← Quay lại trang sách

Chương 2 -

Cảnh sát Zurich, - Schwarz nói tiếp, - Giữ tôi lại chỉ một ngày. Nhưng đó là một ngày khốn đốn cho tôi. Tôi lo họ sẽ xem lại tấm hộ chiếu của tôi. Một cú điện thoại đến Vienna là đủ. Hoặc nếu họ cho một chuyên gia đến, thì anh ta sẽ phát hiện ra chỗ giả mạo ngay. Đến chiều, tôi yên tâm hơn. Dẫu có chuyện gì đi nữa, tôi nghĩ vậy, âu đó cũng là một cách phán quyết của Thượng đế. Quyết định ở ngoài tầm tay tôi. Nếu họ tống tôi vào nhà lao, chắc là tôi sẽ phải từ bỏ ý định trở về Đức. Nhưng mãi xế chiều họ thả tôi ra và cho tôi hiểu rằng tôi phải rời Thụy Sĩ càng sớm càng tốt. Tôi quyết định đi qua ngã nước Áo. Tôi từng quen với biên giới của nước Áo và cảm thấy chắc chắn nó không được canh gác cẩn mật như nước Đức. Có kẻ nào lại muốn đi vào đó đâu? Thực sự thì có lý do nào biên giới này lại được canh phòng nghiêm ngặt hơn biên giới kia? Có ai lại muốn vào? Và ngược lại, có thể là có nhiều người muốn thoát ra khỏi. Tôi đáp tàu đi Oberriet, dự định tìm cách vượt biên giới tại một nơi nào đó trong vùng phụ cận. Tôi muốn chờ gặp một ngày có mưa, nhưng trong hai ngày liên tiếp trời vẫn quang đãng. Tôi ra đi vào đêm thứ ba, sợ rằng ở lại lâu quá người ta chú ý. Đêm ấy sao sáng tỏ đầy trời, và cảnh vật yên tĩnh tưởng chừng như nghe được cả cây cối nảy mầm. Vào những lúc hiểm nguy người ta lại có một thứ thị lực khác. Không phải là sức tập trung đặc biệt của cặp mắt, mà là một cái gì đó tỏa khắp thân, như thể ta có thể nhìn thấy bằng làn da của ta, nhất là về đêm. Thính giác của ta cũng như tỏa ra từ làn da của ta và tưởng như ta có thể nghe thấy những tiếng động nhỏ nhất. Ta há mồm ra để lắng nghe, và mồm của ta cũng như thể nghe được và thấy được. Tôi không bao giờ quên được cái đêm ấy. Tôi cảnh giác bằng mọi thớ thịt của tôi, mọi giác quan đều thức tỉnh cao độ. Tôi đã chuẩn bị để đối phó với mọi tình huống, song chẳng sợ sệt chút nào. Tôi có cảm giác như mình đang qua một cây cầu cao từ bên này đời sống qua bên kia đời sống, và tôi biết rằng chiếc cầu sẽ tan biến sau lưng tôi như làn khói bạc mà chẳng bao giờ tôi có thể trở lại. Tôi đang đi từ lý trí qua cảm giác, từ an toàn qua mạo hiểm, từ thực tế đến ước mơ. Tôi hoàn toàn cô đơn, nhưng lần này, nỗi cô đơn không phải là một dằn vặt; có một chút gì thần nhiệm trong đó. Tôi đến sông Rhin[*], nơi đây là đoạn đầu sông, không rộng lắm. Tôi cởi áo quần và gói lại để có thể đội lên đầu. Thật là một cảm giác phi thường khi tôi trần truồng tuột xuống nước. Nước đen sẫm, rất lạnh và vô cùng kỳ lạ. Tưởng như tôi đang hụp xuống sông Lethe[*] để uống lấy niềm lãng quên. Phải trần truồng mà vượt qua sông thật là một điều có ý nghĩa tượng trưng, nó đập mạnh vào tâm tưởng tôi, tưởng như đã để lại tất cả mọi thứ đằng sau mình. Tôi lau khô người, mặc quần áo rồi tiếp tục đi. Qua một ngôi làng, tôi nghe tiếng chó sủa. Tôi chẳng biết đường biên giới chạy như thế nào, nên tôi men theo mép con đường lộ bao quanh một khu rừng. Trong hồi lâu tôi chẳng gặp một ai. Tôi đi bộ mãi đến hừng đông. Sương rơi nặng hạt và một con bò đang đứng ở bìa khu rừng thưa. Cứ thế tôi đi mãi đến khi tôi nghe tiếng dân làng đánh xe ngựa qua đó. Thế là tôi tìm một nơi ẩn nấp cách con lộ không xa. Tôi sợ họ sinh nghi, thắc mắc vì sao tôi lại dậy sớm như thế này và lại đến từ hướng biên giới. Mãi về sau tôi thấy hai nhân viên hải quan đi xe đạp. Tôi nhận ra đồng phục của họ. Giờ đây tôi đã ở trên đất Áo. Nước Áo chỉ thuộc về nước Đức trong có một năm thôi.

Thiếu phụ mặc dạ phục rời sân hiên cùng với người đi theo. Đôi vai nàng rám nắng đậm, dáng tầm thước, cao hơn gã đàn ông cùng đi với nàng. Vài khách du lịch chậm rãi đi thơ thẩn xuống những bậc thang. Họ tản bộ như những người chưa từng bị săn đuổi, không phải đảo mắt nhìn quanh.

— Tôi có mang theo ít bánh mì thịt. - Schwarz nói, - Và một dòng suối nước uống được. Đến trưa tôi lại đi tiếp. Mục tiêu của tôi là thành phố Feldkirch, mà tôi biết đó là một nơi nghỉ mát. Ở đó một người lạ mặt chẳng khiến ai chú ý đến. Đến đó tôi đáp chuyến tàu đầu tiên ra khỏi vùng biên giới nguy hiểm. Tôi ngước lên toa xe. Hai tên lính SA[*] mặc quân phục đã ngồi vào chỗ rồi. Kinh nghiệm của tôi về lực lượng cảnh sát ở châu Âu tỏ ra có lợi cho tôi, nếu không tôi đã rút lui rồi. Và như thế tôi cứ bước lên toa ngồi vào một góc kề bên một tên mặc bộ đồ bằng vải len thô, súng dựng bên cạnh. Kể từ năm năm nay, đây là lần đầu tiên tôi gặp gỡ với cái mà tôi cho chính là sự kinh hoàng. Những tuần lễ trước, tôi cũng thường hình dung ra cảnh này, nhưng thực tế thì lại khác hẳn. Đích thị là thể xác tôi chứ không phải đầu óc tôi phản ứng; dạ dày tôi hóa đá, và tôi cảm thấy miệng mình như cái bàn nạo. Người thợ săn và hai tên lính SA đang kháo chuyện với nhau về một quả phụ nào đó tên Pfundner. Bà này nghe chuyện ra có vẻ là một thứ đàn bà góa dễ dãi, cứ xét theo chuyện tình ái lăng nhăng mà họ kể thật chi tiết. Một lúc sau họ bắt đầu ăn bánh mì kẹp giăm bông.

“Ông đi về đâu, ông bạn?” Người thợ săn hỏi tôi.

“Trở về Bregenz”, Tôi đáp. “Vâng, tôi đi nghỉ phép”. Tôi do dự một lúc. Nếu bảo là từ Vienna đến như có ghi trong hộ chiếu, thì họ có thể nhận ra rằng tôi có giọng nói êm ái của dân thành Vienna. Nên tôi đáp: “Từ Hanover. Tôi sống tại đó đã hơn ba mươi năm nay.”

“Hanover! Chà, xa quá nhỉ?”

“Vâng, quả thật là xa. Nhưng có ai muốn đi nghỉ phép gần nhà đâu?”

Người thợ săn cười:

“Đúng vậy thật. Với thời tiết này ông bạn gặp may đấy!”

Tôi cảm thấy áo sơ mi dính chặt vào lưng tôi: “Vâng, thời tiết tuyệt thật. Nhưng nóng chẳng khác gì giữa mùa hè.”

Cả ba lại quay về câu chuyện quả phụ Pfundner. Qua vài ga sau, cả ba bước xuống tàu và trong toa còn lại mình tôi. Đoàn tàu đi qua một trong những vùng đẹp nhất của châu Âu, nhưng tôi chẳng nhìn thấy được bao nhiêu. Một cảm giác hối tiếc, sợ hãi và tuyệt vọng hầu như không chịu đựng nỗi đè nặng lên tôi. Trời đất ơi, tại sao tôi lại vượt biên giới thế này? Thật tôi không hiểu nổi. Tôi ngồi bất động trong góc toa nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi là một người tù, và chính tôi đã để cho cửa đóng lại sau lưng. Tôi cứ vẩn vơ với cái ý nghĩ nên rời khỏi đoàn tàu và tìm cách trở về Thụy Sĩ trong đêm. Nhưng không thể được. Bàn tay trái tôi nắm chặt trong túi tấm hộ chiếu của Schwarz vừa mới chết, như nó có thể tăng thêm sức mạnh cho tôi. Tôi cứ tự nhủ thầm là bây giờ thoát ra chẳng có lợi gì, và càng đi sâu vào nội địa tôi càng được an toàn hơn. Tôi quyết định đi thâu đêm. Trên tàu có thể là bạn không bị sách nhiễu giấy tờ như trong khách sạn. Trong cơn kinh hoàng, ta luôn luôn có cảm tưởng đang đứng dưới ánh đèn sân khấu và dưới kia thiên hạ chẳng có việc gì làm ngoài việc theo dõi bạn. Tôi nhắm mắt lại. Ngồi lại một mình trong toa giữa nỗi kinh hoàng đó, tôi lại càng muốn chấp nhận thua cuộc. Song tôi lại nhận thức nếu tôi nhượng bộ, một phân bây giờ sẽ dài thành một thước khi thực sự lâm nguy. Để tự trấn an, tôi cứ bảo thầm chẳng ai thèm chú ý đến mình đâu, đối với chế độ mình chẳng nghĩa lý gì hơn một xẻng cát trong hoang mạc, chẳng có dấu vết gì khả nghi một cách rõ nét cả. Điều này cũng đúng thôi, tất nhiên. Trông tôi chẳng khác gì mấy với những người chung quanh. Người Aryan[*] với mái tóc hung chỉ là một huyền thoại do Đức dựng nên mà thôi. Cứ nhìn Hitler, Goebbels[*], Hess[*] cũng những tên đầu sỏ còn lại thì đủ rõ, cả bọn đều là những phản chứng rành rành về sự lừa bịp trắng trợn của chúng. Đến Munich, lần đầu tiên tôi không nán lại trong nhà ga để ẩn nấp mà gắng gượng thả bộ loanh quanh trong một tiếng đồng hồ. Bởi là dân lạ trong thành phố nên tôi tin ở đây cũng chẳng ai biết đến tôi. Tôi nghỉ chân ăn trưa tại quán Franziskanerbrau. Tiệm ăn đông người. Tôi ngồi một mình lắng tai nghe. Ít phút sau một người đàn ông béo mập ướt đẫm mồ hôi đến ngồi cùng bàn tôi. Hắn gọi rượu bia và thịt bò nấu chín và lật tờ báo ra. Cho đến nay tôi không có dịp đọc báo Đức. Nay, để bù lại tôi mua những hai tờ. Từ bao năm nay tôi không đọc tiếng Đức, và tôi lấy làm lạ khi mọi người quanh tôi nói thứ tiếng này. Những xã luận thật quá tệ, đầy rẫy những dối trá khát máu và kiêu căng. Theo nó, cả thế giới bên ngoài được xem như là thoái hóa; xảo trá và ngu xuẩn, nước Đức đến chiếm đóng là phải. Mà mấy tờ báo ấy không phải là thứ lá cải địa phương; trước kia chúng đã từng nổi tiếng. Tôi nhìn kỹ người đàn ông ngồi cùng bàn. Hắn vừa ăn uống vừa đọc báo một cách thích thú. Tôi đảo mắt nhìn quanh. Cũng rất nhiều thực khách đọc báo, và ở họ, tôi chẳng thấy ai tỏ vẻ chán ghét, ghê tởm cả. Nó đã trở thành một món ăn thường ngày của họ. Đối với họ nó cũng tự nhiên như rượu bia họ uống vậy thôi. Tôi tiếp tục đọc mãi đến lúc giữa những mục tin vắn, tôi đọc thấy mẩu tin về thành phố Osnabruck[*]. Một căn nhà ở phố Lotter bị cháy rụi. Tôi có thể hình dung lại con phố thật rõ ràng. Con đường này bắt đầu từ ngoại vi vòng thành lũy tại Cổng Heger và dẫn ra ngoài thành phố. Đột nhiên tôi cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết tại một đất nước xa lạ. Tâm trí tôi bồng bềnh trôi giữa trạng thái khích động và sự hững hờ buông xuôi, nhưng chẳng bao lâu tôi cũng quen đi. Tôi lại còn cảm thấy an toàn là đằng khác. Sự nguy hiểm sẽ tăng dần khi tôi đến gần Osnabruck, điều này tôi biết rõ: ở đây sẽ có nhiều người còn nhớ đến tôi. Để khỏi lôi cuốn sự chú ý nơi các khách sạn, tôi mua một cái va li rẻ tiền và các thứ thường dùng cho một chuyến đi ngắn ngày. Sau đó, tôi đáp xe lửa. Tôi vẫn chưa rõ là sẽ bắt liên lạc với vợ tôi bằng cách nào, và cứ vài phút lại nghĩ ra một kế hoạch mới. Chắc tôi đến phải trông cậy vào vận may thôi. Tôi cũng không biết nàng đã chịu nhượng bộ gia đình vốn gồm toàn những người ủng hộ trung kiên chế độ mà lấy chồng khác chưa. Đọc báo xong, tôi nghĩ rằng đối với một người bình thường sẽ không phải mất nhiều thì giờ mới tin vào những điều mình đọc trong báo, nhất là khi chẳng có gì để so sánh. Báo chí nước ngoài đều bị kiểm duyệt nghiêm ngặt ở Đức. Đến Munster[*] tôi tới một khách sạn hạng trung. Tôi không thể tiếp tục cái cảnh ban đêm thì thức còn ban ngày lại ngủ lay ngủ lắt đó đây. Tôi đành liều mạng đăng ký phòng tại khách sạn, nơi đây việc tôi đến chắc chắn sẽ được báo cáo với cảnh sát. Ông biết Munster chứ?

— Có biết qua đôi chút. - Tôi đáp, - Đó là một thành phố cổ kính với rất nhiều giáo đường, là nơi hòa ước Westphalia[*] đã được ký kết chứ gì?

Schwarz gật đầu:

— Vâng, tại Munster và Osnabruck năm 1648. Sau ba mươi năm chiến tranh. Còn cuộc chiến tranh này, ai biết được nó sẽ kéo dài đến bao lâu?

— Cứ theo đà này thì không bao lâu đâu. Người Đức đã mất có bốn tuần để chinh phục nước Pháp.

Anh hầu bàn đến cho biết tiệm sắp đóng cửa, và mọi người đã ra về cả rồi.

— Chẳng còn nơi nào mở cửa sao? - Schwarz hỏi.

Ở Lisbon, cuộc sống về đêm chẳng có là bao nhiêu, anh hầu bàn cho chúng tôi biết. Nhưng đến lúc Schwarz giúi cho anh ta ít tiền trà nước thì anh lại đổi giọng, bảo có biết một nơi rất kín đáo, một hộp đêm của người Nga rất lịch sự.

— Liệu họ có cho chúng tôi vào không? - Tôi hỏi.

— Tất nhiên là có ạ, thưa ông. Tôi chỉ có ý muốn nói là các bà đến đó rất lịch sự. Thuộc đủ mọi quốc tịch. Có cả người Đức nữa.

— Tiệm ấy mở cửa chừng bao lâu?

— Còn khách là còn mở. Vào giờ này luôn luôn có khách. Ngay lúc này thì rất nhiều người Đức.

— Người Đức hạng nào?

— Người Đức.

— Thuộc hạng có tiền chứ?

— Dĩ nhiên. - Anh hầu bàn cười. - Nơi đó không rẻ đâu. Nhưng rất vui nhộn. Ông chỉ cần bảo là Manuel chỉ đến. Sau đó ông không phải nói gì thêm nữa.

— Theo lệ, ta phải nói với họ dăm ba điều gì chứ?

— Không ạ. Người gác cửa sẽ đưa cho ông một thẻ hội viên với một cái tên nào đó. Chỉ là một thủ tục.

— Nghe được đấy.

Schwarz trả tiền. Chúng tôi lần bước xuống những bậc thang. Những căn nhà mờ nhạt ngủ yên, như dựa vào vai nhau. Qua cửa sổ, ta có thể nghe được tiếng thở than, tiếng ngáy và hơi thở của những người chẳng phải lo lắng gì về giấy hộ chiếu. Bước chân của chúng tôi vang lên trong đêm vắng.

— Ánh đèn kia kìa. - Schwarz nói, - Nó cũng khiến ông hoảng hốt đấy chứ?

— Vâng, chúng ta vẫn còn quen với cái châu Âu không có ánh đèn. Tôi đinh ninh có ai đó đã quên tắt đèn và máy bay có thể đến tấn công bất cứ giây phút nào.

Schwarz dừng lại.

— Ánh sáng mà ta được ban cho như một món quà của Thượng đế. - Hắn nói với một niềm cảm xúc. - Bởi vì trong ta còn có chút gì của Thượng đế. Và giờ đây, chúng ta che giấu nó đi vì chúng ta đang giết hại cái “chút gì đó” của Thượng đế trong ta.

— Theo chỗ tôi còn nhớ câu chuyện, - Tôi nói, - Thần thánh không cho loài người lửa. Chính Prometheus[*] đã đánh cắp nó. Ngược lại thần thánh cho loài người bệnh xơ gan mãn tính.

Schwarz nhìn tôi:

— Tôi không còn đùa cợt cách đây đã lâu. Chừng nào người ta còn bông đùa được, chừng ấy họ còn có thể thu hẹp tầm vóc của sự việc và nhìn chuyện đời bằng con mắt khác.

— Có thể là như vậy. - Tôi nói, - Nhưng nếu bông đùa mà để lại một tia hy vọng thì có hơn không.

— Ông nói đúng. Tôi quên mất rằng ông đang tìm cách trốn thoát. Làm sao một người đang tìm cách trốn thoát cảnh ngộ hiện tại lại có thể bận tâm để ý đến tầm vóc của sự việc?

— Ủa, thế ra ông không đang tìm cách trốn thoát đó sao?

Schwarz lắc đầu:

— Không trốn nữa. Tôi đang đi trở về.

— Về đâu? - Tôi ngạc nhiên hỏi. Tôi không thể tin rằng hắn có ý nói là trở về Đức lần thứ hai.