← Quay lại trang sách

Chương 3 -

Hộp đêm này là một trong những nơi điển hình mà người Bạch Nga đang khai thác khắp nơi trên lãnh thổ châu Âu kể từ sau Cách mạng 1917. đâu đâu cũng là những người hầu bàn như nhau, tất cả với phong cách thượng lưu đã quen rồi, cũng những bản hợp ca gồm những người trước đây là sĩ quan ngự lâm, cùng những giá biểu cao và những cái không khí sầu muộn thê lương.

Ngoài ra nơi nào cũng dùng thứ ánh sáng mờ ảo, mà tôi lại trông cậy vào thứ ánh sáng này. Đúng như anh hầu bàn đã cho biết có cả người Đức nữa, nhưng dứt khoát họ không phải là dân tị nạn. Có lẽ họ là điệp viên, nhân viên lãnh sự quán Đức hoặc của các hãng thương mại Đức.

— Người Nga đã thành công hơn chúng ta trong việc tự tạo cho họ một chỗ đứng. - Schwarz nói, - Thật ra thì họ đi trước ta những năm mươi năm. Năm mươi năm lưu lạc tha hương là một quãng thời gian dài, tích lũy kinh nghiệm cả một đời người.

— Họ là dân tị nạn đợt đầu tiên. - Tôi đáp lại, - Lúc bấy giờ thiên hạ vẫn còn thương xót họ. Họ được cấp giấy phép lao động, cũng như các thứ giấy tờ khác một cách dễ dàng, cứ như họ là những nhà thám hiểm Bắc Cực không bằng. Còn khi chúng ta đến thì ”nguồn thương hại dự trữ” đã vơi cạn đi rồi. Chúng ta trở thành một gánh nặng phiền toái, y như một lũ mối mọt; chẳng có mấy ai có được một lời tử tế với chúng ta. Chúng ta không được quyền lao động, không được quyền sống, thậm chí cũng không có được một mảnh giấy tùy thân.

Ngay từ lúc đặt chân đến chốn này, tôi đã cảm thấy bực dọc, khó chịu rồi. Có lẽ đó là sự phản ứng đối với căn phòng bít bùng, màn buông bốn phía, với cái ý thức rằng quanh đây lúc nào cũng có quân Đức, với sự kiện là tôi ngồi quá cách xa cửa ra vào không tiện đường tháo chạy lúc cần. Đã lâu tôi có thói quen ngồi gần cửa ra, ở bất cứ nơi nào tôi đến. Tôi cũng bực mình vì từ chỗ tôi ngồi, tôi không trông thấy được chiếc tàu. Rất có thể là nó đã nhận được một hiệu lệnh nào đó và đã nhổ neo trước thời hạn ngay trong đêm đó.

Schwarz có vẻ như đọc được ý nghĩ của tôi. Hắn lục túi, đặt mấy tấm vé xuống trước mặt tôi:

— Cầm lấy. Tôi không phải là tên chủ ác nghiệt đâu. Cứ cầm lấy mà đi, nếu ông thích.

Tôi hơi thẹn:

— Ông hiểu lầm tôi rồi. Tôi có đủ thì giờ. Tất cả thì giờ trên cõi đời này.

Schwarz không đáp. Hắn chờ đợi. Tôi lấy hai tấm vé cho vào túi.

— Tôi đã thu xếp. - Hắn nói tiếp như chẳng có chuyện gì xảy ra, - Để đáp chuyến tàu lửa đi Osnabruck sớm ngay tối hôm ấy. Chỉ đến lúc đó tôi mới tin là tôi đã vượt qua biên giới được rồi. Từ đây đến lúc đó, thiên hạ và mọi thứ, dẫu ngay trên quê hương tôi, cũng vẫn còn là xa lạ đối với tôi. Nhưng đến lúc bấy giờ mỗi gốc cây bên đường mới mở lời tâm sự với tôi. Tôi từng quen với những xóm làng mà chúng tôi thường chạy xe qua. Thuở còn là học sinh, tôi thường cùng bè bạn tổ chức những cuộc du ngoạn qua đó; tôi cũng đã từng đưa Helen qua đó vào những tuần đầu chúng tôi mới quen nhau. Tôi yêu mến cảnh đồng quê ấy, cũng như tôi yêu mến các thành phố với những nóc nhà và mảnh vườn của nó. Cho đến lúc đó, nỗi lo sợ trong tôi mới chỉ là trừu tượng, vu vơ và kết lại thành một khối. Những chuyện xảy ra đã khiến tôi tê liệt, hóa đá. Tôi chưa bao giờ thấy cần phân tích nỗi khiếp sợ ấy, cần hiểu nó trong từng chi tiết nhỏ, nói đúng ra, tôi cũng ngại làm một việc như thế. Giờ thì bỗng nhiên những sự vật không đâu cũng đều có ý nghĩa, cũng cất lên tiếng nói với tôi, nhưng sự vật chẳng có ăn nhập gì với nỗi lo sợ kia, tuy vẫn nằm trong nó. Đồng quê không thay đổi, nó vẫn thế. Mấy nóc chuông nhà thờ vẫn còn giữ lại lớp óng ánh xanh mướt, dịu dàng trong ánh nắng chiều; dòng sông vẫn soi bóng nền trời. Tôi hồi tưởng lại những ngày tôi đi câu cá và mơ đến những cuộc phiêu lưu trên những vùng đất xa lạ. Vâng! Tất cả những thứ ấy nay tôi đã trải qua cả, nhưng chúng không hẳn như tôi đã tưởng tượng. Những đồng cỏ với đàn bươm bướm, đàn chuồn chuồn lượn quanh trước nay vẫn không thay đổi; những sườn đồi với cây cối và hoa dại cũng vẫn thế. Chúng vẫn y như hồi tôi còn thơ ấu. Tuổi trẻ của tôi nằm trong lòng chúng, chôn chặt vào đấy nếu tôi muốn nhìn việc đời bằng cái nhìn như vậy, hoặc sẵn sàng hồi sinh lại, nếu tôi cố làm ra vẻ lạc quan hơn. Và chẳng có gì làm cảnh vật hỏng đi. Từ trên toa tàu, tôi chỉ trông thấy lác đác dăm ba người, không bóng dáng lính tráng, chỉ có đồng nội lắng chìm dần trong ánh hoàng hôn. Hồng, huệ, thược dược nở đều trong những mảnh vườn tí hon của trưởng ga. Chúng vẫn như thế tự thuở bao giờ. Nạn phung hủi không làm chúng tàn lụi đi. Chúng leo theo hàng rào gỗ mắt cáo như bên Pháp, và trên đồng cỏ thẩn thơ từng đàn bò y như trong đồng cỏ bên Thụy Sĩ, những đàn bò nâu, đen, trắng - không có hình chữ thập ngoặc - với những cặp mắt già nua nhẫn nại. Giữa một nông trang nào đó, tôi chợt thấy một chú cò đang chao cánh và từng đàn chim sẻ vỗ cánh bay như chúng vẫn bay ở bất cứ nơi đâu và tự bao giờ cũng vẫn thế. Chỉ có con người là thay đổi. Tôi biết thế, nhưng tối hôm ấy, tôi không chứng kiến được điều đó mà cũng không hiểu ra được. Mặt khác, con người cũng không thay đổi một cách đều đặn như nhau như tôi đã nghĩ một cách rồ dại. Toa tàu đầy khách, vơi đi rồi lại đông nghẹt. Vào giờ này, ít thấy lính tráng, phần đông là dân thường, và chuyện trò giữa họ với nhau thì cũng không khác mấy với những mẩu chuyện tôi thường nghe ở Pháp và Thụy Sĩ: thời tiết, nắng mưa, mùa màng, gặt hái, những biến cố trong ngày và nỗi sợ chiến tranh. Đến họ cũng thế, cũng sợ chiến tranh. Chỉ một điểm khác nhau là ở bên ngoài nước Đức thì ai cũng nghĩ chính các nước khác áp đặt cuộc chiến tranh đó lên đất nước Đức. Hầu hết ai ai cũng mong muốn hòa bình, như họ vẫn muốn điều này ngay trước khi chiến tranh bùng nổ. Đoàn tàu dừng lại. Cùng với đám đông tôi chen lấn ra cửa. Bên trong nhà ga chẳng thay đổi gì kể từ ngày tôi thấy nó lần cuối cùng, có điều trông nó hẹp hơn và bẩn đi. Khi tôi đi vào quảng trường Bahuhofsplatz, những điều tôi hình dung trước đây bỗng tan biến mất. Bóng đêm đang rủ xuống, không khí ẩm ướt như sau cơn mưa. Quanh tôi, tôi chẳng còn thấy gì. Tất cả đều rung động trong tôi; và kể từ lúc đó tôi nhận thức tôi đang lâm nguy. Đồng thời tôi lại có cảm giác là chẳng có gì xảy đến với tôi. Như thể tôi đang ở dưới cái vòm bằng thủy tinh, nó bảo vệ tôi nhưng có khả năng vỡ tan từng mảnh bất cứ lúc nào. Tôi trở lại quầy vé mua một vé về lại Munster. Tôi không sống tại Osnabruck được. Nguy hiểm quá. “Chuyến tàu chót mấy giờ?” Tôi hỏi người bán vé ngồi sau quầy trong ánh điện vàng vọt. Cái đầu hói của ông ta lấp lánh giống như một tượng Phật tỉnh lẻ hoàn toàn bình thản, không quản mọi thăng trầm của thế tục. “Có một chuyến chín giờ hai mươi và một chuyến khác lúc mười một giờ mười hai phút.” Tôi bước đến chiếc máy bán vé tự động mua một vé ra sân ga. Tôi muốn có sẵn nó trong tay để phòng trường hợp tôi cần biến nhanh trước giờ tàu. Theo nguyên tắc, sân ga là nơi ẩn náu lộ liễu nhất, nhưng thường bạn có nhiều nơi để chọn, ở Osnabruck có ba nơi, bạn có thể nhảy lên đoàn tàu nào sắp sửa khởi hành, giải thích với người phục vụ rằng bạn lên nhầm tàu, bạn trả khoản tiền sai biệt rồi đến trạm kế thì bước xuống. Tôi quyết định ghé nhà một người bạn cũ, mà tôi biết không phải là người ủng hộ chế độ. Chỉ cần nghe giọng nói trên máy điện thoại cũng có thể biết anh ấy có thể giúp tôi được hay không. Tôi ngại gọi thẳng cho vợ tôi, vì không chắc vợ tôi sống một mình. Tôi đứng trong phòng điện thoại với cuốn danh bạ trước mặt. Lúc lật những góc trang bụi đất bám đầy và nhàu nát, tim tôi đập mạnh đến nỗi tôi tưởng như nghe được nó. Tôi lại còn sợ người khác cũng nghe được nên tôi cúi người xuống để khỏi bị nhận diện. Không suy nghĩ và rất tình cờ, tôi gặp ngay mẫu tự đầu trong tên trước kia của tôi. Tôi gặp tên vợ tôi, số điện thoại vẫn như cũ, nhưng địa chỉ đã đổi khác. Trước kia là quảng trường Rissmuller nay đổi là quảng trường Hitler. Lúc trông thấy địa chỉ, tưởng chừng ngọn đèn buồn thảm trong phòng điện thoại sáng lên hơn một trăm lần. Tôi ngước nhìn lên, tràn ngập bởi cái cảm giác bên ngoài là đêm đen và tôi đang đứng trong phòng kính ánh sáng chói chang, hoặc giữa chùm ánh đèn pha rọi. Một lần nữa, tính chất điên rồ của việc làm của tôi làm tôi choáng váng mãnh liệt. Tôi ra khỏi phòng điện thoại và băng qua nhà ga chìm trong bóng tối lờ mờ. Từ trên những tấm bích chương cổ động, những bộ mặt hân hoan màu xanh da trời của tổ chức “Sức mạnh bằng niềm vui” nhìn xuống tôi một cách đầy đe dọa. Và chuyến tàu đã vào ga. Một đám hành khách đang leo lên thang cấp. Một tên lính SS bước ra khỏi đám đông đi về phía tôi. Tôi không chạy. Có lẽ hắn chỉ tìm một người nào đó thôi. Nhưng hắn lại dừng ngay trước mặt tôi và nhìn thẳng vào mặt:

“Xin lỗi, anh có lửa không?”

“Lửa hả?” Tôi lặp lại, rồi đáp nhanh, “Vâng, có chứ, có diêm đây.” Tôi cho tay vào túi lục tìm.

“Diêm làm gì?” Tên SS ngạc nhiên nói, “Điếu thuốc anh đang cháy mà.”

Tôi cũng không nhớ ra rằng tôi đang hút thuốc. Tôi chìa điếu thuốc cho hắn. Hắn châm lửa vào đầu điếu thuốc rồi rít.

“Anh hút thứ gì vậy?” Hắn hỏi, “Khói thuốc như xì gà.”

“Thuốc Gauloise đấy mà. Tôi có mua vài gói trước khi qua biên giới. Quà của một người bạn.” Tôi nói, “Loại thuốc lá đen của Pháp. Anh ta mang từ Pháp về. Tôi cũng thấy khói nặng.”

Tên SS bật cười:

“Tốt nhất là bỏ hút. Như Quốc trưởng[*]. Nhưng không dễ đâu, nhất là vào lúc này.” Hắn chào rồi bỏ đi.

Schwarz mỉm cười nhẹ:

— Khi tôi còn là một con người được quyền đi đâu tùy thích, tôi vẫn thường nghi ngờ về cái lối các nhà văn mô tả sự kinh hoàng làm tim nạn nhân ngừng đập, chân tay không cử động được, từng đợt sóng lạnh như băng chạy dài theo cột sống, toàn thân vã đẫm mồ hôi, rặt là những lối viết khuôn sáo vụng về, tôi nghĩ thế. Có thể như vậy thật. Nhưng đấy cũng là sự thật. Nó đúng như cảm giác của tôi lúc ấy. Thuở còn thơ ngây những điều này chắc phải làm tôi bật cười.

Một người hầu bàn tiến lại gần chúng tôi:

— Các ngài không thích có bạn ngồi cùng bàn sao?

— Không.

Y nghiêng mình về phía tôi:

— Trước khi từ chối, xin các ngài hãy quay lại nhìn hai phụ nữ kia kìa.

Tôi nhìn về phía họ. Một trong hai người có vẻ rắn khỏe. Cả hai đều mặc áo dạ phục sít sao. Tôi không trông thấy được mặt của họ.

— Không. - Tôi trả lời.

— Họ là những thiếu nữ đứng đắn đấy. Cô bên phải là người — Cô ấy bảo anh đến đây?

— Không. - Người hầu bàn đáp lại với nụ cười ngây thơ làm tiêu tan hết mọi ngờ vực, - Đó là do ý kiến riêng của tôi, vậy thôi.

— Tốt, thế thì hãy chôn kỹ nó đi. Và thay vào đó, hãy mang ra cho chúng tôi cái gì để ăn đi.

— Hắn muốn gì thế? - Schwarz hỏi.

— Muốn kết chúng ta với cháu ngoại của Mata Hari[*]. Ông đã biếu hắn món tiền nước quá hậu chứ gì?

— Tôi chưa trả tiền. Ông nghĩ họ là gián điệp?

— Có thể. Nhưng chỉ vì một động lực duy nhất trên thế giới này: Tiền.

— Người Đức hả?

— Một trong hai ả, người hầu bàn đã nói vậy.

— Ông nghi ả được phái đến để dụ người Đức hồi hương?

— Tôi nghi lắm. Chuyện này họ đã làm nhiều trong hàng ngũ người Nga.

Tôi gọi người hầu bàn mang ra đĩa bánh tráng thịt vì rượu uống đã bốc lên rồi. Tôi muốn giữ đầu đủ sáng suốt.

— Ông không ăn sao? - Tôi hỏi Schwarz.

Gã lắc đầu, xa vắng:

— Tôi không nghĩ là những điếu thuốc kia có thể tố cáo tôi, chuyện ấy chưa bao giờ xảy ra đến với tôi cả. - Hắn nói. - Tôi bèn xem lại tư trang của tôi. Hộp diêm tôi cũng mua ở Pháp. Tôi ném nó đi cùng số thuốc điếu còn lại. Rồi tôi mới nhớ sực ra rằng tấm hộ chiếu của tôi có mang con dấu nhập cảnh và hộ chiếu của Pháp. Trường hợp có bị hỏi đến, tôi có thể giải thích lý do tại sao tôi có thuốc điếu của Pháp. Tôi toát mồ hôi và tức giận mình đã quá lo sợ. Tôi trở lại phòng điện thoại. Tôi phải chờ. Một người đàn bà đeo tấm phù hiệu to tướng của đảng gọi liên tiếp hai số và gào vào máy cả tràng mệnh lệnh. Số thứ ba không có người đáp. Người đàn bà bước ra, vẻ quan trọng, giận dữ.

“Tôi gọi số điện thoại của anh bạn tôi.” Một giọng đàn bà trả lời ở đầu máy.

“Làm ơn cho tôi nói chuyện với bác sĩ Martens.” Tôi thấy giọng nói tôi khản hẳn đi. “Ai ở đầu dây đấy?” Người đàn bà hỏi.

“Một người bạn của bác sĩ Martens.” Tôi không nói tên tôi ra được. Giọng nói ở đầu dây kia có thể là của vợ hoặc của cô giúp việc, nhưng nếu tin vào họ thì thật là sai lầm.

“Xin cho biết quý danh.” Người đàn bà nói.

“Tôi là bạn của bác sĩ Martens,” tôi trả lời. “Xin cứ bảo cho như thế. Có việc gấp.”

“Rất tiếc.” Người đàn bà đáp, “Nếu ông không cho biết tên, tôi không thể báo được.”

“Thì bà hãy đặt một ngoại lệ cho tôi đi.” Tôi nói, “Bác sĩ đang chờ tôi gọi cho ông ấy mà.”

“Nếu thế thì chắc chắn là ông có thể cho tôi biết tên.” Tôi cố moi óc suy nghĩ ra một cái tên nào đó, nhưng vô vọng. Sau đó, có tiếng ống nghe gác lên máy. Tôi đứng trong nhà ga xám xịt, lộng gió. Hành động đầu tiên của tôi thoạt trông có vẻ đơn giản nhưng đã tỏ ra sai lầm và tôi không còn biết phải làm gì sau đó. Có thể là tôi phải đánh nước liều gọi thẳng cho Helen bởi vì người nhà nàng có thể nhận ra giọng nói của tôi. Tôi cũng có thể khai ra một cái tên khác, nhưng tên nào đây? Bác sĩ Martens, lúc đó tôi không nghĩ ra được một tên nào khác, tôi phân vân. Bỗng một ý nghĩ vụt lóe lên như thể nó đến với tôi trong khoảnh khắc dạo tôi mới lên mười. Tại sao không gọi bác sĩ Martens và tự xưng là anh vợ tôi? Martens biết anh ấy rất rõ và ghét cay ghét đắng anh ta từ mười năm nay. Cũng giọng đàn bà ấy trả lời.

“Georg Jurgens đây. Cho tôi gặp bác sĩ Martens.”

“Có phải ông đã gọi lúc nãy?”

“Trung tá Jurgens. Tôi muốn nói chuyện với bác sĩ Martens và ngay lập tức.”

“Vâng ạ.” Người đàn bà đáp, “Xin chờ chút.”

Schwarz nhìn tôi:

— Ông có quen với cái tiếng vo vo trong ống nghe khi ông thấp thỏm chờ đợi quyết định về mạng sống của mình trên điện thoại chưa?

Tôi gật đầu:

— Cũng không hẳn là ông chờ đợi mạng sống của ông đâu. Có thể là ông đang trông đợi cái khoảng trống rỗng mà chính ông tìm cách xua đuổi đi đấy.

Schwarz kể tiếp câu chuyện:

— “Bác sĩ Martens đây.” Sau cùng tôi nghe tiếng trả lời. Tôi lại rơi vào cái tâm trạng đã có một lần có thể khiến tôi phải bật cười. Cổ họng tôi khô khản.

“Rudolf,” tôi thì thào.

“Xin lỗi!”

“Rudolf.” Tôi nhắc lại, “Tôi là bà con của Helen Jurgens.”

“Tôi chẳng hiểu gì cả. Có phải ngài tiểu đoàn trưởng Jurgens đó không?”

“Không, tôi gọi giùm ông ấy. Cho Helen Jurgens. Ông không hiểu sao?”

“Tôi chẳng hiểu tí gì cả.” Giọng nói trong máy đâm ra bực tức,” Tôi đang bận khám bệnh.”

“Tôi không thể đến phòng mạch của anh được sao, Rudolf? Anh bận lắm sao?”

“Ông có ý gì đây? Tôi không quen ông, mà ông lại…”

“Ồ, cái lão Shatterhand.” Tôi nói. Thình lình tôi đã nhớ lại những tên mà chúng tôi dùng để gọi nhau hồi bé trong lúc chơi trò người da đỏ, những tên rút ra ở những cuốn tiểu thuyết của Karl May mà chúng tôi đã ngấu nghiến thuở còn mười hai tuổi. Trong một lúc, tôi chẳng nói gì. Rồi Martens hỏi khẽ:

“Gì vậy?”

“Winnetou.” Tôi đáp, “Anh đã quên những tên cũ ấy rồi ư? Lạ nhỉ? Đó là những cuốn tiểu thuyết mà Quốc trưởng thích nhất đấy.”

“Đúng thế,” Martens đáp. Ai cũng biết rằng kẻ đã khơi mào cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai này có ở cạnh giường ngủ ba bốn chục cuốn trong tuyển tập của Karl May. Và ai cũng biết rằng những cuốn sách này nói về người da đỏ, người săn bẫy thú, những sách mà bất cứ đứa trẻ mười lăm tuổi bình thường nào ít ra cũng cho là buồn cười lố bịch, thì Quốc trưởng lại ưa thích nhất.

“Winnetou?” Martens nhắc lại giọng ngờ vực.

“Vâng, tôi cần gặp anh.”

“Tôi… không hiểu… Anh ở đâu?” “Ở đây thôi. Osnabruck. Ta gặp nhau tại đâu đây?”

“Tôi đang khám bệnh.” Martens nói một cách máy móc.

“Thế thì tôi ốm. Vậy tôi có thể đến nhờ anh khám chứ?”

“Thế là thế nào?” Martens nói giọng cho thấy là ông đã quyết định phải làm gì rồi, “Nếu ông muốn thì cứ đến gặp tôi, việc gì phải mất công gọi điện thoại?”

“Lúc nào?”

“Tốt nhất là bảy giờ rưỡi. Bảy giờ rưỡi,” Ông nhắc lại, “Đừng đến trước.”

“Được. Bảy giờ rưỡi tôi sẽ đến gặp anh.” Tôi đặt ống điện thoại xuống. Mồ hôi ướt đẫm mình. Tôi ra khỏi phòng điện thoại. Một nửa vầng trăng chợt hiện lên giữa những đám mây. Còn đúng một tuần nữa sẽ là trăng tròn, tôi tính nhẩm. Thời điểm thuận lợi để vượt biên giới. Tôi nhìn lên đồng hồ. Tôi còn bốn mươi lăm phút nữa. Tốt hơn nên rời khỏi nhà ga. Những kẻ luẩn quẩn quanh ga luôn có vẻ khả nghi. Tôi đi vào con đường tối và ít người lai vãng nhất. Đường này dẫn đến dãy thành lũy cổ. Một đoạn đã bị san bằng bên trên có trồng cây. Phần kia, dọc theo sông, vẫn còn như trước. Tôi lần theo bức thành ấy, băng qua một công trường rồi đi qua trước nhà thờ Sacred Heart. Từ trên cao bức thành ta có thể nhìn qua sông, thấy những nóc nhà và tháp chuông của thành phố. Mái vòm kiểu ba rốc của giáo đường lấp lánh dưới ánh trăng chập chờn. Cảnh vật này tôi từng quen thuộc. Nó được in lại trên cả ngàn tấm bưu thiếp. Tôi cũng từng quen với cái mùi vị nước sông và mùi cây gia trên đại lộ chạy dọc theo bờ thành. Có những cặp tình nhân ngồi đong đưa trên những chiếc băng đặt giữa những hàng cây, nhìn ra sông và thành phố. Tôi ngồi lên một băng còn trống để giết thời gian nửa tiếng đồng hồ còn lại trước khi đến gặp Martens. Chuông nhà thờ bắt đầu đổ. Mang sẵn tâm trạng khắc khoải nên hồi chuông ngân vang khiến tôi càng dao động mạnh. Giống như ta chứng kiến một trận đấu quần vợt vô hình. Một trong hai đấu thủ là cái “tôi” trước đây, cái “tôi” run sợ và không dám nghĩ đến hoàn cảnh hiện tại của mình. Còn đấu thủ kia là cái “tôi” bây giờ, cái “tôi” táo bạo, dám đánh liều cuộc sống tưởng như không còn lối thoát nào khác, một cuộc thi đấu điên rồ diễn ra dưới mắt quan sát của một trọng tài thụ động, khách quan vốn từ thâm tâm chỉ muốn cho cái “tôi” bây giờ thắng cuộc. Tôi nhớ mãi khoảng thời gian nửa tiếng đó với từng chi tiết. Tôi lại còn nhớ cả nỗi kinh ngạc của chính tôi làm sao tôi lại có thể nhìn vào bản thân tôi bằng một cái nhìn phân tích như thế được. Như thể tôi đang ở trong một căn phòng bốn bề có kính soi bao quanh. Những tấm kính này phát ra phản ảnh của tôi chập chờn trong vô vàn khoảng trống rỗng, và đằng sau mỗi phản ảnh như vậy tôi lại phát hiện ra một cái khác nhìn qua vai cái trước. Những tấm kính trông cũ và mờ, và tôi không tài nào nhận ra cái nét mặt trên ấy là ưu tư, buồn thảm hay tràn trề hy vọng. Trong bóng tối lấp lánh màu bạc, những hình ảnh ấy nhạt nhòa đi. Một người đàn bà ngồi xuống cạnh tôi. Tôi chẳng biết bà ấy muốn gì và tôi băn khoăn tự hỏi phải chăng cái chế độ tàn bạo này giờ đây cũng biến những sự vật này thành những bài tập quân sự? Thế nên tôi đứng dậy bỏ đi. Tôi nghe rõ tiếng cười của người đàn bà sau lưng tôi, và tôi không bao giờ quên được cái giọng cười nhẹ nhàng, khinh miệt và ái ngại của người thiếu phụ vô danh dưới chân tường Herrenteich tại thành phố Osnabruck ngày nào.