Chương 5 -
Đêm ấy tôi không ngủ được nhiều. - Schwarz nói, - Tôi rất mệt, nhưng cứ thức mãi. Đêm tràn vào căn phòng nhỏ bé nơi chúng tôi nằm nghỉ. Tôi tưởng chừng như nghe thấy tiếng động. Thỉnh thoảng tôi lại thiếp đi và mơ thấy đang chạy vì có người đuổi theo. Tôi giật mình kinh hãi. Helen thức giấc chỉ có một lần.
“Anh không ngủ được sao?” Nàng hỏi trong bóng tối.
“Không. Anh không ngờ như vậy.”
Nàng bật đèn sáng. Bóng đêm chờn vờn nhảy từ cửa sổ ra.
“Mong đợi cho lắm cũng chẳng ích lợi gì.” Tôi nói, “Anh không kiểm soát được giấc mơ của anh. Còn rượu không?”
“Nhiều lắm. Đó là một điều em có thể trông cậy được trong gia đình em. Anh bắt đầu uống rượu chát từ lúc nào thế?”
“Từ lúc anh ở Pháp.”
“Tốt thôi.” Nàng nói, “Anh biết gì về rượu chát nào?”
“Chẳng là mấy. Thứ mà anh biết rành nhất là thứ rượu chát đỏ rẻ tiền.”
Helen đi vào bếp rồi trở ra với hai chai và cái mở nút chai.
“Quốc trưởng quang vinh của chúng ta đã thay đổi quy định về việc chế biến rượu chát.” Nàng nói, “Trước kia vẫn có một đạo luật cấm thêm đường vào rượu tự nhiên. Nay thì các nhà chế biến rượu còn được phép chặn đứng quá trình lên men nữa cơ đấy.”
Qua cái nhìn mà nàng đọc được trên mặt tôi nàng cũng hiểu tôi chẳng rành gì về việc này.
“Trong những năm yếu kém người ta làm như thế để rượu chua được vị ngọt hơn.” Nàng cười và giải thích, “Đó là một lối bịp bợm mà dân tộc ưu việt bày ra để đẩy mạnh xuất khẩu và thu về ngoại tệ mạnh.”
Nàng đưa cho tôi chai rượu và cái mở nút. Tôi mở chai rượu Moselle[*]. Helen mang vào hai ly thủy tinh mỏng.
“Làm sao mà da em sạm nắng thế?” Tôi hỏi.
“Hồi tháng ba, em ở miền núi trượt tuyết.”
“Em trần truồng mà trượt tuyết sao?”
“Không, nhưng ta đâu cần phải mặc quần áo khi tắm nắng?”
“Em biết trượt tuyết từ lúc nào thế?”
“Có người dạy cho em.” Nàng đáp với cái nhìn thách thức.
“Hay lắm.” Tôi nói, “Trượt tuyết chắc phải là tốt cho em lắm.”
“Tôi rót đầy ly rượu đưa cho nàng. Rượu nồng và thơm hơn thứ rượu Bourgogne[*]. Tôi chưa bao giờ được uống thứ rượu giống như thế từ khi rời nước Đức.
“Anh không muốn biết ai đã dạy em trượt tuyết sao?” Nàng hỏi.
“Không.”
Nàng nhìn tôi ngạc nhiên. Thuở trước, có lẽ tôi đã cật vấn nàng suốt đêm. Giờ thì tôi chẳng màng đến chuyện đó nữa. Cái không khí huyền ảo nhẹ tênh của buổi tối đến sớm lại trở về đây.
“Anh thay đổi quá.” Nàng bảo.
“Hôm nay em đã nói điều trái nghịch ít nhất cũng là hai lần rồi đấy.” Tôi phản công, “Dẫu sao thì cũng chẳng khác nhau gì mấy.”
Nàng nâng ly nhưng không uống.
“Có lẽ anh không thay đổi thì em thích hơn.”
Tôi uống rượu.
“Vì như vậy em chèn ép được anh dễ hơn chứ gì? ”
“Thế trước kia em cũng chèn ép anh à?”
“Anh cũng không biết nữa. Anh nghĩ là không. Lâu quá rồi mà. Cứ nhớ lại con người anh lúc đó, anh lại không hiểu vì sao em không thử xem.”
“Người ta lúc nào cũng thử, mà không biết điều đó sao?”
“Không.” Tôi đáp, “Nhưng ít ra em cũng cho anh biết rồi đó. Chà rượu ngon thật. Anh nghĩ chắc là quá trình lên men đã không bị gián đoạn.”
“Như của anh chứ gì?”
“Này Helen.” Tôi nói, “Em thật là hấp dẫn và ngộ nghĩnh, vui tính. Đó là một lối kết hợp lạ lùng và thú vị nhất.”
“Anh đừng quá tin chắc như thế.” Nàng cáu kỉnh nói, rồi ngồi xuống giường, tay vẫn cầm ly.
“Có chuyện gì anh chắc đâu.” Tôi vừa nói vừa cười mỉm, “Nhưng tính bất trắc cũng có cái lợi của nó. Nếu nó không khiến em mòn mỏi mà chết, thì nó đưa em đến một tình trạng chắc chắn không gì lay chuyển nổi. Đấy là cả một mớ từ to lớn, nhưng chúng chỉ phản ánh kinh nghiệm của một tảng đá lăn.”
“Tảng đá lăn?”
“Giống như anh vậy. Một kẻ không dừng chân được bất cứ nơi đâu, không thể ở yên một chỗ. Kiếp sống của một dân tị nạn. Hoặc của một nhà sư khất thực. Hoặc của con người hiện đại. Trên thế giới này có rất nhiều dân tị nạn hơn em tưởng. Ấy thế mà một số khá đông lại chẳng bao giờ đã ra khỏi nhà.”
“Điều đó cũng không đến nỗi tệ.” Helen nói, “Còn hơn là một cảnh tù đọng trưởng giả.”
Tôi gật đầu đồng ý:
“Nhưng có thể được mô tả theo cách khác, song như thế thì không còn gì là lôi cuốn, hấp dẫn nữa. May là chúng ta nghèo trí tưởng tượng. Nếu không sẽ có rất nhiều người không chịu tình nguyện đi đánh giặc.”
“Bất cứ gì cũng hơn cảnh tù đọng.” Helen nói, và uống ly rượu của nàng.
Tôi ngắm nàng trong khi nàng uống. Nàng trẻ biết bao, tôi nghĩ trẻ nhưng thật là thiếu kinh nghiệm, thật là thách thức và đáng yêu biết bao, mà cũng nguy hiểm và rồ dại biết chừng nào! Nàng chẳng biết gì cả. Nàng cũng không hiểu được rằng tù đọng trưởng giả là một tâm trạng chứ không phải là một hoàn cảnh địa lý.
“Anh có muốn trở về cảnh đó không?” Nàng hỏi.
“Anh nghĩ là không thể được nữa. Quê hương anh đã tạo anh thành kẻ giang hồ tứ xứ trái với ý nguyện của anh. Anh không bao giờ thay đổi được nữa. Không bao giờ có thể trở lui về sau được nữa.”
“Trở về với một người nào đó cũng không được sao?”
“Trở về với một người cũng không.” Tôi nói. “Cho dẫu quả đất có quay. Nó là một thứ tị nạn từ mặt trời đến. Em không bao giờ trở về được đâu. Có thử cũng bằng vô ích. Chỉ rước lấy tai họa mà thôi.”
“Thế thì cảm ơn Chúa về chuyện đó.” Helen nói và đưa cái ly cho tôi, “Anh chưa bao giờ có ý muốn trở lui sao?”
“Lúc nào cũng muốn.” Tôi bảo. “Anh chẳng bao giờ làm theo những lý luận của anh. Chính điều này khiến lý luận ấy càng thêm hấp dẫn lôi cuốn.”
Helen bật cười:
“Anh nói nghe chẳng có ý nghĩa gì cả.”
“Tất nhiên. Che đậy một điều gì khác chỉ là chuyện vớ vẩn thôi.”
“Anh bảo sao?”
“Rằng một điều gì đó mà không nói nên lời được.”
“Một điều chỉ xảy đến về đêm?”
Tôi không đáp lại, lặng lẽ ngồi xuống giường. Gió thời gian ào ào bên tai tôi. Giờ thì nó ngưng thổi rồi. Tưởng như tôi di chuyển từ một chiếc máy bay qua chiếc khinh khí cầu. Tôi vẫn còn trôi nổi bồng bềnh trong không khí, nhưng không còn nghe tiếng động cơ nữa.
“Bây giờ tên anh là gì?” Helen hỏi.
“Josef Schwarz.”
Nàng cân nhắc đắn đo một hồi:
“Vậy em là bà Schwarz?”
Tôi không dằn lòng cười được.
“Không, Helen à. Đó chỉ là một cái tên thôi. Người đàn ông mà anh đội tên chính ông ấy cũng thừa kế của một người khác. Ông Josef Schwarz nào đó vẫn sống mãi trong anh như một anh Do Thái lang thang. Một kẻ hoàn toàn xa lạ, nhưng lại là bậc tiền bối tinh thần của anh.”
“Anh không quen biết ông ấy?”
“Không.”
“Anh có cảm giác thấy gì lạ khi mang một cái tên khác?”
“Có chứ.” Tôi đáp, “Bởi vì có một mảnh giấy đi kèm theo. Một thẻ thông hành.”
“Mặc dầu nó là giả?”
Tôi bật cười. Đúng là một câu hỏi từ một thế giới nào khác. Tính xác thực của tấm giấy thông hành tùy thuộc người cảnh sát kiểm tra nó.
“Em có thể viết thành cả một câu chuyện ngụ ngôn triết lý về điều đó.” Tôi nói, “Câu chuyện có thể bắt đầu bằng câu hỏi cái tên là cái gì. Một ngẫu nhiên hay một sự nhận dạng.”
“Tên gọi là tên gọi.” Helen bướng bỉnh nói, “Em bảo vệ tên em. Mà nó cũng là tên anh nữa đấy. Giờ anh về đây kiếm được một cái tên khác ở đâu đó.”
“Nó là một quà tặng.” Tôi cải chính, “Với anh, nó là món quà quý nhất trên đời này. Anh rất sung sướng được mang nó. Với anh nó đồng nghĩa với lòng nhân hậu, với tình người. Nếu có khi nào tuyệt vọng, nó sẽ nhắc anh nhớ rằng lòng nhân hậu không chết. Còn tên em nhắc em nhớ lại những gì? Nhớ lại một gia tộc gốc Phổ gồm toàn quân nhân và người săn thú với tâm địa của lũ cáo, chó sói và chim công.”
“Em không có ý muốn nói đến tên gia đình em.” Helen vừa nói vừa đong đưa chiếc dép trên ngón chân, “Em vẫn còn mang tên anh kia mà. Cái tên trước kia cơ, thưa ông Schwarz.”
Tôi mở chai rượu vang thứ hai.
“Anh nghe nói ở Indonesia có lệ thỉnh thoảng hay đổi tên. Nếu chán với cái nhân cách hiện thời của ta, ta cứ đánh đổi nó, lấy một tên khác, rồi bắt đầu một cuộc đời mới. Ý kiến hay đấy chứ?”
“Anh đã bắt đầu cuộc đời mới chưa?”
“Ngay hôm nay đây.” Tôi nói.
Nàng buông chiếc dép rơi xuống sàn nhà.
“Người ta không mang theo gì khi bước vào cuộc sống mới sao?”
“Một tiếng vọng.” Tôi nói.
“Không kỷ niệm?”
“Thì kỷ niệm là tiếng vọng đấy. Một kỷ niệm mà nó không còn làm ta đau nhức nữa và khiến ta cảm thấy ngượng nghịu.”
“Giống như khi xem phim ấy à?” Helen hỏi.
Trông nàng tưởng như nàng sắp sửa ném cái ly vào mặt tôi bất cứ lúc nào. Tôi lấy cái ly ra khỏi tay nàng và rót thêm ít rượu ở chai thứ hai.
“Loại vang gì đây?” Tôi hỏi.
“Thứ rượu vang trứ danh vùng sông Rhin đấy. Vừa tới độ lên men đầy đủ. Không bị giả mạo. Không thể lẫn lộn với thứ rượu khác được đâu.”
“Không phải là thứ rượu vang tị nạn chứ?” Tôi hỏi.
“Không phải như con tắc kè hoa đổi màu. Không phải là một kẻ trốn tránh trách nhiệm.”
“Chúa ơi, Helen! Có phải anh đang nghe những âm thanh của thứ khả kính tiểu tư sản đấy chăng? Mới lúc nãy thôi em đã chẳng tìm cách thoát khỏi cảnh ao tù trưởng giả rồi sao?”
“Anh cứ bắt em nói lên những điều em không hề nghĩ đến.” Nàng giận dữ đáp, “Anh đang nói gì thế? Mà để làm gì? đây là đêm đầu tiên mà! Sao ta không hôn nhau hoặc ta không thù ghét nhau đi?”
“Thì chính là điều ta đang làm đấy mà.”
“Chỉ rặt là từ ngữ. Anh tìm đâu ra lắm từ ngữ thế? Ngồi đây nói chuyện như thế này có đúng không?”
“Anh chẳng biết cái gì là đúng.”
“Anh lấy đâu ra bao nhiêu ngôn từ ấy? Anh vẫn quen nói nhiều như thế sao? Anh có nhiều bạn lắm hả?”
“Không.” Tôi đáp. “Rất ít. Chính vì thế mà từ tuôn ào ra như táo từ giỏ rớt ra vậy. Anh cũng lấy làm lạ như em.”
“Đó là sự thật?”
“Đúng thế, Helen.” Tôi nói. “Đó là sự thật. Em không hiểu anh muốn nói gì sao?”
“Anh không thể nói năng một cách đơn giản hơn hay sao?”
Tôi lắc đầu.
“Tại sao không?”
“Bởi vì anh sợ những câu nói thẳng. Và sợ luôn những từ ngữ thêm vào câu nói. Có thể em không tin anh, nhưng nó là như vậy đó. Ngoài ra, còn có nỗi sợ của anh về cái sợ hãi nó âm thầm len lỏi qua những đường phố ở một nơi nào đó, mà anh không muốn nghĩ hay nói đến, bởi vì một sự mê tín ngu xuẩn dạy anh biết sẽ không có tai họa nào đến nếu ta đừng để ý đến nó. Đó là lý do tại sao cung cách ăn nói của ta lại như thế. Khi ta nói năng như thế, thời gian như ngừng lại, như khi cuốn phim bị đứt. Mọi sự đều dừng yên. Chẳng có gì xảy đến.”
“Quá thâm thúy đối với em.”
“Đối với anh cũng vậy. Anh đến với em, em còn sống và anh chưa bị bắt, như thế chưa đủ sao?”
“Chính vì vậy mà anh trở về?”
Tôi không trả lời. Nàng ngồi đó như một nữ tướng thu nhỏ, trần truồng, tay cầm ly rượu vang, yêu sách, không nhượng bộ, tinh ranh và táo bạo và tôi chợt nhận ra trong cuộc sống chung ngày trước của chúng tôi, tôi chẳng hiểu biết gì về nàng cả. Tôi không hiểu nhờ đâu mà nàng có thể chịu đựng được cuộc sống với tôi. Như thể tôi có một vật cưng quý, một con cừu non xinh xắn chẳng hạn, và rất mực nuông chiều nó, rồi bỗng nhiên nó biến thành một chú báo hoặc sư tử con, nó chẳng màng gì đến những dải băng xanh hoặc những bàn chải mềm, và rất có khả năng cắn vào cái tay đưa ra để vuốt ve nó. Tôi lâm vào một thế nguy hiểm. Như ông vẫn có thể nghĩ ra, đêm đầu tiên ấy tôi không nói rõ lắm về tôi. Thất bại của tôi tầm thường và đáng chê trách quá. Tôi trông đợi nhiều hơn thế, và có lẽ sự việc xảy đến vì tôi trông đợi nó. Sự thật là tôi bất lực, nhưng may thay, vì tôi trông mong được sống, nên tôi đã không có những trường hợp tương tự. Tỏ thái độ kiêu căng về vấn đề này và bảo rằng chỉ có đám chăn ngựa mới không biết đến nó thì cũng được. Đám đàn bà còn làm ra vẻ hiểu biết và trả lời với cung cách làm ra bối rối thêm mà thôi. Nhưng dẫu ta nhìn vào nó bằng cách nào chăng nữa, thì nó cũng chỉ là một vấn đề khốn khổ, và xét đến nó một cách càng nghiêm túc bao nhiêu, thì nó lại càng trở nên lố bịch bấy nhiêu. Vì tôi chẳng đưa ra một lời giải thích thông thường nào nên Helen đâm ra lo ngại, bối rối, và cũng vì nàng lo ngại, bối rối nên nàng quay ra tấn công tôi. Nàng không hiểu được tại sao tôi không làm tình với nàng, và cảm thấy bị xúc phạm. Đáng lẽ tôi nên nói để nàng rõ sự thật, nhưng muốn như vậy tôi phải điềm tĩnh hơn. Có hai loại sự thật có tính chiến lược, trong đó bạn chẳng phải lo mất mát gì cả. Trong quá trình năm năm qua, tôi học được một điều là nếu bạn cố tình thò cổ ra ngoài, thì bạn đừng ngạc nhiên khi bị bắn.
“Những người trong hoàn cảnh của anh đâm ra mê tín.” Tôi nói với Helen. “Họ tin rằng nếu họ nói hoặc làm một điều gì đó một cách trực tiếp, thì điều trái ngược sẽ xảy đến. Thế nên họ thành ra dè dặt, thận trọng. Ngay cả với lời nói cũng vậy.”
“Nghe phi lý quá chừng!'
Tôi cười:
“Đã rất lâu anh không còn đi tìm ý nghĩa của sự việc nữa. Nếu tiếp tục, chắc anh sẽ chua chát như một quả chanh dại.”
“Em mong anh không quá mê tín.”
“Đây, anh sẽ cho em biết ngay là anh mê tín đến mức nào.” Tôi điềm nhiên nói, “Anh thành thật tin rằng nếu anh có phải nói với em là anh yêu em quá mức, thì chỉ một phút sau thôi là đã nghe bọn mật vụ Gestapo sẽ đến gõ cửa ầm lên.”
Nàng đứng yên một hồi như con thú vừa nghe có tiếng động lạ thường. Rồi nàng từ từ quay mặt về phía tôi. Khuôn mặt biến đổi hẳn.
“Có thật vì lý do đó không?” Nàng nhẹ nhàng hỏi.
“Đó chỉ là một lý do.” Tôi đáp lại, “Làm sao em nghĩ là anh có thể giữ cho những suy nghĩ của anh được ổn định khi mà anh vừa chuyển từ một địa ngục đúng nghĩa của nó lên một cõi địa đàng đầy hiểm nguy?”
“Đôi khi em cũng cố tưởng tượng cuộc đời sẽ ra thế nào nếu anh trở về.” Một lát sau nàng nói, “Sự thật lại khác hẳn.”
Tôi ngại không hỏi nàng là khác như thế nào. Khi yêu nhau, ta thường có xu hướng hỏi quá nhiều điều, mà một khi bạn thực sự bắt đầu muốn biết câu trả lời, thì tình yêu cũng vỗ cánh bay đi.
“Luôn luôn vẫn khác, em ạ.” Tôi đáp, “Và cảm ơn Chúa vì thế.”
Nàng mỉm cười.
“Không đâu, Josef ạ. Không bao giờ khác đâu. Vẫn chỉ là thế. Còn chút rượu vang nào không, anh?”
Nàng đi vòng quanh giường như một vũ nữ, đặt ly xuống sàn nhà, bên cạnh nàng. Da nàng sạm nắng chưa từng thấy và nàng cũng chẳng tỏ ra quan tâm về việc mình khỏa thân, theo đúng cái cung cách của một phụ nữ tự biết mình có sức khêu gợi và thường được nghe người ta bảo thế.
“Đến khi nào anh mới phải đi?” Tôi hỏi.
“Ngày mai người giúp việc chưa lại đâu.”
“Ngày kia?”
Nàng gật đầu.
“Thật đơn giản. Hôm nay là thứ bảy. Em cho bà ta nghỉ cuối tuần. Mãi đến trưa thứ hai bà ta mới trở lại. Bà ta có một nhân tình. Một viên cảnh sát có vợ hai con.” Nàng liếc nhìn tôi từ bên dưới hàng mi khép hờ. “Bà ấy mừng lắm.”
Từ bên ngoài vọng vào tiếng hát quân hành.
“Gì thế em?” Tôi hỏi.
“Binh sĩ hay đội Thanh niên Hitler. Tại nước Đức này lúc nào cũng có người diễu hành.”
Tôi đứng dậy vén màn nhìn ra ngoài. Đó là một phân đội Thanh niên Hitler.
“Kể cũng lạ thật.” Tôi nói, “Em chẳng giống gì gia đình em cả.”
“Chắc là do phía bà em gốc Pháp.” Helen nói, “Mọi người trong nhà giấu kín bà ấy như một điều bí mật, như thể bà là người Do Thái.” Nàng ngáp và vươn dài người ra. Trông nàng khỏe hẳn ra, như thể chúng tôi cùng chung sống với nhau từ bao tuần nay và từ bên ngoài chẳng có mối nguy hiểm nào đánh lo ngại cả. Cho đến lúc bấy giờ, cả hai chúng tôi đều tránh không đề cập đến chuyện nguy hiểm. Và Helen chỉ hỏi thăm tôi về cuộc sống lưu đày. Tôi không ngờ nàng đã hiểu thấu tâm tư của tôi và đã có quyết định. “Anh không muốn ngủ thêm chút nữa sao?” Nàng hỏi.
Bây giờ là một giờ sáng. Tôi nằm xuống nghỉ.
“Ta không thể để lại một ngọn đèn sáng sao, em?” Tôi hỏi, “Được vậy thì anh dễ ngủ hơn. Anh chưa quen được với cảnh âm u, tăm tối của nước Đức.”
Nàng nhìn về tôi thật nhanh.
“Anh có thể cứ để sáng cả như thế cũng được, nếu anh muốn, cưng ạ.”
Chúng tôi nằm kề bên nhau. Tôi nhớ mang máng đôi khi chúng tôi cũng ngủ chung giường hết đêm này qua đêm khác. Như một chiếc bóng nhạt mờ, như một kỷ niệm không màu sắc. Helen sống với tôi, nhưng bằng cung cách khác, trong tình chung chăn chung gối mới mẻ lạ lùng. Tôi chỉ nhận ra những sự vật không tên tuổi quanh nàng, hơi thở nàng, mùi tóc nàng, và trên hết là mùi da nàng toát ra, đã đánh mất từ lâu giờ vẫn chưa tìm thấy lại được trọn vẹn, vì cũng vẫn mùi da thịt ấy, nhưng nghe sao bình thản, già dặn quá mức. Thật là cả một nguồn an ủi trong mùi da thịt của người ta yêu dấu. Còn có gì thông minh hơn cái miệng kia với những lời dối trá. Tôi thức suốt đêm ấy, ôm chặt Helen trong tay, nhìn ngọn đèn và căn phòng tôi đã quen mà vẫn còn xa lạ, và sau cùng tôi không còn ray rứt băn khoăn nữa. Helen lại thức giấc một lần nữa.
“Anh quen biết nhiều phụ nữ bên Pháp lắm phải không?” Nàng nhắm mắt thì thầm câu hỏi vào tai tôi.
“Không nhiều hơn cần thiết.” Tôi đáp lại, “Và chẳng ai giống em cả.”
Nàng thở dài và tìm cách trở mình, nhưng lại chìm vào giấc ngủ, không cưỡng lại được. Dần dần tôi cũng ngủ luôn, không mộng mị, và đến sáng khi tôi tỉnh giấc thì giữa chúng tôi chẳng còn ngăn cách nào nữa. Tôi với tay tìm nàng và nàng lại vui vẻ đến với tôi. Chúng tôi lại rơi vào giấc ngủ như chìm trong vùng mây lấp lánh và không còn bóng tối nữa.