Chương 4 -
hòng đợi vắng người. Trên ngăn kê gần cửa sổ là lọ cây cảnh lá dại khô như những mẩu da thuộc. Trên bàn la liệt những tạp chí bìa in hình những yếu nhân trong đảng, binh lính, một phân đội thanh niên Hitler. Tôi nghe những bước chân vội vã rồi Martens hiện ra ở bậc cửa. Anh nhìn tôi, lấy kính ra và chớp mắt. Trong phòng đợi ánh sáng mờ mờ. Thoạt tiên anh ta không nhận ra tôi, có lẽ vì hàng ria mép.
“Tôi đây, anh Rudolf à.” Tôi nói, “Josef đây.”
Anh làm hiệu cho tôi nói nhỏ.
“Anh từ đâu đến đây?” Anh thì thào.
Tôi nhún vai.
“Điều đó có gì quan trọng đâu? Điều quan trọng là tôi đã đến đây. Anh phải giúp tôi mới được.” Tôi nói.
Anh nhìn tôi. Đôi mắt cận thị của anh trong vùng ánh sáng lờ mờ đó trông chẳng khác gì mắt cá trong chậu.
“Anh có được phép ở đây không?”
“Tôi tự cho phép mình.”
“Anh vượt biên bằng cách nào?”
“Chẳng có gì quan trọng. Tôi đến đây để gặp Helen.”
Anh há hốc miệng nhìn tôi kinh ngạc:
“Thế ra anh đến đây là vì vậy?”
“Vâng!” - Tôi đáp. Tôi bỗng cảm thấy yên ổn lạ thường. Tôi chỉ run sợ khi nào tôi còn cô đơn. Giờ thì bao nhiêu lo sợ ấy đã tan biến rồi. Vấn đề của tôi lúc này là trấn an anh bạn của mình đang ở trong tình trạng dao động.
“Để gặp Helen?” Anh hỏi.
“Vâng, để gặp Helen. Và anh phải giúp tôi.”
“Trời đất!” Anh kêu lên.
“Sao? Nàng chết rồi à?” Tôi hỏi.
“Không cô ấy còn sống.”
“Nàng vẫn còn ở trong thành phố này chứ?”
“Vâng. Hay nói cho đúng, cách đây một tuần lễ cô ấy còn ở đây.”
“Ta có thể nói chuyện ở đây không?” Martens gật đầu:
“Tôi đã bảo nhân viên nhận bệnh đi nơi khác rồi. Nếu bệnh nhân có đến tôi cũng bảo họ đi thôi. Tôi không mời anh về nhà được. Tôi đã cưới vợ. Cách đây hai năm. Mong anh hiểu…”
“Vâng, tôi hiểu.” Ngay cả bà con ruột thịt cũng không nên tin cậy dưới Đế chế Ngàn năm[*] này. Hành động tố cáo được các vị cứu tinh của nước Đức xem là một đức tính dân tộc. Về điều này tôi đã có chút ít kinh nghiệm đầu tay. Chính anh vợ tôi đã tố cáo tôi.
“Vợ tôi đang ở trong đảng.” Martens nói nhanh, “Nhưng chúng tôi không bao giờ,” Anh nhìn tôi vẻ hơi ngượng, “Không bao giờ đề cập đến những chuyện như thế này. Tôi không nắm chắc là bên trong nhà tôi nghĩ gì. Mời anh vào đây vậy.”
Anh mở cửa bước vào phòng mạch rồi khóa trái nó lại.
“Cứ để cửa mở.” Tôi nói, “Đóng cửa còn khả nghi hơn khi người ta trông thấy chúng ta.”
Anh vặn trả lại chìa khóa trong ổ khóa rồi nhìn tôi:
“Này, Josef, vì Chúa, anh hãy nói thật đi, anh tính làm gì ở đây? Anh bí mật đến đây phải không?”
“Đúng. Nhưng anh không phải giấu tôi đâu. Tôi đang trọ tại một khách sạn ở ngoại ô. Tôi đến gặp anh vì anh là người duy nhất có thể báo cho Helen biết tôi có mặt ở đây. Đã năm năm nay tôi không nhận được tin tức gì của nàng. Tôi không rõ nàng có chuyện gì không. Tôi cũng không biết nàng đã lấy chồng khác chưa. Không biết nàng…”
“Và chính vì thế mà anh đến đây?”
“Đúng thế.” Tôi ngạc nhiên đáp lại, “Còn vì cái gì nữa?”
“Chúng tôi phải giấu anh đi. Đêm nay anh có thể nghỉ trên đi văng này. Tôi sẽ đánh thức anh trước bảy giờ. Đến bảy giờ chị giúp việc đến dọn dẹp. Sau tám giờ anh có thể trở lại. Bệnh nhân không đến trước mười một giờ đâu.”
“Nàng tái giá rồi chứ?”
“Ai? Helen hả? Tôi cũng không nghĩ là anh chị đã ly dị rồi.”
“Nàng sống ở đâu? Vẫn trong căn hộ dạo ấy chứ?”
“Tôi chắc thế.”
“Có ai cùng sống với nàng không?” “Anh muốn nói gì?”
“Mẹ, anh chị em hay một người bà con nào đó chẳng hạn?”
“Tôi không rõ.”
“Nhờ anh xem lại giùm.” Tôi nói, “Và cũng nhờ anh báo cho nàng biết tôi có mặt ở đây.”
“Tại sao anh không đích thân nói cho cô ấy?” Martens hỏi, “Có điện thoại mà.”
“Giả sử nàng không sống một mình thì sao? Cái gì sẽ xảy ra nếu anh nàng có mặt tại đó? Lão ấy đã một lần tố cáo tôi rồi mà.”
“Đúng thế thật. Biết được anh ở đây chắc thế nào cô ấy cũng kinh ngạc như tôi. Và điều đó có thể làm lộ cô ấy ra.”
“Tôi không biết rõ nàng nghĩ gì về tôi, Rudolf ạ. Đã năm năm rồi, còn gì? Và chúng tôi mới lấy nhau được bốn năm thôi. Năm năm lâu hơn bốn năm chứ, mà thời gian xa cách ảnh hưởng tai hại hơn thời gian sum họp.”
Anh gật đầu tán đồng.
“Tôi thật không hiểu anh.” Anh nói.
“Tôi biết. Chính tôi, tôi cũng không hiểu tôi nữa là. Chúng ta có những cuộc sống khác nhau.”
“Tại sao anh không viết thư cho cô ấy?”
“Giờ thì những chuyện ấy làm sao giải thích cho anh hiểu, Rudolf. Thôi, cứ đi gặp Helen đi. Hãy tìm cách nói cho nàng rõ. Xem nàng nghĩ như thế nào? Nếu anh thấy có thể làm được, thì hãy bảo nàng rằng tôi có mặt ở đây và hỏi nàng xem chúng tôi có thể gặp nhau bằng cách nào.”
“Anh muốn tôi đi vào lúc nào?”
“Ngay bây giờ.” Tôi ngạc nhiên nói, “Sao lại phải chờ đợi?”
Anh nhìn quanh quất:
“Trong lúc chờ đợi, anh đi đâu? Đây không phải là nơi an toàn. Có thể nhà tôi cho người nhà xuống đây kiếm tôi. Thường thì tôi hay lên lầu sau những giờ làm việc; nhà tôi đã quen như thế rồi. Tôi có thể khóa cửa lại để anh trong đó, song như thế lại có vẻ khả nghi lắm.”
“Tôi không thích bị khóa đâu.” Tôi nói, “Sao anh không bảo chị ấy là anh có người bệnh phải khám.” “Tôi sẽ bảo như thế khi tôi trở lên lầu. Như thế đơn giản hơn.”
Tôi nhận thấy mắt anh chớp chớp lên, và trong thoáng chốc mắt trái của anh nháy lên một cách ranh mãnh khiến tôi nhớ lại những ngày thơ ấu giữa chúng tôi.
“Tôi sẽ chờ trong nhà thờ. Ngày nay nhà thờ an toàn chẳng khác gì vào thời Trung cổ. Chừng nào tôi có thể ghé trở lại?”
“Trong một tiếng nữa. Cứ xưng tên là Otto Sturn. Còn tôi gặp lại anh bằng cách nào? Anh hãy đến một nơi nào đó có điện thoại có phải tốt hơn không?”
“Những nơi có điện thoại rất nguy hiểm.”
“Vâng có lẽ đúng đấy!” Anh đứng ngần ngừ một lúc, “Vâng, có lẽ anh đúng. Nếu tôi không trở lại, anh cứ gọi tiếp, hoặc để lại ít chữ cho biết anh ở đâu.”
“Được.”
Tôi đội mũ lên.
“Josef.” Anh gọi giật.
Tôi quay người lại.
“Ngoài kia ra sao?” Anh hỏi, “Anh hiểu tôi muốn nói gì chứ? Không… Không thiếu gì cả chứ?”
“Không thiếu gì cả ư?” Tôi đáp, “Vâng, gần đúng như thế. Không thiếu gì cả. Nhưng không hẳn thế đâu. Thế còn ở đây thì sao? Chắc là đủ mọi thứ, chỉ thiếu một điều, lại còn là điều quan trọng nhất.”
“Thế là không tốt rồi.” Anh nói, “Không tốt Josef ạ. Vì đấy chỉ là cái vỏ khoác ngoài thôi.”
Tôi đi theo những đường vắng nhất đến ngôi thánh đường. Cũng không xa lắm. Đến phố Krahn, một đại đội lính diễu hành ngay qua mặt tôi. Họ hát một bài tôi không biết. Quảng trường Dom lính càng đông hơn. Cách đó không xa, cạnh ba cây thập tự của ngôi Nhà thờ Nhỏ, một đám vài trăm người tụ tập lại, phần đông mặc đồng phục đảng Quốc xã. Nghe giọng nói, tôi ngước lên nhìn diễn giả, nhưng chẳng thấy ai. Sau mắt tôi sáng lên khi thấy một cái loa phóng thanh gắn dựa vào một cái bục. Nó đứng đấy, dưới một ngọn đèn, trần trụi và đơn độc, đúng là một cái máy tự động, gào lên đòi quyền chiếm lại từng tấc đất cho nước Đức, cho nước đại Đức, đòi quyền báo thù. Hòa bình của thế giới, nó gầm lên như thế, chỉ có thể bảo vệ bằng một đường lối duy nhất: thế giới phải làm đúng ý muốn của nước Đức. Đó là cách hợp lẽ phải và công bằng. Gió lại nổi lên, và những cành cây đong đưa in bóng chập chờn lên những khuôn mặt quanh đó, lên cái máy đang tru tréo và những bức tượng đá im lìm trên tường nhà thờ phía sau đó: Chúa Ki-tô đóng đinh trên cây thập giá giữa hai tên trộm. Nét mặt những người nghe chú ý tập trung cao độ và rạng rỡ hẳn lên. Họ tin những cái máy kia đang gào thét vào mặt họ. Trong trạng thái thôi miên lạ lùng, họ vỗ tay hoan hô cái giọng vô hồn ấy mà cứ tưởng như là của người thật. Cảnh quan này gây trong tôi một ấn tượng mãnh liệt điển hình cho cái xu hướng quỷ quyệt hung hãn của quần chúng Đức trong thời đại chúng ta, điển hình cho đám đông cuồng loạn kinh hoàng chỉ biết nghe theo khẩu hiệu. Dù những khẩu hiệu ấy đến với họ từ bên trái hay bên phải cũng chẳng hề gì, miễn chúng đỡ cho họ cái công việc nặng nhọc là phải suy nghĩ lôi thôi và khỏi phải gánh lấy trách nhiệm. Trong nhà thờ tôi không ngờ lại thấy nhiều người đến thế. Rồi tôi sực nhớ vào dạo tháng năm, tối nào cũng có thánh lễ. Trong một lúc tôi tự hỏi vào một nhà thờ Tin lành có hơn không, nhưng tôi cũng không biết ở đó buổi tối họ có mở cửa không. Tôi lách mình ngồi vào chiếc ghế dài có dựa gần cửa ra vào. Trên bàn thờ ánh nến sáng rực, nhưng phần còn lại trong nhà thờ thì chỉ lờ mờ sáng, và không dễ gì nhận diện ra tôi được. Vị linh mục đi quanh nhà thờ giữa khói hương nghi ngút, và ánh nến chói lòa hai bên có hai cậu giúp lễ mặc áo lễ đỏ, ngoài khoác áo thụng trắng, một trong hai người lắc chiếc đỉnh trầm. Qua tiếng đàn oóc gan và những bài thánh ca, tôi có cảm giác cũng những khuôn mặt biến dạng rạng rỡ như lúc nãy ở bên ngoài kia. Cũng những cặp mắt thoát trần của những người mộng du, chất ngất niềm tin không chút thắc mắc và khao khát bình an không trách nhiệm. Không khí trong nhà thờ hiền hòa, êm ái. Nhưng tôn giáo này, vốn dạy ta yêu người, mến Chúa, không phải lúc nào cũng hiền hòa, êm ái như thế này đâu. Qua bao nhiêu thế kỷ dài đắm chìm trong tăm tối, nó cũng đã làm đổ biết bao nhiêu máu. Đến lúc hết bị sát hại thì đến phiên nó đi sát hại người khác, bằng lửa, bằng gươm, bằng tra tấn hành hạ. Chính anh của Helen nêu rõ điểm này khi lão nói với tôi trong trại tập trung: “Chúng tôi chỉ tiếp tục áp dụng những phương pháp của các bạn thôi. Tòa án Dị giáo[*] của các bạn, với những cách tra tấn cả nó nhân danh Chúa, dạy chúng tôi cách phải đối xử với kẻ thù của niềm tin. Thật tình mà nói, chúng tôi không đến nỗi tàn ác thế. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt chúng tôi mới thiêu sống người.” Lúc hắn nói với tôi điều này là lúc tôi đang bị treo trên cây thập tự, đó là một cách êm ái của họ để lấy tin tức ở đám tù nhân. Vị linh mục nâng chén thánh tích bằng vàng trên bàn thờ lên và ban phép lành cho đám con chiên. Tôi ngồi thật yên, nhưng cứ tưởng như được tắm gội trong hương trầm ấm áp, bồng bềnh giữa niềm an ủi quang mình. Rồi bài thánh ca cuối cùng trỗi dậy: “Đêm nay xin Chúa bảo vệ che chở cho con.” Bài thánh ca này tôi đã từng ca hồi còn bé. Dạo ấy bóng tối ban đêm làm tôi sợ hãi, giờ đây chính ánh sáng lại làm tôi kinh hoàng. Thiên hạ bắt đầu ra về. Tôi còn mười lăm phút nữa để chờ đợi. Tôi nhích người vào góc cạnh cây cột lớn đỡ mái vòm của thánh đường. Vừa lúc đó, tôi trông thấy Helen. Thoạt tiên tôi không nhận ra nàng, vì tôi không trông mong gặp nàng tại đây. Sau đó, lúc nàng bước lên vài bước qua trước mặt tôi đến một nơi thưa người hơn, tôi mới nhận ra nàng khi nàng khẽ nhích vai để chen lên phía trước. Tưởng như nàng không va chạm vào người ai cả, mà chỉ lướt nhẹ vào giữa đám đông thôi. Bỗng nhiên nàng đứng đấy, nổi hẳn lên giữa gian chính rộng bao la của giáo đường, thật rõ nét trước hàng nến và khoảng bóng tối xanh đỏ của những cửa sổ cao lớn kiểu Rô-ma. Trông nàng gầy, ốm, mong manh và lạc lõng. Tôi đứng dậy, tìm cách bắt gặp cái nhìn của nàng. Tôi không dám vẫy tay ra hiệu. Vẫn còn đông người quá; làm thế người ta có thể để ý đến mất. Nàng vẫn còn sống, đó là ý nghĩ đầu tiên của tôi. Nàng không chết và không bệnh hoạn. Đôi khi ta lấy làm ngạc nhiên sao lại có những sự việc vẫn y nguyên như trước kia, sao một người nào đó lại có thể còn đó. Nàng bước vội đến chỗ ca đoàn. Tôi lách người ra khỏi ghế và đi theo nàng. Đến hàng rào chấn song nơi rước lễ, nàng dừng lại nhìn quanh. Nàng quan sát cẩn thận những người đang còn quỳ ở hàng ghế rồi thong thả quay trở xuống. Nàng chắc chắn sẽ tìm ra tôi trong một hàng ghế nào đó, tới mức nàng bước tới cạnh tôi, gần tới mức chúng tôi có thể chạm vào người nhau được. Tôi bước theo nàng. Khi nàng dừng lại lần nữa, tôi dừng lại ngay sau lưng nàng.
“Helen.” Tôi nói, “Đừng đi lòng vòng như thế. Hẵng ra ngoài kia đi. Anh sẽ theo em. Đừng để cho người ta thấy chúng mình đấy.”
Người nàng run lên như bị kích động mạnh, song nàng vẫn tiếp tục bước. Tại sao nàng lại dấn thân đến chốn này? Chúng tôi đang có nguy cơ bị nhận diện. Nhưng chính tôi lại cũng không ngờ lại có đông người đến thế. Tôi thấy nàng rảo bước trước mặt tôi, còn tôi thì nóng lòng muốn ra khỏi giáo đường càng nhanh càng tốt. Nàng mặc một bộ đồ đen, đội một chiếc mũ thật nhỏ. Nàng giữ đầu thẳng, hơi nghiêng về một phía như thể lắng nghe tiếng bước chân tôi. Tôi đi tụt lại đằng sau vài bước, chỉ giữ khoảng cách đủ để khỏi mất dấu nàng. Kinh nghiệm đã dạy tôi rằng ta có thể bị lộ diện chỉ vì theo sát một người nào đó quá mức. Nàng bước qua trước bể đại chứa nước thánh và ra bằng cửa chính. Rồi nàng rẽ sang trái. Dọc theo giáo đường là một lối đi lát đá phiến, ngăn cách với khu vườn bao quanh giáo đường bằng những sợi dây xích sắt gắn vào hàng trụ đúc bằng sa thạch. Nàng nhảy qua hàng rào dây xích, bước vài bước vào trong bóng tối, dừng lại, rồi đi lòng vòng một hồi. Khi tôi nói rằng vào lúc ấy tôi cảm thấy chính đây là cuộc sống của tôi, cuộc sống trọn vẹn của tôi đang đi chập chờn phía trước tôi mà lại dường như cách xa tôi, rồi đột nhiên nó quay lại với tôi, thì đó cũng là một lối nói rập khuôn, vừa đúng lại vừa không đúng sự thật. Đúng thế, tôi cảm nhận nó, nhưng nó lại không phải tất cả những gì tôi cảm nhận. Tôi đi về hướng Helen, hướng về khuôn mặt âm u, nhạt nhòa của nàng, hướng về đôi mắt, khóe miệng của nàng và để lại sau tôi những gì đã xảy ra. Những năm chúng tôi phải xa cách nhau không phải đã tan biến đi, chúng vẫn còn đó, nhưng giống như tôi đã đọc thấy chúng trên những trang sách chứ không phải chính tôi đã trải qua.”
“Anh từ đâu đến?” Helen hỏi bằng một giọng gần như là thù địch trước khi tôi bước theo kịp nàng.
“Từ Pháp.” Tôi đáp. “Và họ để anh vào sao?”
“Không. Anh vượt biên giới một cách bất hợp pháp.”
Hầu hết là những câu hỏi Martens đã hỏi tôi.
“Tại sao?” Nàng hỏi.
“Để gặp em.”
“Anh không nên về mới phải.”
“Anh biết vậy. Anh cũng đã từng nói với chính mình điều đó ngày này qua ngày khác.”
“Thế tại sao anh lại trở về?”
“Nếu anh biết tại sao thì anh đã không có mặt ở đây rồi.”
Tôi không dám hôn nàng. Nàng đứng ngay trước mặt tôi, nhưng người cứng nhắc, tưởng chừng như nàng có thể gãy đổ nếu tôi chạm đến người nàng. Tôi không biết lúc ấy nàng đang nghĩ gì, nhưng điều đáng nói là tôi đã gặp lại được nàng, nàng vẫn còn sống, và bây giờ thì tôi có thể yên tâm ra đi, hoặc chờ xem những gì sẽ xảy ra.
“Anh không biết?” Nàng lại hỏi.
“Ngày mai anh sẽ biết. Hoặc tuần tới. Hoặc sau này.”
Tôi nhìn lại nàng. Mà biết cái gì mới được? Hiểu biết chỉ như hạt bụi, cọng rác, một cụm bèo bọt chờn vờn trên đầu ngọn sóng. Một thoáng gió nhẹ cũng có thể cuốn nó phăng đi, nhưng ngọn sóng thì còn lại mãi mãi.
“Thế là anh đã trở về.” Nàng nói.
Mặt nàng không còn nét cứng nhắc và đã trở lại dịu dàng, thùy mị. Nàng bước gần lại một bước. Tôi nắm cánh tay nàng, và đôi bàn tay nàng đặt lên ngực tôi như để giữ khoảng cách giữa tôi và nàng vậy. Tôi có cảm giác mình đứng đối diện với nàng khá lâu, cô đơn trong khu vườn âm u lộng gió. Âm thanh ngoài đường nghe lắng xuống, như cách với chúng tôi bằng một bức tường thủy tinh. Ở đằng cuối công viên về bên trái tôi, cách khoảng trăm bước, là Hí viện Quốc gia, đèn thắp sáng rực với những bậc thang cấp trắng toát. Rồi trong một lúc, tôi còn nhớ rõ điều này, tôi hơi ngạc nhiên là các vở kịch vẫn tiếp tục được trình diễn và rạp hát vẫn chưa bị biến thành trại lính hoặc nhà tù. Một tốp người đi qua chúng tôi. Một người trong bọn cất tiếng cười vang, có kẻ lại nhìn quanh chúng tôi. “Đi nào, anh.” Helen bảo thầm, “Ta không ở đây được đâu.”
“Đi đâu bây giờ?”
“Về nhà của anh.”
Tôi tưởng tôi nghe nhầm.
“Đâu?” Tôi hỏi lại.
“Về nhà của anh. Chứ còn về đâu nữa?”
“Người ta có thể nhận ra anh trên cầu thang. Cũng những người đã sống trong nhà như trước kia chứ?”
“Vâng, nhưng họ sẽ không thấy anh đâu.”
“Thế còn chị giúp việc?”
“Em sẽ cho cô ấy nghỉ tối nay.”
“Còn sáng ngày mai?”
Helen nhìn tôi:
“Anh đến từ nơi xa xôi như thế để hỏi em những câu hỏi ấy sao?”
“Anh trở về không phải để bị bắt và đưa đi trại tập trung, Helen à.”
Sau rồi nàng cũng mỉm cười.
“Này Josef.” Nàng nói, “Anh chẳng thay đổi tí nào. Làm sao anh về được đến đây?”
“Chính anh, anh cũng không biết nữa.” Tôi đáp và cũng mỉm cười theo. Tôi nhớ có những lần trong quá khứ nàng cũng lấy cái giọng bực tức ấy đối với thái độ thông thái rởm của tôi. Kỷ niệm này khiến tôi tạm quên nỗi hiểm nguy đang đe dọa tôi. “Nhưng anh đã về đây.” Tôi nói.
Nàng lắc đầu, và tôi thấy đôi mắt nàng ứa lệ.
“Chưa đâu, anh ạ.” Nàng đáp, “Chưa đâu. Bây giờ cứ đi tiếp, nếu không, có thể họ bắt chúng ta thật đấy. Trông cứ như là em đang gây gổ với anh vậy.”
Chúng tôi băng qua công viên.
“Ngay bây giờ anh không thể đi với em được.” Tôi nói, “Trước hết em phải cho chị giúp việc đi đã. Anh đã lấy một phòng khách sạn ở Munster rồi. Ở đấy chẳng ai biết anh đâu, và anh nghĩ anh nên lưu lại tại đó.”
Nàng đứng phắt lại, hỏi:
“Trong bao lâu?” “Anh không biết.” Tôi đáp, “Anh chẳng bao giờ tính trước được chuyện gì cả. Anh chỉ biết là anh muốn gặp em và có thể một hôm nào đó anh sẽ trở lại.”
“Lại vượt biên giới?”
“Tất nhiên.”
Nàng cúi đầu và tiếp tục bước đi. Tôi nghĩ tôi phải hạnh phúc lắm, nhưng tôi lại không cảm nhận được như vậy. Chỉ về sau ta mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đó. Vâng, bây giờ, bây giờ đây tôi mới biết lúc bấy giờ tôi thật hạnh phúc.
“Anh phải gọi điện cho Martens.”
“Anh có thể gọi anh ấy từ nhà của anh.” Helen nói lại.”
Mỗi lúc nghe nàng nói “nhà của anh” tim tôi cứ nhảy thót lên. Nàng làm như vậy là cũng có chủ ý. Tôi chẳng biết vì sao.
“Anh có hứa với Martens sẽ gọi anh ấy trong một tiếng đồng hồ nữa. Có nghĩa là bây giờ. Nếu anh không gọi, anh ấy lại nghĩ có chuyện gì không hay đã xảy ra. Rồi anh ấy đâm ra hành động bậy bạ. Anh ấy biết anh sẽ gặp em.”
Tôi nhìn đồng hồ. Đáng lẽ tôi đã phải gọi anh ta mười lăm phút trước rồi.
“Anh sẽ gọi anh ta ở quán nước gần nhất.” Tôi nói, “Chỉ mất một giây thôi.”
“Trời đất, Josef.” Helen giận dữ nói, “Thật tình anh chẳng thay đổi chút nào. Anh còn rởm hơn trước kia nữa đó.”
“Có thể là như vậy.” Tôi nói, “Nhưng nhờ kinh nghiệm mà anh biết rằng những tai họa nào có thể xảy ra cho ta nếu ta không chịu để ý đến những chi tiết nhỏ. Và anh cũng từng biết qua cái tâm trạng đợi chờ trong khi tai họa đang rình rập chung quanh mình.”
Tôi nắm lấy tay nàng:
“Nếu anh không rởm như em nói, Helen à, thì chắc anh không sống được đến hôm nay.”
Nàng siết mạnh tay tôi.
“Em biết chứ!” Nàng thì thầm, “Nhưng anh không hiểu em lo sợ có chuyện gì xảy đến cho anh nếu em để anh một mình dẫu chỉ trong một phút hay sao?”
Tôi cảm thấy lòng mình được sưởi lại bằng tất cả hơi ấm của cuộc đời.
“Chẳng có gì xảy ra đâu, Helen ạ.”
Nàng mỉm cười và ngẩng đầu lên.
“Thôi, anh đi gọi điện thoại đi. Nhưng chớ vào quán nước. Đằng kia có phòng điện thoại. Họ đã xây cất thêm một phòng trong thời gian anh đi vắng. Ở đấy an toàn hơn quán nước.”
Tôi bước vào phòng điện thoại bằng kính. Helen đứng ngoài. Tôi gọi Martens. Đường dây bận. Chờ đợi một lúc, tôi gọi lại. Đường dây vẫn còn bận. Tôi đâm lo. Qua lớp kính phòng điện thoại tôi thấy Helen rảo bước lui tới một các thận trọng. Tôi đi về phía nàng nhưng nàng không trông thấy tôi. Nàng đang dõi theo đường phố nhưng lại cố làm ra vẻ như không, cùng một lúc đóng vai lính gác và thần hộ mệnh, trong bộ đồ rất vừa vặn với nàng mà đến lúc bấy giờ tôi mới nhận ra. Trong lúc chờ đợi, tôi còn nhận ra nàng có dùng son. Trong ánh đèn vàng, son ngả màu đen. Tôi nhớ ra trong nước Đức mới, son phấn không được chấp nhận. Phải gọi đến lần thứ ba, Martens mới trả lời.
“Nhà tôi dùng điện thoại.” Anh giải thích, “Trong gần nửa tiếng đồng hồ. Tôi không thể giành máy được.”
“Bây giờ chị ấy ở đâu?”
“Trong nhà bếp. Tôi phải để nhà tôi nói chuyện, anh hiểu chứ?”
“Vâng, tất nhiên. Mọi sự đều êm xuôi. Cảm ơn anh, Rudolf. Hãy quên rằng anh đã gặp tôi.”
“Anh đang ở đâu?”
“Ngoài phố. Cảm ơn, Rudolf. Giờ thì tôi chẳng cần gì cả. Tôi đã gặp cái tôi đang tìm kiếm. Chúng tôi đang đứng bên nhau.” Tôi nhìn Helen qua bức tường bằng kính và muốn gác ống điện thoại.
“Anh đã biết anh sẽ ở lại đâu chưa?” Martens hỏi.
“Tôi nghĩ là biết. Xin anh chớ bận tâm. Hãy quên buổi tối hôm nay đi. Cứ xem như là một giấc mơ ấy thôi.”
“Nếu tôi còn giúp gì được cho anh, xin cứ cho tôi biết.” Anh nói giọng ngập ngừng, “Lúc đầu thì vì tôi quá ngỡ ngàng đấy thôi. Anh hiểu cho chứ?”
“Vâng, Rudolf, tôi hiểu. Nếu cần gì, tôi sẽ báo anh hay.” “Nếu anh muốn ngủ lại đêm tại nhà… ta có thể nói chuyện nhiều hơn.”
Tôi mỉm cười.
“Vâng, để xem. Bây giờ tôi phải gác máy đây.”
“Phải đấy, tất nhiên.” Anh nói nhanh, “Bỏ lỗi cho tôi nghe. Chúc anh mọi điều may mắn, Josef. Thật tình đấy.”
“Cảm ơn anh, Rudolf.”
Tôi bước ra khỏi phòng điện thoại ngột ngạt. Một cơn gió mạnh suýt thổi bay mũ của tôi. Helen chạy ùa đến tôi.
“Ta về nhà ngay thôi. Em đâm ra lây cái thói cẩn thận của anh. Cứ tưởng như có cả trăm con mắt đứng ngoài vùng bóng tối mà nhìn chúng mình vậy.”
“Vẫn còn chị giúp việc cũ đấy chứ?”
“Ai? Lena ấy hả? Chị ấy là do thám của anh em. Anh ấy muốn biết anh có viết thư cho em không. Hoặc là em có viết thư cho anh không.”
“Thế còn người giúp việc hiện nay?”
“Chị này thì điếc và chẳng để ý gì đến những việc em làm. Được một ngày nghỉ cuối tuần là chị ta sung sướng lắm rồi. Chị ấy chẳng nghĩ ngợi gì đâu.”
“Em chưa cho chị ấy đi chứ?”
Nàng mỉm cười là trông nàng thật đẹp.
“Còn phải xem anh có thực ở lại không đã chứ?”
“Em nên cho chị ta đi trước khi anh về nhà.” Tôi nói, “Không nên để chị ta trông thấy chúng mình. Ta không thể đi đến một nơi nào khác sao?”
“Ở đâu?”
“Ừ, ở đâu nhỉ?” Helen bật cười, “Chúng mình như hai đứa trẻ đôi mươi đứng đây mà băn khoăn không biết có thể lén lút gặp nhau tại nơi vào vì cha mẹ nghĩ họ còn quá nhỏ bé. Ta đi đâu được bây giờ? đến Công viên Castle chăng? Tám giờ người ta đóng cửa. Ngồi trên ghế ở công viên thành phố ư? Hay vào một tiệm bánh? Thật mạo hiểm quá!”
Nàng nói có lý. Đây là những chi tiết nhỏ mà tôi không nghĩ đến, bạn cũng thế thôi.
“Phải, đúng thế!” Tôi nói, “Mà chúng ta thì đứng đây như cặp tình nhân đôi mươi.” Tôi nhìn nàng. Nàng hai mươi chín tuổi, song chẳng thay đổi bao nhiêu. Khoảng thời gian năm năm mới đây lướt qua trên nàng như nước đổ lên da hải cẩu, chẳng để lại dấu vết gì. “Thì anh đến đây y như một chàng thiếu niên đôi tám.” Tôi nói, “Thật là nghịch lý hết sức. Nhưng anh chẳng buồn nghĩ tới đâu. Anh cũng không còn nhớ ra là em lấy anh hoặc lấy một người nào khác nữa cơ đấy.”
Nàng không trả lời. Mái tóc nâu của nàng ngời lên trong ánh điện đường.
“Em đi về cho chị giúp việc nghỉ!” Nàng nói, “Nhưng em không thích để anh một mình ngoài phố như thế này. Rất có thể anh sẽ biến đi cũng đột ngột như khi anh đến vậy. Anh đi đâu trong lúc chờ đợi?”
“Nơi mà em đã tìm thấy anh đó. Tại một giáo đường. Anh có thể trở lại ngôi giáo đường lúc nãy. Giáo đường là nơi an toàn, Helen à. Anh đã trở thành chuyên gia về những giáo đường và viện bảo tàng của Pháp, Thụy Sĩ và Ý rồi.”
“Anh nhớ trở lại trong nửa tiếng nữa.” Nàng bảo khẽ, “Anh vẫn còn nhớ mấy cửa sổ ở nhà chúng mình chứ?”
“Anh còn nhớ mà.” Tôi nói.
“Nếu cửa sổ mở một góc tức là an toàn và anh có thể lên được. Nếu thấy đóng, anh hãy đợi để em mở nó đã.”
Tôi vụt nhớ lại những ngày tôi còn thơ ấu, thuở tôi thường chơi trò mọi Da đỏ với Martens. Dạo ấy, tín hiệu chúng tôi dùng là ánh đèn nơi cửa sổ. Lão Shatterhand hoặc Winnetou thì chờ ở bên dưới. Phải chăng cuộc đời tự nó lặp lại? Có gì thực sự có thể tái diễn lại được chăng?
“Tốt!” Tôi nói, và bắt đầu bước đi.
“Anh đi đâu?”
“Anh đi xem thử nhà thờ St. Mary có còn mở cửa không. Nếu trí nhớ không đánh lừa anh thì ngôi giáo đường này là một điển hình thanh cao của lối kiến trúc Gô-tíc. Anh đã học được cách đánh giá những sự vật như thế rồi.”
“Thôi đừng nói năng tầm phào nữa.” Nàng bảo, “Để anh đi một mình cũng đủ khiến em lo lắng rồi.”
“Này, Helen!” Tôi đáp lại, “Anh cũng đã học cách tự lo lấy thân rồi.” Nàng lắc đầu. Nét dũng cảm đã biến đi trên khuôn mặt nàng.
“Thế chưa đủ đâu.” Nàng nói, “Chưa đủ đâu. Em sẽ làm gì đây nếu anh không trở về?”
“Em chẳng làm gì được. Số điện thoại của em vẫn thế, phải không?”
“Vâng.”
Tôi sờ lên vai nàng.
“Helen.” Tôi nói, “Rồi mọi sự sẽ tốt lành thôi em ạ.”
Nàng gật đầu.
“Để em đưa anh đến nhà thờ St. Mary. Em muốn được an tâm là anh đã đến đó.”
Chúng tôi bước đi trong im lặng. Không xa lắm. Helen từ giã tôi, không nói một lời nào. Tôi nhìn theo nàng lúc nàng băng qua bãi chợ cũ. Nàng bước đi nhanh không nhìn lại phía sau. Tôi dừng chân trong bóng tối bên dưới cổng chính. Bên phải là tòa thị chính khuất trong bóng đêm, trừ những khuôn mặt tượng đá thấp thoáng dưới ánh trăng. Năm 1618, kết thúc cuộc chiến tranh Ba mươi năm được tuyên bố trên bực thềm bên ngoài tòa thị chính này. Đến năm 1933 nền Đế chế Ngàn năm cũng được mở đầu tại đây. Tôi thắc mắc không biết có còn được sống để chứng kiến sự loan báo nó kết thúc không! Tôi còn rất ít hy vọng. Tôi không tìm cách bước vào bên trong nhà thờ. Đột nhiên tôi thấy không chịu nổi với cái ý nghĩ phải lẩn trốn. Tôi vẫn còn giữ ý định là phải thận trọng, nhưng từ lúc gặp lại Helen, tôi không còn muốn hành động như con thú bị săn đuổi, trừ trường hợp tôi phải làm như vậy. Tuy thế, ở đây lâu chắc cũng không an toàn, nên tôi bắt đầu lang thang đây đó. Cái thành phố này, trước thì có vẻ nguy hiểm, vừa quen thuộc lại vừa xa lạ, nay bừng sống dậy. Tôi cảm nhận điều này vì bản thân tôi cũng đang hồi sinh. Tôi chợt nghĩ ra rằng cuộc sống vô danh của tôi trong năm năm gần đây, trước dường như trống vắng là thế, tựu trung chỉ là một cuộc chiến đấu để sống còn, thật ra đâu đến nỗi vô dụng. Nó đã nhào nặn con người tôi, và giờ đây, tựa như một đài hoa vừa nở trong đêm, ý nghĩa cuộc sống mà trước đây tôi chưa từng biết đến, vụt bừng sáng trong tôi. Chẳng có gì là lãng mạn cả. Nhưng đây là một điều mới mẻ phấn khích, như thể một đóa hoa miền nhiệt đới màu sắc rực rỡ, to lớn, bằng thép, kỳ diệu vừa xuất hiện trên một cây hoa bình thường vốn chỉ có thể nảy ra vài nụ không ra gì. Tôi ra đến bờ sông, dừng chân trên cầu, và nhìn xuống hàng rào ở mặt nước. Bên trái tôi là một tháp canh thời Trung cổ, nay được dùng làm nhà giặt. Những cửa sổ thắp đèn sáng, và các cô gái vẫn còn làm việc. Ánh đèn tỏa ra khắp mặt sông lấp lánh từng cụm sáng rộng lớn. Bức tường đen đúa phủ đầy cây gia nổi bật trên nền trời cao rộng, và về bên phải trải rộng ra là những khu vườn và bóng ngôi giáo đường. Tôi đứng lặng yên, tâm hồn hoàn toàn bình thản. Chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng sóng nước vỗ bờ và tiếng lao xao của mấy cô gái giặt áo bên sau cửa sổ. Tôi không nghe ra được họ đang nói gì. Tất cả những gì tôi nghe được dường như chỉ là những âm thanh của loài người chưa uốn nặn thành từ ngữ, chỉ là những tín hiệu của sự hiện diện con người, nhưng chưa phải là những từ ngữ hoàn chỉnh dùng làm tín hiệu cho sự dối trá, phản bội, ngu xuẩn, nỗi cô đơn đau nhức đến điên cuồng, những âm bội khó nghe làm biến dạng cái được xem là một giai điệu thuần khiết. Tôi hít thở, và tưởng chừng như tôi đang thở cùng một nhịp với sóng nước ngoài sông. Trong một hồi lâu bất tận, tôi lại còn cảm thấy tôi như là một thành phần của chiếc cầu, rằng nước đang trôi chảy trong tôi cùng với nhịp thở. Cảm nhận này có vẻ tự nhiên quá, và tôi chẳng lấy làm ngạc nhiên. Tôi chẳng suy nghĩ gì nữa. Những ý nghĩ của tôi đã rơi vào vô thức như hơi thở của tôi và sóng nước của con sông. Có ánh đèn che khuất di chuyển nhanh qua hàng cây gia bên trái tôi. Tôi để mắt theo dõi, và tôi lại nghe tiếng nói xôn xao của các cô gái đi giặt áo. Tôi nhận ra là có một lúc tôi đã không nghe thấy tiếng họ. Rồi tôi lại nghe thoảng mùi hoa cây gia theo gió từ bên kia sông đưa sang. Ánh đèn di động vụt tắt và cùng lúc những khung cửa sổ sau lưng tôi tối sầm lại. Trong phút chốc mặt nước đen như mực, rồi tôi trông thấy ánh trăng trước đó bị đèn nhà giặt lấp khuất trải dài thành tia dát bạc lên mặt sông. Giờ chỉ còn lại ánh trăng lung linh dịu dàng muôn vẻ muôn hình chứ không phải là cái thứ ánh đèn vàng vọt, thô thiển trước đó. Tôi chợt liên tưởng đến cuộc đời của tôi, trong đó nhiều năm trước đây ánh sáng đã bị dập tắt, và tôi băn khoăn có thể nào sẽ có vô vàn ánh sáng dịu dàng xuất hiện lại, như ánh trăng lấp lánh ngoài sông kia. Cho đến lúc ấy, tôi chỉ ý thức được sự mất mát của tôi, và tôi chưa có dịp nào để đền bù lại được. Tôi rời chiếc cầu và đi lui tới giữa hai hàng cây tối sẫm trên thành lũy cho đến hết nửa tiếng đồng hồ. Đêm càng về khuya mùi hương hoa gia càng đậm đà hơn, và ánh trăng rải bạc trên mái nhà và tháp chuông. Cứ như là cả thành phố này đang tìm đủ cách trong quyền năng của nó để cho tôi thấy tôi đã dựng đứng lên một màn dối trá rằng tôi chẳng còn hy vọng gì tìm ra một nơi ẩn náu tránh tai họa bất cứ tại đâu, rằng tôi có thể trở về nhà tâm hồn thanh thản sau một chuyến đi vô định, để trở về lại cái tôi như trước. Không cần phải đề phòng chống lại cảm giác đó vì giờ đây trong tôi đã có sẵn cái bản năng cảnh giác lúc nào cũng nhìn tứ phía. Đã rất nhiều lần tôi bị bắt tại Paris, Rome và tại nhiều thành phố khác trong cùng một tâm trạng như hôm nay, đầu hàng trước vẻ đẹp và tự ru mình vào cõi bình an bằng những ảo ảnh của tình yêu, thông cảm và lãng quên. Nhưng bọn cảnh sát thì không bao giờ lãng quên. Ánh trăng và hương cây gia không có quyền phép biến bồ câu mồi nên thánh được. Các giác quan tôi báo động một cách cẩn trọng như đôi cánh dơi. Tôi tìm đường về Quảng trường Hitler. Ngôi nhà nằm ngay góc đường, nơi có con đường đi vào quảng trường. Phố tôi ở trước kia vẫn mang tên cũ. Cửa sổ để mở. Tôi nhớ lại câu chuyện giữa nàng Hero và người tình Leander và câu chuyện cổ tích có chàng hoàng tử và nàng công chúa, theo đó hoàng tử bị chết chìm vì bà nữ tu tắt đèn. Tôi không là hoàng tử, tôi nghĩ thế. Người Đức có rất nhiều chuyện cổ tích hay, tuy nhiên, hay có lẽ cũng chính vì lý do ấy, mà họ có những trại tập trung thảm khốc ghê tởm nhất thế giới. Tôi ung dung băng qua đường, nhưng đây không phải là sông Hellespont[*] mà cũng chẳng phải là một biển phương bắc. Vừa đến cửa vào, tôi thấy có người đi xuống hành lang. Quá muộn để quay lưng lại, tôi cứ tiếp tục bước về phía cầu thang với dáng điệu của người biết rõ nơi mình muốn đến. Đó là một người đàn bà luống tuổi mà trước kia tôi chưa từng gặp. Tim tôi ngừng đập.
Schwarz cười mỉm, đây lại là một khuôn mẫu mà bạn không tin cho đến lúc nào bạn cảm nhận nó.
— Tôi không nhìn quanh quất. Tôi nghe cửa nhà đóng sầm lại, và tôi chạy nhanh lên mấy bậc cầu thang. Cửa vào đóng hờ. Tôi đẩy cửa và gặp Helen.
“Có ai thấy anh không?” Nàng hỏi.
“Có, một người đàn bà lớn tuổi.”
“Không đội mũ chứ?”
“Phải, không mũ.”
“Chắc là bà giúp việc. Phòng bà ở trên gác mái. Em cho bà ấy nghỉ đến chiều thứ hai. Thời gian ấy bà tha hồ mà trang điểm. Bà cứ nghĩ rằng thiên hạ chẳng có việc làm nào khác hơn là việc bình phẩm lối chưng diện của bà.”
“Thôi, em chớ thắc mắc về bà ta nữa.” Tôi nói, “Dẫu có đúng là bà hay không thì bà cũng đã không nhận ra anh. Anh biết ngay nếu có người nào nhận ra mình.”
Helen đem áo mưa và mũ tôi ra cất ở phòng ngoài.
“Đừng để ở đây.” Tôi bảo, “Người ta có thể trông thấy. Cất vào trong tủ đi.”
“Chẳng có ai đến đâu.” Helen nói rồi bước vào phòng khách. Trước khi đi theo nàng, tôi xoay chìa khóa trong ổ.
Trong những năm đầu lưu lạc tha hương, tôi vẫn thường tưởng nhớ đến mái nhà gia đình tôi, và cũng đã tìm cách quên nó đi. Nay trở về đứng dưới mái nhà này, thì tôi lại chẳng cảm nhận gì nhiều. Nó tác động đến tôi cũng y như một bức ảnh một dạo là của tôi và nhắc tôi nhớ lại khoảng thời gian nào đó trong cuộc đời thôi. Tôi đứng ở thềm cửa. Hầu như chẳng có gì thay đổi. Chiếc trường kỷ và mấy cái ghế dựa đã được bọc lại.
“Anh còn nhớ trước kia chúng màu xanh lục cơ mà?” Tôi hỏi.
“Không, màu xanh biển.” Helen nói.
Schwarz quay lại với tôi:
— Sự thật cũng có cuộc sống riêng của chúng, và thật là khủng khiếp khi ta so sánh với cuộc sống của chúng ta.
— Việc gì phải so sánh? Tôi hỏi.
— Thế anh thì không sao?— Có chứ, nhưng bằng cách khác. Tôi chỉ bám vào cái tôi mà thôi. Lúc tôi lâm cảnh đói ở bến tàu, tôi tự so sánh tôi với một cái tôi tưởng tượng, cái tôi này lại mắc chứng ung thư ngoài cái bao tử rỗng. Thế là tôi sung sướng được dăm ba phút vì tôi chỉ đói chứ không bị ung thư.
— Ung thư? Schwarz hỏi và nhìn tôi chăm chú. - Cái gì khiến ông nghĩ đến nó?
— Vâng, tôi cũng có thể nghĩ đến bệnh giang mai hoặc lao, nhưng ung thư nghe có vẻ hợp lý nhất.
— Hợp lý? - Schwarz lại cứ nhìn vào tôi chằm chặp, - Chẳng có gì hợp lý về ung thư cả. Nó là điều không thể nghĩ ra được.
— Đúng thôi. - Tôi nói với giọng hòa giải, - Tôi chỉ lấy nó làm ví dụ thôi.
— Nó chỉ là điều không thể hiểu được. Có thế thôi.
— Về tất cả những chứng bệnh hiểm nghèo thì điều đó cũng đúng thôi, ông Schwarz ạ.
Hắn trầm ngâm gật đầu.
— Ông còn đói chứ? - Một lúc sau hắn lại hỏi.
— Không. Tại sao?
— Thì ông vừa nhắc đến cái đói đó.
— Tôi đã ăn cơm tối đến hai lần kể từ khi cùng ngồi với ông.
Hắn im lặng không nói gì. Sau một hồi, hắn nói giọng điềm tĩnh hơn:
— Mấy chiếc ghế dựa lúc bấy giờ là màu vàng. Chúng đã được bọc vải lại. Đó là tất cả những gì đã xảy ra trong nhà tôi trong năm năm, trong lúc tôi phải chịu bao nhiêu thăng trầm mai mỉa của số phận. Có những việc đời thật phi lý. Ý tôi muốn nói là vậy đó.
— Vâng. - Tôi nói, - Một người chết đi, nhưng cái giường của hắn vẫn còn đó. Căn nhà của hắn vẫn còn đó. Đồ đạc vẫn y nguyên như trước kia. Phải chi ta có thể phá hủy nốt chúng đi!
— Không, nếu đối với chúng ta chúng chẳng có ý nghĩa gì.
— Đúng vậy. Tôi nói, - Mặt khác, sinh mạng con người đâu có quan trọng đến thế?
— Không à? - Schwarz nói, và trên khuôn mặt gã ngước lên nhìn tôi, tôi thấy thoáng nét thống khổ quằn quại, - Không quan trọng à? Không, tất nhiên là không rồi. Nhưng mà này, ông hãy bảo tôi biết, nếu cuộc đời không quan trọng thì nó là cái gì?
— Chẳng là gì cả. - Tôi đáp tuy vẫn nhận thức rõ điều tôi mới nói vừa đúng lại vừa không đúng, - Chính bản thân chúng ta tạo cho sự vật cái tính chất quan trọng.
Schwarz nhấp vội một hớp rượu sẫm.
— Mà tại sao lại không? - Hắn lớn tiếng hỏi, - Hãy nói cách khác tại sao ta không nên khiến chúng trở thành quan trọng?
— Không, tôi không thể giải thích với ông được điều đó. Dẫu sao đó chỉ là một cách nói ngớ ngẩn thôi. Chính tôi đây cũng coi cuộc đời khá quan trọng.
Tôi nhìn đồng hồ. Quá hai giờ sáng ít phút. Ban nhạc đang chơi nhạc khiêu vũ, một bản tăng gô. Những nốt nhạc vắn gọn, nghẽn lại của chiếc kèn nhắc tôi nhớ đến tiếng còi xa xăm của con tàu đang rời bến. Chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là rạng đông, tôi nghĩ thế; đến lúc đó tôi có thể thoát khỏi nơi đây. Tôi sờ lại hai tấm vé trong túi. Chúng vẫn nằm ở đó. Tôi gần như cứ ngỡ là đánh mất chúng rồi. Thứ âm nhạc xa lạ, rượu, căn phòng buông màn, và giọng nói của Schwarz tạo nên cái không khí thẫn thời, hư hư thực thực ấy.
— Tôi vẫn còn đứng ở thềm cửa phòng khách, - Schwarz kể tiếp, Helen nhìn tôi hỏi: “Căn nhà của anh nay xa lạ với anh đến thế sao?”
Tôi lắc đầu bước tới vài bước. Tôi tự nhiên cảm thấy bối rối lạ lùng. Đồ đạc trong phòng dường như vươn tay ra đón nhận tôi, nhưng tôi không còn thuộc về chúng nữa. Mà cũng có thể là tôi cũng không còn là của Helen nữa.
“Mọi cái vẫn như xưa.” Tôi nói nhanh, giọng sôi nổi tuyệt vọng, “Mọi cái vẫn như xưa Helen ạ.”
“Không đâu.” Nàng đáp lại, “Chẳng có gì là như xưa cả. Tại sao anh trở về? Vì cái đó chăng? Thế thì mọi thứ đâu còn là như xưa?”
“Không.” Tôi nói, “Anh biết không thể như thế được. Nhưng ta không sống được trong căn nhà này sao? Những năm tháng ấy giờ đâu cả rồi?”
“Không có đây đâu. Và chúng không nằm trong mớ áo quần cũ chúng ta đã vứt bỏ. Hay là anh nghĩ khác?”
“Không. Anh băn khoăn không cho riêng anh. Những tự thuở nào em vẫn ở đây. Anh băn khoăn vì em đó.”
Helen nhìn tôi một cách lạ lùng.
“Tại sao trước kia anh không bao giờ nghĩ về chuyện đó?” Nàng nói.
“Trước kia?” Tôi chưa hiểu, hỏi lại, “Ý em muốn nói gì? Anh không thể trở về sớm hơn được.”
“Em không muốn nói như vậy. Em muốn nói là trước khi anh bỏ đi kia.”
Tôi thật không hiểu nàng muốn nói gì.
“Thế đáng lẽ ra anh phải hỏi gì, Helen?”
Nàng không trả lời ngay. Rồi nàng nói nhanh:
“Tại sao anh không hỏi em cùng đi với anh?”
Tôi trố mắt nhìn nàng.
“Đi với anh? Rời bỏ mái nhà của em? Bỏ gia đình em? Bỏ tất cả mọi thứ mà em yêu mến?”
“Em căm ghét gia đình em.”
Tôi thật hoàn toàn kinh ngạc.
“Em không biết được bên kia là như thế nào đâu.” Sau cùng tôi thì thầm.
“Thì anh cũng không. Mà đúng vậy”.
“Anh không muốn đưa em rời khỏi nơi đây.” Tôi nói giọng yếu ớt.
“Em cũng căm ghét chốn này luôn.” Nàng đáp, “Em căm ghét mọi thứ ở đây. Tại sao anh trở về?”
“Lúc ấy em đâu có căm ghét như thế này?”
“Tại sao anh trở về?” Nàng nhắc lại câu hỏi. Nàng đứng ở đầu kia phòng, ngăn cách với tôi bằng những chiếc ghế vàng và bằng hơn năm năm. Mặt tôi bừng bừng ác cảm đắng cay. Thời gian tôi bỏ trốn, cung cách cư xử của tôi hoàn toàn tự nhiên. Làm sao tôi có thể lôi cuốn Helen vào những hiểm nguy bất định của một kiếp sống phiêu bạt? Giờ đây tôi mới nhận ra rằng có lẽ tôi đã xúc phạm nàng sâu sắc bằng cách trốn chạy bỏ lại một mình nàng. “Josef, tại sao anh trở về?”
Tôi rất muốn nói rằng tôi đã trở về chỉ vì nàng mà thôi. Nhưng lúc bấy giờ tôi chẳng nói được gì. Chuyện đâu phải dễ gì. Nay tôi đã được thấy điều mà trước kia tôi chưa từng thấy. Điều cuốn hút tôi trở về chính là sự liều lĩnh tuyệt vọng, một sự liều lĩnh trầm lặng mà mãnh liệt. Bao nhiêu nghị lực dự trữ hầu như đã cạn; chỉ nguyên cái bản năng tự bảo toàn trong tôi không đủ mạnh để chịu đựng nỗi cô đơn băng giá lâu hơn được nữa. Tôi không đủ sức xây dựng lại một cuộc đời mới. Tự trong thâm tâm, thực tình tôi cũng không bao giờ muốn thế, bởi chưa bao giờ tôi thực sự gạt bỏ cuộc sống trước kia của tôi về phía sau. Tôi không quên được nó, tôi không khuất phục nó được. Bệnh hoại thư đã ăn sâu vào rồi, và tôi phải lựa chọn. Tôi có thể để thân tôi thối rữa, hoặc trở về và tìm cách bình phục lại. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến tất cả những điều này, và cho đến bây giờ nó mới chỉ sáng tỏ một nửa đối với tôi, nhưng hiểu ra được như thế cũng đã là một niềm an ủi to lớn cho tôi rồi. Tôi không còn cảm thấy bị đè nén, bối rối nữa. Bây giờ tôi hiểu tại sao tôi có mặt tại đây. Từ sau năm năm lưu lạc tôi chỉ đem theo mình cái cảm quan bén nhạy, lòng ham muốn sống, sự thận trọng cùng mớ kinh nghiệm của một tên tội phạm lẩn tránh. Xét về các mặt khác, tôi là kẻ bị phá sản. Những đêm dài trong vùng đất phi quân sự giữa hai làn biên giới, nỗi buồn tẻ ác liệt của một cuộc sống chỉ để giành giật một chút ít lương thực và một vài giờ ngủ, nếp sống chui rúc của loài chuột nhủi. Tất cả những thứ đó biến đi mất rồi khi tôi đứng trên thềm nhà tôi. Tôi là kẻ phá sản, nhưng ít ra tôi không nợ nần gì. Tôi được tự do. Đây không phải là một sự trở về. Khi tôi vượt biên giới thì cái tôi của những năm ấy đã tự sát chết rồi. Một cái tôi khác đang sống và đó là một món quà nó chẳng đòi hỏi trách nhiệm.
Nói xong, Schwarz quay lại hỏi tôi:
— Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ? Tôi cứ nhai đi nhai lại mấy ý nghĩ ấy và nói năng đầy mâu thuẫn.
— Tôi nghĩ là tôi hiểu ông. - Tôi đáp, - Khả năng tự sát là một phúc lành đấy, dẫu ít khi ta đánh giá nó đúng. Nó cho ta cái ảo giác là ý muốn ta được tự do. Và có lẽ ta tự sát thường hơn ta vẫn tưởng. Có điều là ta không biết đó thôi.
— Đúng thế đấy! - Schwarz sôi nổi tán thành, - Phải chi ta hiểu như thế cũng là tự sát thì chúng ta có thể vùng dậy từ kẻ chết. Và ta sẽ có rất nhiều cuộc sống thay vì kéo lê mớ kinh nghiệm lở loét từ cơn khủng hoảng kế tiếp để rồi kết cuộc phải gục ngã vì chúng. Tất nhiên tôi không thể giải thích điều đó với Helen. - Hắn nói tiếp. - Mà tôi cũng chẳng cần làm như vậy. Bỗng nhiên tôi cảm thấy người thênh thang tới mức thấy chẳng cần phải giải thích gì cả. Trái lại, tôi nghĩ mọi sự giải thích chỉ làm cho rối rắm thôi. Có lẽ nàng muốn tôi nói với nàng tôi trở về là vì nàng. Nhưng do trực cảm bên trong tôi biết như vậy là tôi tan nát ngay. Quá khứ sẽ vỡ nát trên chúng tôi cùng với những oán trách, với mọi tội lỗi của nó, với những cơ hội đã đánh mất và tình yêu bị thương tổn và chúng tôi sẽ không bao giờ tìm được lối thoát. Nếu ý tưởng về sự tự sát tinh thần này, một ý tưởng mà bây giờ đâm ra có vẻ vui nhộn, cần có một ý nghĩ nào đó, thì nó phải hoàn chỉnh. Nó phải bao gồm không những là mấy năm tha hương, mà phải tính cả những năm trước đó, nếu không thì một bệnh hoại thư thứ hai, có khi còn lâu năm hơn bệnh cũ, sẽ bộc phát. Helen đứng đó như là một kẻ thù, sẵn sàng lao vào người tôi với tất cả yêu thương và với một ý thức chính x?