người chết tại những nghĩa trang quanh vùng. Các thành viên trong gia đình sẽ tắm cho người quá cố, mặc cho họ chiếc áo thụng màu trắng và đưa thi thể đó đến nghĩa trang để làm lễ tang. Nhưng những người bị giết bởi các lực lượng Ấn Độ trong các cuộc nổi dậy thì không phải là những người chết bình thường. Họ được xem như những người tử vì đạo, hy sinh cho tự do. Họ không được tắm hay mặc áo thụng trắng. “Những người tử vì đạo không cần được tắm rửa hay mặc áo thụng.” Tôi được nghe câu nói này thường xuyên kể từ mùa đông năm 1990. Họ được an táng hầu hết tại nghĩa trang mới xây ở phía tây của Srinagar, được người dân Kashmir biết đến như Nghĩa trang liệt sĩ. Tôi đến đó trong tư cách phóng viên sau mỗi vụ thảm sát hoặc vào ngày tưởng niệm những người đưa tang và vị giáo chủ của Srinagar. Nhưng lần đầu tiên tôi đến đó là vào giữa những năm chín mươi, cùng với bạn của tôi, Shan, người sống gần đó.

Bao bọc khu dân cư đông đúc gồm những căn nhà gỗ và gạch nhiều tầng có ban công nơi Shan ở, là một sân chơi ngập cỏ, nơi lũ con trai chơi cricket và mấy con ngựa, bò lạc đứng nhai cỏ. Tôi đến thăm lại nơi ấy cùng với Shan. Trong một góc, cái nghĩa trang là bãi đất vuông vức có tường bao bọc. Nơi lối vào có thông báo: NGHĨA TRANG LIỆT SĨ KASHMIR. Trên cổng có khắc dòng chữ: XIN ĐỪNG QUÊN RẰNG CHÚNG TÔI ĐÃ HY SINH NGÀY HÔM NAY CỦA MÌNH ĐỂ ĐỔI LẤY NGÀY MAI CHO CÁC BẠN. Trong thời niên thiếu, Shan đã ngồi trước các cửa tiệm và nhìn những xác người được mang vào nghĩa trang và các phóng viên báo chí vác máy ảnh và sổ ghi chép chạy vòng quanh.

Chúng tôi đi qua cái cổng bằng lưới sắt và bước trên những lối nhỏ lát đá cuội chạy giữa các ngôi mộ, giữa sắc đỏ và tím kiêu hãnh của hoa hồng và hoa diên vỹ. Hàng trăm ngôi mộ xếp thành nhiều dãy thẳng tắp, mỗi ngôi mộ có một bia đá cẩm thạch hình chữ nhật với đường viền màu xanh lá cây khắc tên của người chết và lời đề: CHỈ CÓ THƯỢNG ĐẾ LÀ VĨNH CỬU! Có rất nhiều cái tên quen thuộc với tôi: Maulvi Farooq, vị giáo chủ và Ishfaq Majeed, chỉ huy lực lượng JKLF (với chữ “Ngài” được gắn trước tên). Có một ngôi mộ dành cho ông Maqbool Bhat, người sáng lập JKLF, đã bị treo cổ và chôn tại nhà tù Tihar ở Delhi vào đầu những năm tám mươi. Trên tấm bia là dòng chữ: PHẦN MỘ NÀY ĐỢI CHỜ ÔNG ẤY. Và còn bao nhiêu người vô danh khác từ khắp nơi trong bang Kashmir. Trong một ngôi mộ, có hai đứa trẻ con – bốn và năm tuổi – được chôn cùng với nhau. Hầu hết bia mộ đều nêu tên của những kẻ sát nhân: cảnh sát, quân đội, các lực lượng an ninh, như thể chúng cũng trở nên bất tử.

Ở một góc nghĩa trang có vài ngôi mộ trống. Ông Hasan, người giữ nghĩa trang nói rằng chúng được đào sẵn dựa vào dự đoán số lượng người chết trong thời kỳ đầu những năm chín mươi. Ông Hasan sống gần khu vực đó và từng làm nghề buôn nhỏ. Sau lần ông phát bệnh tim mạch thì người con trai đã thế chỗ ông. Rồi cuộc chiến bắt đầu, ông thường viếng nghĩa trang để cầu nguyện cho những người chết. “Ta tìm thấy sự thanh thản khi ngồi giữa những liệt sĩ. Vài năm sau, ta tình nguyện chăm sóc mồ mả cho họ. Bây giờ việc này chính là cuộc sống của ta.” Như những người đạo Hồi khác, ông Hasan tin rằng những người tử vì đạo vẫn sống sau khi họ đã chết và mộ của họ là những khu vườn tỏa hương. “Có lần trời mưa rất to và vài ngôi mộ đã bị hư hại. Không có gì sót lại trong những ngôi mộ bình thường ngoại trừ đất. Nhưng điều đó không đúng với những người đã tử vì đạo, bởi thân xác của họ không bị mục rữa. Trong một ngôi mộ, ta đã thấy tóc của người tử vì đạo. Nhìn giống như là anh ta đang ngủ. Tất cả ngôi mộ ta đã sửa chữa đều dâng lên một mùi hương thiên đường, mùi hương của những liệt sĩ,” ông Hasan nói. Chắc hẳn thấy cái nhìn đầy nghi hoặc của tôi nên ông Hasan đã nói, “Con trai ạ, con còn quá trẻ để hiểu được điều này, nhưng ta đã kinh qua việc đó.”

Chuyện kể về những cuộc nổi dậy của người Kashmir, về sự đàn áp tàn bạo của bọn cầm quyền và việc tôn vinh những người đã chết như những liệt sĩ, là chuyện đã cũ. Bao thế kỷ nay ở Srinagar, người ta vẫn viếng thăm mộ của những người đương đầu với bọn cai trị và bị giết. Có một Nghĩa trang liệt sĩ khác, chôn cất những người bị giết vào năm 1931 bởi quân của Hari Singh, cai trị người Kashmir, mang dòng máu Dogra. Sau khi đánh mất nền độc lập vào tay những hoàng đế Mughal của Delhi vào thế kỷ mười sáu, Kashmir đã có rất nhiều kẻ cầm quyền ngoại bang. Vào khoảng giữa thế kỷ mười tám, các Mughal đã để mất Kashmir vào tay đội quân của một chiến binh người Afghanistan là Ahmad Shah Abdali. Và đầu thế kỷ mười chín, Ranjit Singh cầm đầu những người Sikh đã đánh bại quân Afghanistan và chiếm Kashmir. Sự thống trị của người Sikh cũng nặng nề như của người Afghanistan. Các thủ hiến người Sikh đóng cửa tất cả đền thờ và bãi bỏ việc nhắc nhở cầu nguyện của đạo Hồi. Nhiều thứ thuế nặng nề được ban hành, những người nông dân bị bắt buộc lao động khổ sai. Nhưng cho đến những năm 1840 thì đế chế thống trị Sikh đã bị lung lay.

Năm 1846 quân Anh tuyên chiến với người Sikh. Rất nhiều lãnh đạo phe Sikh đã ngả sang phe Anh. Nhưng lỗi lầm đáng tiếc đã gây ra hậu quả lớn cho Kashmir là việc làm của Gulab Singh, một thủ lĩnh Hindu của tiểu bang đồi núi Jammu, cũng là khu lân cận với thung lũng Kashmir. Hắn đã phấn đấu vượt bậc để trở thành một vị tướng trong quân đội của Ranjit Singh. Gã Gulab Singh đã hứa hẹn giúp quân Anh và sẽ không tham gia vào trận chiến năm 1846. Quân Sikh thua trận. Còn gã Gulab được ban thưởng. Người Anh bán Kashmir cho hắn với giá bảy trăm năm mươi triệu rupee. Để lấy lại số tiền hắn đã trả cho người Anh, Gulab Singh vơ vét từng xu mà hắn có thể bòn rút được, đồng thời đẩy mạnh begaar (chế độ cưỡng chế lao động).

Cũng có một vài tiếng nói chống lại sự mua bán bang Kashmir và cuộc sống khốn cùng của người dân dưới sự cai trị của Gulab Singh và con cháu của hắn. Khoảng vài năm trước trong một thư viện ở Delhi tôi đã tình cờ thấy một quyển sách in tại Luân Đôn, có tựa đề Sự cai trị kém ở Cashmeer của tác giả Robert Thorpe, nhưng cuốn sách lại không nói gì về cuộc đời của ông. Trong một lần về thăm nhà, tôi tìm thấy trong thư viện của cha tôi một cuốn sách của Thorpe, được một sử gia gốc Srinagar biên tập. Sử gia này đã thêm thắt nhiều chi tiết. Câu chuyện bắt đầu khi R. Thorpe, một đại úy quân đội Anh đang tham quan khắp bang Kashmir vào đầu thế kỷ mười chín. Trong thời gian ở trọ tại nhà một người dân địa phương, ông ta gặp cô Amiran, con gái của chủ nhà. Thorpe và Amiran đã yêu nhau, cưới nhau và cùng về Anh. Họ sinh ra Robert Thorpe năm 1833.

Trong thời niên thiếu, Thorpe đã từ Anh sang thăm nơi chôn nhau cắt rốn của mẹ và ông đã chứng kiến cảnh người dân Kashmir sống như nô lệ dưới sự cai trị của Pratap Singh, con trai của Gulab Singh. Ông đã thu thập được các con số mắt thấy tai nghe về sự đánh thuế tàn nhẫn và về cái chết của những người bị cưỡng chế lao động do bị bỏ đói, kiệt sức và không đủ ấm và ông đã xuất bản những báo cáo đó dưới cái tên Sự cai trị kém ở Cashmeer . Ông Thorpe đã miêu tả tình trạng của những người bị bắt đi cưỡng bức lao động: “Không ai cứu được họ – những người đã chứng kiến toàn bộ sự khủng khiếp đó. Những người Kashmir đã nhẫn nại, làm việc quần quật qua mưa tuyết dày đặc. Nhiều người cố động viên nhau bằng niềm hy vọng. Họ có thể sang được phía bên kia an toàn. Nhưng họ đã sức cùng lực kiệt và những trận gió đã làm tê bại cơ bắp của họ. Dần dần, cái cảm giác đinh ninh xiết chặt lấy tim họ, bảo rằng họ sẽ không bao giờ rời bỏ được trạng thái cô độc khủng khiếp đó, sẽ không bao giờ được thấy lại tổ ấm của mình hoặc thấy những con người lắt lay bám víu để chờ đợi họ trở về, ở một nơi xa xôi trong thung lũng Kashmir ngập ánh mặt trời.” Pratap Singh đã lập kế hoạch buộc ông Thorpe giữ im lặng. Một buổi sáng mùa đông năm 1868, ông Thorpe đang đi bộ về hướng đồi Shankaracharya ở Srinagar thì lính của tên Singh đã tấn công ông bằng dao găm. Nhà văn dũng cảm đã ngã xuống và chết tại đó. Ông được chôn cất trong một nghĩa trang Thiên chúa giáo nằm phía sau Lal Chowk.

Những nam nữ sinh của hai trường dòng đứng láo nháo trên con đường dẫn vào nghĩa trang. Những người Tây Tạng sang tị nạn ở Kashmir vào những năm sáu mươi đang bán giày dép và quần áo trên lề đường. Tôi thấy dòng chữ Nghĩa trang Thiên Chúa giáo khắc trên một cổng sắt nhỏ. Bên trong, có ba người đang ngồi trên vỉa hè. Tôi hỏi thăm họ về ngôi mộ của ông Robert Thorpe, họ chưa bao giờ nghe đến tên ông. “Mộ ở đây toàn là của những người theo đạo trong vùng,” một người có dáng bệ vệ nói. Rồi ông ta chỉ tay về phía tận cùng của nghĩa trang. “Anh sẽ thấy mộ của những quý ông quý bà người Anh ở đó.” Cỏ dại mọc tràn lan quanh mấy ngôi mộ bằng đá cẩm thạch và đá vôi, những cây chinar và cây thông đường bệ che mát cho khu nghĩa trang dạng bậc thang này. Người đàn ông bệ vệ nhờ tôi dịch những dòng văn bia viết bằng tiếng Anh. Mỗi lần phát hiện ra một ngôi mộ cả trăm năm tuổi, ông lại la to, “Không có gì tồn tại mãi! Tất cả chúng ta đều trở về với Người! Người đã tồn tại và sẽ là duy nhất. Người sẽ mãi tồn tại! Tất cả chúng ta rồi sẽ trở về với Người!” Tôi không thể tìm thấy mộ của ông Thorpe.

Tôi đang đọc một dòng văn bia thì có một người lắc vai tôi và đòi tôi trả năm mươi rupee. “Tôi sẽ chỉ cho anh một ngôi mộ rất quan trọng. Nhiều người đã đến thăm và chụp ảnh nó.” Ông ta đưa tôi đến một ngôi mộ đã cũ, thời gian đã biến màu đá vôi của nó thành màu đen. Cỏ dại và các cành cây nhỏ đã phủ kín mộ. “Ông có biết gì về ông ấy không?” tôi hỏi. Ông ta cười khúm núm. “Không! Nhưng ông ấy là một người rất quan trọng.” Tôi gỡ bỏ những nhánh cây khô và cỏ dại, rồi phủi bùn đất trên tấm bia mộ. Những hàng chữ khiêm tốn được khắc trên bia đá như sau:

ROBERT THORPE

30 TUỔI

22 THÁNG MƯỜI MỘT 1868

VERITAS

ÔNG ĐÃ HIẾN CUỘC ĐỜI MÌNH CHO KASHMIR

Srinagar là thành phố của các boongke. Trong số các thành phố trên thế giới, nó đứng đầu về mật độ hiện diện của quân đội. Nhưng Srinagar cũng là thành phố của sự thiếu vắng. Nó đã đánh mất những buổi tối của mình cho hơn một thập niên rưỡi toàn những đêm giới nghiêm chính thức và không chính thức. Nó đã đánh mất các rạp hát của mình: Regal, Shiraz, Neelam, Broadway – những cái tên huyền diệu mà tôi đã mơ ước suốt thời thơ ấu. Chúng đã bị đóng cửa trước khi tôi kịp lớn để tự mua vé và xem một bộ phim dở tệ của Bollywood.

Srinagar cũng đã đánh mất tính cách đa tôn giáo của nó cùng với làn sóng di dân của các Pandit người Kashmir đầu những năm chín mươi. Tôi còn nhớ nữ chủ nhà Pandit của tôi ở Delhi. Bà ấy luôn nói về việc thăm lại nhà cũ của mình ở Srinagar. Tôi không biết nhà của bà ở đâu, nhưng tôi có thể ghé qua khu vực bà từng sống: Habbakadal, trung tâm của Srinagar. Một buổi trưa nọ, tôi đi vào một tiệm cà phê gần cây cầu Habbakadal xiêu vẹo, chiếc cầu thứ ba trên dòng sông Jhelum chảy ngang Srinagar. Một thằng bé bận áo thun Adidas đang trông quầy hàng. Cha của nó là chủ tiệm này. Tôi hỏi thăm nó về những nơi thú vị của Habbakadal. “Ở đây không có gì để xem hết. Nó là một đống đổ nát. Đi dọc xuống dưới đường thì ông sẽ thấy mấy căn nhà cháy rụi,” nó nhún vai nói.

Tôi sắp sửa rời khỏi tiệm thì một người đàn ông lớn tuổi đi vào. Thằng nhóc lật đật quăng điếu thuốc của nó đi. “Ông ấy là cha tôi.” Nó nhảy xuống ghế. Người cha ngồi sau quầy nhìn ngắm thiên hạ qua lại. Tôi hỏi thăm ông ấy về khu vực này. “Quẹo trái, cái nhà lầu thứ hai tính từ tiệm của tôi là một ngôi đền Hindu cổ xưa,” ông trả lời.

Tôi rời tiệm, đi bộ lên cổng đền thờ rồi dừng lại. Cả khu đền thờ giờ đây là một doanh trại bán quân đội. Hàng loạt boongke sừng sững đứng dọc các bức tường che khuất quang cảnh điện thờ. Tôi nhìn thấy mái thiếc và đỉnh tháp bằng đồng của ngôi đền. Có một miếng sắt sơn xám gắn vào một boongke cát. Trên đó, một dòng chữ đậm xịt bằng mực đen viết: Ấn Độ vĩ đại! Một cột cờ Ấn Độ được gắn vào cái boongke đó.

Trên cây cầu hiện nay chỉ dành cho những người đi bộ, một nhóm cụ già đang ngồi sưởi nắng. Tôi ngồi cạnh họ, nhìn về hướng những ngôi nhà gỗ nằm dài trên bờ sông. Trên một bến nước, những người đàn bà ngồi giặt quần áo và lũ trẻ con chạy lên chạy xuống mấy bậc thang dẫn đến bến nước. Ông Abdul Razaq, một trong số các cụ ngồi đó, chỉ tay vào những căn nhà xiêu vẹo nằm dọc theo bờ sông nói, “Phần lớn là nhà của các Pandit. Những người đó bỏ đi và bây giờ thì nhà họ bỏ hoang.” Ánh mắt ông lướt qua những cánh cửa sổ gỗ mục nát và những mái nhà ốp ván bám đầy bụi bặm nằm hoang phế. Bà Kaul chắc sẽ sống trong một ngôi nhà như vậy, cách chỗ tôi đứng không xa lắm. Bên tả ngạn sông, mái lợp dát đồng của một ngôi đền cổ kính phản chiếu ánh nắng nhạt. “Đó là đền Raghunath, một trong những ngôi đền đẹp nhất ở đây.”

Tôi đi bộ qua một con đường lát đá luồn lách giữa những ngôi nhà nhiều tầng xây xi-măng và những căn nhà gỗ cũ kỹ. Tầng trệt của chúng đã được tận dụng làm cửa tiệm và những người chủ ngồi uể oải sau các quầy bằng gỗ. Trong một tòa nhà rệu rã với mái và cả tầng cao nhất bị thiêu trụi, có một cửa tiệm đề: SỰ LỰA CHỌN CỦA THẾ HỆ MỚI – VCD VÀ DVD MỚI NHẤT CỦA BOLLYWOOD. Con đường trở thành một con hẻm hẹp. Tôi hỏi thăm một cô bé tóc đuôi ngựa đền thờ Raghunath ở đâu. Cô bé chạy lên phía trước, ngoắc tay bảo tôi đi theo và dừng lại gần một bức tường sập.

Tôi trèo qua bức tường sập và nhảy xuống một đống rác trong sân đền thờ. Những con chó hoang trong đền thờ sủa inh ỏi. Những miếng dát đồng của nóc đền bị vỡ làm lộ ra những viên gạch nung. Đám lau sậy và bụi rậm đã lấn chiếm hết sân và những bậc thang dẫn vào nhà nguyện. Đi ngang qua gian trưng bày, tôi vào trong nhà nguyện. Bên trong tràn ngập phân chim bồ câu, mạng nhện và một sự thinh lặng ảm đạm. Các viên gạch trần trụi nhìn tôi trừng trừng. Tôi giẫm chân lên những mảnh vữa tường vãi tung tóe trên sàn. Bức tượng nữ thần Hindu trên bục giảng kinh đã biến mất, giống như những người Pandit vậy. Một đàn bồ câu bay ùa vào sảnh nhà nguyện, vỗ cánh vài vòng rồi bay ra bóng tối nhá nhem trên dòng Jhelum và vào thành phố.

Có hai thanh niên ăn mặc luộm thuộm đang đứng trong sân đền. Họ giật mình khi thấy tôi, ra là họ đang hút bồ đà. Những người trốn khỏi thế giới lành mạnh đã tìm thấy chỗ tá túc trong ngôi đền hoang! Sau những lời giới thiệu, họ mềm mỏng hơn và mời tôi hít một hơi. Tôi từ chối. “Thôi được. Nhưng mà nói tôi nghe vì sao anh đến đây?” một tay hỏi.

“Tôi nhìn thấy nóc đền thờ từ phía xa và đã tò mò muốn ngó qua một tí.”

Anh ta hít một hơi bồ đà và nhìn lại ngôi đền. “Khi tôi còn