Chương 7 -
Buổi sáng tôi gọi điện về khách sạn ở Munster. Tôi có để lại chiếc va li ở đấy và giải thích rằng vì có việc phải ở lại Osnabruck nên đến tối tôi mới về, nhờ họ giữ phòng cho tôi. Cần phải đề phòng trước. Tôi không muốn bị báo cáo tình nghi là tìm cách quịt tiền phòng trọ và gặp cảnh sát chờ đón tôi. Một giọng hờ hững đáp vâng, dĩ nhiên, họ sẽ giữ phòng cho tôi. Tôi hỏi có thư từ gì cho tôi không. Không, chẳng thư từ gì cả. Tôi gác máy. Helen đang đứng sau lưng tôi.
“Thư từ?” Nàng hỏi, “Anh trông tin ai thế?”
“Chẳng trông tin ai cả. Anh bảo thế chỉ để ngăn ngừa sự ngờ vực. Dẫu sao đi nữa thì những kẻ mong chờ cũng không bị xem như kẻ lường gạt.”
“Anh là kẻ lừa đảo sao?”
“Một cách bất đắc dĩ. Nhưng trong ấy cũng có đôi chút thích thú.”
Nàng cười:
“Đêm nay anh trở về Munster?”
“Anh không thể ở lại lâu hơn. Người giúp việc của em ngày mai sẽ đến. Mà đăng ký phòng khách sạn tại Osnabruck thì liều lĩnh quá. Ở Munster chẳng ai ngoài đường nhận ra anh đâu, vả lại chỉ một giờ đường là đến nơi.”
“Anh định ở lại Munster bao lâu?”
“Đến khi về tới đó anh mới biết. Khi lâm nguy thường có một thứ giác quan thứ sáu giúp ta.”
“Ở đây anh có đánh hơi thấy tai họa không?”
“Có,” Tôi đáp, “Mới từ sáng nay thôi. Hôm qua anh chẳng thấy gì.”
Nàng cau mày:
“Dĩ nhiên anh không nên đi ra phố.”
“Không nên trước khi trời tối. Và từ lúc đó chỉ được lộ diện trên đường đến nhà ga thôi.”
Helen chẳng bàn thêm gì nữa.
“Mọi sự sẽ tiến triển tốt đẹp thôi.” Tôi trấn an. “Em đừng lo nghĩ vẩn vơ. Anh đã quen sống từng giờ, nhưng không phải là quên nghĩ đến ngày hôm sau.”
“Thế ạ?” Nàng hỏi, “Thế thì cũng tiện.”
Trong câu nói nghe có chút phiền muộn trái ý như tối hôm trước.
“Không phải chỉ có tiện thôi đâu,” Tôi nói, “Nó còn là cần thiết nữa. Nhưng có như thế đi nữa thỉnh thoảng anh cũng quên việc này, việc nọ. Lúc rời Munster, đáng lẽ anh nên đem theo dao cạo. Về đêm anh trông như kẻ du thủ du thực. Theo cẩm nang của dân tị nạn, đó là điều cần phải tránh trước tiên.”
“Trong phòng tắm có dao cạo đấy, “Helen nói. “Cũng cái dao anh để lại cách đây năm năm. Trong đó anh cũng sẽ thấy mấy cái sơ mi và đồ lót. Còn đồ bộ của anh thì mắc trong tủ ấy.”
Nàng nói năng như thể tôi đã bỏ nàng năm năm trước đây để đi theo một người đàn bà khác, nay trở về một mình lấy đồ đạc rồi lại ra đi. Tôi không buồn xếp đồ đạc lại cho ngăn nắp. Chẳng ích gì. Rồi thì nàng cũng chỉ ngạc nhiên mà nhìn tôi thôi và nàng cũng chỉ bảo rằng một ý nghĩ như thế không hề thoáng qua trong óc nàng, nếu không phải là nàng muốn biết tôi cảm nhận như thế nào thôi… và rồi tôi có thề bị lôi cuốn vào một cuộc cãi vã vô nghĩa. Nghĩ thật kỳ lạ, chỉ muốn che đậy cảm nghĩ của ta mà ta phải khiến sự việc trở thành phức tạp đến thế! Tôi đi vào phòng tắm. Trông thấy mấy bộ áo quần cũ treo trong tủ cũng chẳng ảnh hưởng gì đến tôi hơn là khi bảo tôi đã gầy hơn trước nhiều. Tôi mừng khi tìm thấy một ít đồ lót sạch sẽ và quyết định sẽ lấy mang theo khi ra đi. Tôi chẳng thấy cảm xúc gì. Từ lâu tôi đã quyết định cứ xem cuộc sống lưu đày này không phải là nỗi bất hạnh mà chỉ là một thứ chiến tranh lạnh cần cho sự phát triển của bản thân. Đôi khi cái quyết định ấy cũng tỏ ra có ích cho tôi. Ngày trôi qua trong ánh hoàng hôn mông muội. Giờ ra đi gần kề khiến hai chúng tôi buồn nản, chán chường, nhưng tôi từng quen với tâm trạng này hơn Helen. Kinh nghiệm đời đã chuẩn bị cho tôi để đón nhận nó, nhưng với Helen ý nghĩ tôi sửa soạn ra đi lần nữa đến với nàng như một sự lăng mạ dành riêng cho nàng. Trước khi nàng có đủ thời gian để vượt qua cơn xúc động lúc tôi trở về và để cho vết thương tự ái kịp hàn gắn lại, thì đã đến lúc tôi sắp sửa từ giã nàng. Với hai chúng tôi cảm ứng đêm qua đã thấm sâu vào tâm tưởng, triều xúc cảm đã lắng xuống để lộ ra những mảnh vỡ, những vụn vặt khoác vào những kích thước đồ sộ. Chúng tôi lại còn tránh không chạm đến những điểm nhạy cảm của nhau, đã đánh mất thói quen chịu đựng lẫn nhau. Tôi muốn được ở yên một mình trong một tiếng đồng hồ để lấy lại bình tĩnh, nhưng khi sực nhớ ra một tiếng đồng hồ là một phần mười hai của khoảng thời gian còn lại được sống với Helen, tôi lại bỏ ý nghĩ ấy. Trước kia, vào những năm yên ổn, thỉnh thoảng tôi cũng tìm vui bằng cách tự hỏi tôi sẽ làm gì nếu tôi chỉ còn một tháng để sống. Tôi chưa bao giờ tìm được một kết luận dứt khoát. Do một sự mâu thuẫn lạ lùng, điều tôi nghĩ nên làm trong giả thiết đó thì đồng thời đó cũng là điều lẽ ra tôi không nên làm trong mọi trường hợp. Tâm trạng tôi lúc bấy giờ cũng như thế đó. Thay vì sống trọn vẹn ngày hôm ấy, sống cởi mở bằng tất cả con tim, thay vì rung cảm với Helen bằng mọi thớ thịt của mình, như tôi hằng mong ước, tôi lại rón rén quanh quất trong phòng y như người tôi làm bằng thủy tinh vậy. Dường như nàng cũng đang gặp cơn bấn loạn đó. Chúng tôi đau khổ, cả hai đều căng thẳng tột cùng, và chỉ đến lúc ánh sáng mờ dần, nỗi lo sợ phải mất nhau trở nên mãnh liệt, đến lúc đó chúng tôi mới trở lại với nhau.
Đến bảy giờ chuông cửa reo. Tôi giật bắn người. Với tôi chuông cửa có nghĩa là cảnh sát.
“Ai thế?” Tôi hỏi thầm.
“Cứ bình tĩnh để xem, “Helen nói, “Chắc là một người bạn nào đó thôi. Nếu em không trả lời, họ sẽ bỏ đi thôi.”
Chuông lại reo. Tiếp theo là tiếng đập cửa ầm ầm, hách dịch.
“Vào phòng ngủ đi anh,” Nàng bảo khẽ.
“Ai thế?”
“Em chẳng biết. Anh cứ vào phòng ngủ đi. Em sẽ kiếm cách tống khứ nó. Nếu cứ đập ầm ầm mãi thế này, hẳn sẽ quậy mấy người lối xóm lên cho mà xem.”
Nàng đẩy tôi ra. Tôi đảo mắt nhìn quanh quất xem có thứ gì của tôi còn vương vãi đâu đó không. Tôi nghe Helen hỏi: “ Ai đó?” Và có tiếng đàn ông trả lời. Rồi tiếng Helen nói: “À anh. Có chuyện gì thế?” Tôi đóng cửa lại. Căn hộ còn có một lối ra thứ hai qua nhà bếp nhưng tôi có thể bị người ta trông thấy. Điều duy nhất tôi có thể làm là trốn vào tủ áo xây chìm trong vách nơi Helen cất giữ áo quần. Thật ra không phải là cái tủ mà là một cái hốc tường lớn có cửa. Tôi có thể thở được dễ dàng. Tôi nghe tiếng người đàn ông cùng với Helen bước vào phòng khách. Tôi nhận ra giọng nói của y. Đó là Georg, người anh của nàng, người đã đưa tôi vào trại tập trung. Tôi nhìn lên bàn trang điểm của Helen. Vũ khí độc nhất có thể dùng đến được là con dao cắt giấy cán bằng ngọc. Tôi chẳng thấy gì khác. Vẫn tiếp tục suy tính cân nhắc, tôi cho con dao vào túi rồi lại chui vào tủ áo. Nếu y phát hiện ra tôi, tôi sẽ phải tự vệ. Không còn cách nào cả. Tôi sẽ thử cách giết hắn rồi bỏ trốn.
“Điện thoại hả?”
Tôi nghe tiếng Helen nói: “Em có nghe gì đâu. Lúc đó em đang ngủ. Có gì không anh?” Rồi hắn kể tiếp cũng giọng điềm tĩnh như thế:
— Helen đi lấy chiếc xe của cô bạn. Tôi đợi một mình ở nhà. Đêm đã xuống rồi, và các cửa sổ đều mở. Tôi tắt hết đèn đóm để người ta tưởng không có ai ở nhà. Nếu có ai bấm chuông, tôi sẽ không trả lời. Nếu Georg trở lại, tôi sẽ đi ra bằng lối cửa sau, nếu cần.
Tôi ngồi gần nửa tiếng đồng hồ bên cửa sổ, lắng nghe tiếng động ngoài đường, lòng tràn ngập một cảm giác man mác bao la. Cảm giác chẳng đau đớn gì, nó như cái bóng đen từ từ trải rộng ra bao trùm nguyên quả đất rồi nuốt chửng cả chân trời. Và giữa chốn hoang vu vắng lặng đó, tôi như thấy một cái cân, bên này là cái quá khứ trống rỗng, bên kia là cái tương lai mịt mờ, và Helen đứng giữa, bóng của hai đĩa cân vắt qua vai nàng. Tưởng như tôi đã đến điểm giữa cuộc đời; đến trạm kế tiếp là cân nghiêng, nghiêng về phía tương lai màu xám xịt, và không bao giờ tìm lại được thế thăng bằng. Tiếng ôtô đánh thức tôi dậy. Tôi thấy Helen bừng sáng lên trong ánh điện đường rồi mất hút trong lối vào. Tôi đi qua căn phòng tối tăm chết chóc và nghe tiếng chìa khóa tra vào cửa. Nàng vội vã bước vào.
“Giờ ta có thể đi được rồi,” Nàng nói, “Anh cần về Munster lắm sao?”
“Anh để va li ở đó. Anh đã đăng ký phòng dưới cái tên Schwarz rồi. Anh còn đi đâu được nữa?”
“Thì anh cứ thanh toán tiền phòng rồi tìm một khách sạn khác.”
“Ở đâu?”
“Phải, ở đâu nhỉ?” Helen đắn đo, “Thì cũng ở Munster thôi.” Sau cùng nàng nói, “Anh có lý. Còn nơi nào khác nữa đâu? đó là nơi gần nhất.”
Tôi xếp vào va li một ít đồ đạc phòng có khi dùng đến. Chúng tôi quyết định là tôi không nên lên xe ngay trước cửa nhà mà sẽ lên xe ở dưới phố tại quảng trường Hitler. Helen sẽ mang theo va li đi trước. Tôi ra đến phố mà không ai thấy. Một ngọn gió ấm nổi lên. Hàng cây lao xao trong bóng đêm. Tới quảng trường thì Helen theo kịp tôi.
“Lên xe đi. Nhanh lên.” Nàng bảo nhỏ.
Đó là một chiếc ô tô mui trần cửa đóng kín. Ánh đèn ở bảng đồng hồ chiếu rọi lên mặt nàng. Đôi mắt long lanh.
“Em sẽ lái cẩn thận hơn,” Nàng nói, “Một tai nạn xảy ra là cảnh sát đến ngay thôi. Chỉ còn có thế nữa!”
Tôi không đáp lại. Kẻ tị nạn không nói đến thứ chuyện như vậy, có thể mời gọi tai họa đến. Helen cười, tiếp tục lái xe chạy dọc theo bờ lũy. Toàn thân nàng căng thẳng như làm việc này là cả một cuộc mạo hiểm.
Nàng cứ lảm nhảm độc thoại hoặc nói với chiếc xe. Khi nàng phải dừng xe gần viên cảnh sát giao thông, nàng thì thầm cầu nguyện, và lúc đèn đỏ bật, nàng cầu xin nó: “Quay sang vòng đi. Bật xanh lên đi. Còn chờ gì nữa?” Thái độ trẻ con thiếu nghiêm chỉnh của nàng làm tôi ngạc nhiên. Với tôi đó là giờ cuối cùng của cả hai. Tôi không rõ nàng đã quyết định gì. Đến lúc ra khỏi thành phố, nàng bình tĩnh trở lại.
“Anh tính chừng nào rời Munster?” Nàng hỏi.
“Anh không biết nữa. Anh chẳng biết đi đâu. Chỉ biết anh không thể ở lâu được. Đâu phải cứ gặp vận may mãi thế này. Rồi thì cũng đến lúc thôi. Hết thời là biết ngay. Bây giờ anh biết rồi đấy. Thôi ngày mai vậy.” Tôi nói.
Trong một lúc, nàng chẳng nói gì. Rồi nàng hỏi:
“Anh tính xoay xở ra làm sao đây?”
Lúc ngồi một mình trong phòng khách tôi đã suy nghĩ chuyện này rất kỹ. Đáp tàu lửa rồi đến biên giới xuất trình hộ chiếu thì quá nguy hiểm. Rất có thể họ hỏi tôi các thứ giấy tờ khác, chẳng hạn dấu xuất cảnh, giấy chứng nhận thuế di trú, toàn những thứ giấy tôi không hề có.
“Thì cũng bằng cách như anh đến.” Tôi nói, “Qua nước Áo. Vượt sông Rhin vào đất Thụy Sĩ ban đêm.” Tôi quay về phía Helen, “Thôi đừng bàn đến chuyện ấy. Hãy nói càng ít càng tốt.”
Nàng gật đầu.
“Em có đem theo ít tiền đây. Chắc anh sẽ cần đến. Nếu anh qua biên giới một cách lén lút, anh có thể đem theo. Có thể đổi ở Thụy Sĩ chứ?”
“Được. Còn em, em không cần đến sao?”
“Em không mang theo được. Đến biên giới em sẽ bị kiểm tra ngay. Ta chỉ được phép mang ra ngoài một ít đồng mark thôi.”
Tôi há hốc miệng nhìn nàng. Nàng đang nói gì kia? Chắc nàng nói lỡ lời.
“Có bao nhiêu đấy?” Tôi hỏi.
Nàng nhìn tôi thật nhanh.
“Không ít như anh nghĩ đâu. Em dành dụm cách đây đã lâu. Tiền trong túi xách ấy.”
Nàng với chiếc xách nhỏ bằng da.
“Hầu hết là giấy bạc một trăm đồng. Nhưng cũng có một xấp loại hai mươi đồng, để xài tại Đức. Anh khỏi phải đổi giấy lớn. Anh cầm đi. Dẫu sao thì cũng là tiền của anh mà.”
“Bọn Quốc xã đã tịch thu tiền của anh gửi ở ngân hàng sao?”
“Vâng, nhưng cũng không kịp. Em đã rút khoản tiền này ra trước rồi. Một nhân viên ngân hàng giúp em. Em muốn giữ nó cho anh. Em cũng sắp sửa gửi đi cho anh, nhưng em đâu biết anh ở đâu.”
“Anh không viết thư cho em vì nghĩ em đang bị theo dõi. Anh không muốn họ cũng đưa em vào trại tập trung.”
“Đó không phải là lý do độc nhất.” Nàng bình tĩnh nói.
“Không, có thể không phải như thế.”
Chúng tôi đi qua một khu làng với những nhà kiểu Westphalia mái lợp tranh và đòn tay bằng gỗ đen. Từng đám thanh niên đi khệnh khạng đó đây. Từ một quán rượu bia vọng ra ầm ĩ bài ca Horst Wesset.
“Sắp sửa có chiến tranh.” Helen nói, “Vì thế mà anh trở về?”
“Sao em biết sắp có chiến tranh?”
“Georg nói. Vì thế mà anh trở về phải không?”
Tôi mãi băn khoăn vì sao nàng cứ muốn biết điều đó lúc mà tôi lại sắp sửa ra đi lần nữa.
“Đúng thế. Đó là một lý do.”
“Anh về để đưa em đi?”
Tôi nhìn nàng sửng sốt.
“Trời đất! Helen à,” Sau cùng tôi nói, “Em đừng nói như thế. Em không thể tưởng tượng bên kia là như thế nào đâu. Đâu phải là trò bông đùa. Và nếu chiến tranh nổ ra, lại còn khủng khiếp gấp mấy lần nữa. Những người có quốc tịch Đức bị nhốt lại ngay.”
Xe chúng tôi ngừng ở một ngã tư đường dốc. Bên ngoài căn nhà nhỏ của người gác cổng, là một mảnh vườn nhỏ trồng đầy hoa thược dược và hoa hồng. Những ống đồng treo ở cổng reo lên trong gió như những dây đàn hạc. Nhiều xe khác dừng lại phía sau chúng tôi: một chiếc Opel nhỏ chở bốn người đàn ông to béo vẻ bệ vệ, một chiếc hai chỗ ngồi trong có một người đàn bà lớn tuổi, rồi một chiếc xe hòm hiệu Mercedes đen trông rất giống chiếc xe tang lặng lẽ trườn tới cạnh chúng tôi. Người lái xe mặc bộ đồng phục SS màu đen, có hai sĩ quan SS mặt tái xanh ngồi ghế sau. Xe đỗ sát chúng tôi đến mức tôi có thể thò tay vào trong được. Đoàn tàu lửa còn lâu mới tới. Helen im lặng ngồi cạnh tôi. Chiếc Mercedes mạ kền bóng loáng lướt nhẹ tới trước đến lúc bộ tản nhiệt gần chạm cổng. Trông nó quả thật là giống chiếc xe tang chở hai xác chết, như biểu tượng của cuộc chiến tranh chúng tôi vừa đề cập tới. Những đồng phục đen, những bộ mặt xác chết, những phù hiệu sọ người trên hai xương chéo, chiếc xe đen đúa và cái khoảng im lặng như chẳng còn phảng phất mùi hoa hồng, mà chỉ còn mùi cây thường xanh và mùi thối rữa. Đoàn tàu ào ào chạy qua như dòng cuộc sống. Đó là tàu tốc hành với những toa giường nằm và một toa ăn, đèn sáng rực rỡ có thể trông thấy cả những khăn trải bàn trắng tinh. Khi cây chặn cổng được kéo lên, chiếc Mercedes đâm bổ tới trước các xe khác và biến dạng vào bóng đêm, y như quả ngư lôi đen đủi khiến màn đêm đen tối thêm và cây cối hai bên đường trông như những bộ xương.
“Em đi với anh.” Helen nói.
“Cái gì? Em nói gì vậy?”
“Tại sao không?”
Nàng ngừng xe lại. Im lặng trùm lên chúng tôi, choáng váng như một đòn lặng lẽ bất ngờ, rồi chúng tôi lại nghe những âm thanh của đêm tối.
“Tại sao?” Helen lặp lại, “Anh sắp sửa bỏ em một lần nữa chứ gì?”
Trong vùng ánh sáng xanh của đèn bảng đồng hồ, trông nàng tái xanh như hai viên sĩ quan trong xe kia, như thể tử thần lảng vảng trong đêm tháng sáu ấy đã đánh dấu nàng. Trong lúc đó tôi ý thức rõ ràng là tôi thật tình sợ hãi đến tận cùng sâu thẳm rằng chiến tranh sẽ ngăn cách chúng tôi, chúng tôi sẽ không bao giờ gặp nhau lại khi chiến tranh chấm dứt, bởi vì dẫu với một mức độ lạc quan cao nhất ta cũng không thể trông mong vào một sự may mắn dành riêng cho mình sau trận động đất hủy diệt tất cả như thế được.
“Nếu không phải anh về để đem em đi thì việc anh trở về là một tội ác, anh không hiểu ra điều đó sao?” Helen nói, bỗng nhiên khích động trong cơn thịnh nộ.
“Anh hiểu chứ!” Tôi trả lời.
“Thoái thác, lấp lửng phỏng có ích gì?”
“Anh đâu có thoái thác. Nhưng em không biết việc sẽ như thế nào đâu.”
“Thế còn anh? Tại sao anh trở về? Đừng dối em. Trở về để rồi lại từ giã nhau nữa sao?”
“Không.”
“Thế tại sao? Ở lại đây để rồi đi đến chỗ tự sát?”
Tôi lắc đầu. Tôi biết chỉ có một câu trả lời là nàng hiểu được, câu trả lời độc nhất có thể đưa ra lúc đó, còn gì khác chỉ là một giấc mơ phù dung.
“Anh về để đưa em đi,” Tôi nói, “Em chưa hiểu điều đó sao?”
Sắc diện nàng thay đổi ngay. Cơn giận đã qua. Trông nàng thật đẹp.
“Vâng, em hiểu,” Nàng thì thầm, “Nhưng anh cũng nên nói em biết chứ.”
Tôi thu hết can đảm.
“Anh sẽ nói với em trăm ngàn lần như thế, Helen ạ. Anh muốn nói với em như thế từng phút từng giây, đó là điều anh mong muốn nhất trên đời, dẫu rằng không thể nào được.”
“Chẳng có gì là không thể được. Em có giấy hộ chiếu.”
Trong một lúc tôi chẳng nói gì. Cái từ ấy vụt bùng lên như tia chớp trên mớ suy nghĩ hỗn độn của tôi.
“Em có hộ chiếu? Có giá trị để đi nước ngoài?”
Helen mở xách tay lấy ra tấm giấy hộ chiếu. Chẳng những nàng có, mà nàng còn mang theo mình. Tôi nhìn vào tấm hộ chiếu, như người ta nhìn vào cái Chén thánh[*]. Tấm hộ chiếu có giá trị như thế đó. Ngay tức khắc nó là một lời tuyên bố và là một quyền lợi.
“Em có từ lúc nào?” Tôi hỏi.
“Em xin được cách đây hai năm.” Nàng nói, “Còn giá trị trong ba năm nữa. Em đã dùng đến nó ba lần, một lần đi Áo lúc nước này còn độc lập và hai lần đi Thụy Sĩ.”
Tôi lật xem từng trang. Tôi phải tự trấn tĩnh lại. Sự thật đã rõ ràng. Tập giấy tôi cầm trong tay đích thực là giấy hộ chiếu. Nay việc Helen rời nước Đức không còn gì là khó khăn nữa.
“Thật là đơn giản, phải không anh?” Nàng nhìn tôi, hỏi.
Tôi gật đầu ngớ ngẩn.
“Em chỉ cần lên tàu và ra đi thôi.” Tôi lại nhìn tấm hộ chiếu, “Nhưng em không có dấu nhập cảnh của Pháp.”
“Đến Zurich họ sẽ cho em. Không cần dấu ấy nếu ta chỉ qua Thụy Sĩ.”
“Đúng thế thật. Nhưng còn gia đình em thì sao? Họ có chịu để em đi không?”
“Em sẽ không hỏi họ. Và em cũng chẳng nói với họ gì cả. Em chỉ nói em đi Zurich để gặp một bác sĩ. Mấy lần trước em cũng làm như thế.”
“Em ốm à?”
“Dĩ nhiên là không?” Helen nói, “Em nói thế để có giấy hộ chiếu ra khỏi đây. Em cố giấu họ mà.”
Tôi chợt nhớ ra đã có lần Georg hỏi nàng đã gặp bác sĩ chưa.
“Em chắc là không ốm chưa?” Tôi lại hỏi nàng.
“Đừng ngờ nghệch nữa. Nhưng gia đình em tin là em ốm. Em đã làm họ tin như thế. Có thế em mới yên thân được. Và rời khỏi nước này. Martens có giúp em. Phải mất nhiều thì giờ mới thuyết phục được một phần trăm người Đức rằng ở Thụy Sĩ có thể có chuyện gia lành nghề hơn tại Berlin.” Helen bật cười. “Trông anh có vẻ lo lắng quá. Chẳng có gì nguy hiểm đâu. Em sẽ không lẩn tránh đám tuần cảnh ngay giữa ban đêm đâu. Em sẽ bảo em cần gặp bác sĩ ở Zurich và rồi đáp xe lửa, y như em đã làm lần trước, thế thôi. Và nếu anh có ở đó, sao ta lại không gặp nhau nhỉ? Anh nghe được hơn không?”
“Được đấy.” Tôi nói, “Nhưng tốt hơn là ta cứ tiếp tục đi bằng ô tô. Sự thể bắt đầu trông có vẻ ngon lành quá, anh chỉ ngại một lúc nào đó có cả một đại đội lính SS ở đâu trong rừng ùa ra thôi. Anh không bao giờ tưởng tượng sự việc lại đơn giản như thế.”
“Anh yêu.” Nàng dịu dàng nói, “Sự thể trông đơn giản vì ta tuyệt vọng. Đó cũng là một thứ luật bù trừ kỳ lạ. Em không biết có phải luôn luôn như vậy không.”
“Anh mong chúng ta sẽ không bao giờ hiểu ra điều đó.”
Chúng tôi rời bỏ con lộ vắng vẻ đầy bụi để trở ra xa lộ.
“Em thấy thế này là ổn rồi.” Helen nói, chẳng lộ vẻ gì là thất vọng cả. “Dường như em đã sẵn sàng để cứ tiếp tục sống như thế này.”
Nàng cùng đến khách sạn với tôi. Có điều đáng ngạc nhiên là nàng thích ứng với hoàn cảnh của tôi thật nhanh.
“Em sẽ cùng vào với anh,” Nàng bảo, “Một người đàn ông đơn độc lúc nào trông cũng khả nghi hơn.”
“Em học nhanh đấy.”
Nàng lắc đầu.
“Em học điều đó cách đây lâu lắm rồi. Sau ngày đất nước vùng dậy, chung quanh em người ta bắt đầu tố cáo lẫn nhau. Tưởng như có ai nhấc tảng đá lớn lên, thế là đàn sâu bọ chạy ùa ra. Sau cùng họ tìm ra đủ thứ lời lẽ cao xa để giải thích thái độ đê tiện của mình. Sự hèn mạt đã khoác vào một bộ mặt khác.”
Người quản lý khách sạn đưa cho tôi chìa khóa phòng và tôi đi vào. Helen chờ tôi nơi hành lang. Va li của tôi vẫn còn để trên giá bên cạnh cửa phòng. Tôi nhìn quanh gian phòng trống vắng, lạnh lẽo và cố nhớ lại tôi đã đến đây bằng cách nào, nhưng ký ức tôi đã nhạt nhòa rồi. Tôi chợt hiểu tôi không còn trốn tránh trên bờ sông nào đó nữa, vì mất hết hy vọng qua được sông. Tôi đang ở trên mảng bè, và chẳng phải đơn độc. Tôi đặt chiếc va li mang theo xuống và vội trở ra hành lang.
“Em có được bao nhiêu thời giờ?” Tôi hỏi Helen.
“Em phải trả xe đêm nay.”
Tôi nhìn nàng. Tôi thèm muốn nàng quá chừng đến nỗi trong một chốc chẳng nói được gì. Tôi nhìn những chiếc ghế màu xanh bày trong hành lang, nhìn vào phòng nhận khách sáng rực ánh đèn với giá móc chìa khóa và thùng thư đặt phía sau, hiểu rằng không thể đưa Helen vào phòng được.
“Ta có thể dùng bữa với nhau,” Tôi nói, “Cứ làm như ta sẽ còn gặp lại nhau ngày mai.”
“Ngày mai không được đâu,” Helen cãi lại, “Phải ngày kia.”
Ngày kia! Với nàng có lẽ từ này có một ý nghĩa nào đó. Với tôi thì nó cũng như là “không bao giờ” hoặc một tấm vé số chẳng chút may mắn nào. Tôi đã từng trải qua không biết bao nhiêu “ngày kia” rồi và rốt cuộc lại thực tế khác hẳn điều tôi mong mỏi.
“Hừm, ngày kia,” Tôi nói, “Hoặc là ngày kia nữa. Tùy theo thời tiết. Thôi, đừng nghĩ đến chuyện đó nữa.”
“Em không thể nghĩ đến việc gì khác.” Helen nói.
Chúng tôi đi đến Domkeller, một cửa hàng ăn uống trần thiết theo lối Gô-tic Đức và tìm được một chỗ ngồi mà câu chuyện giữa chúng tôi không thể bị nghe lỏm được. Tôi gọi chai rượu vang và chúng tôi bàn tính vào chi tiết. Ngày hôm sau, Helen sẽ đi Zurich và đợi tôi tại đó. Tôi sẽ qua Thụy Sĩ cũng bằng đường cũ, qua nước Áo rồi vượt sông Rhin, rồi tìm gặp nàng khi đến Zurich.
“Nhưng nếu anh không đến đó được thì sao?” Nàng hỏi.
“Trong nhà giam Thụy Sĩ ta được phép viết thư. Em hẵng chờ một tuần. Sau đó nếu không nhận được tin anh, em hãy trở về nước.”
Mắt nàng dừng lại trên tôi hồi lâu. Nàng hiểu ý tôi muốn nói gì rồi. Trong nhà giam của Đức, không được quyền trao đổi thư từ.
“Biên giới canh phòng có kỹ không?” Nàng hỏi.
“Không.” Tôi đáp, “Mà em cũng đừng lo gì chuyện ấy. Anh vào được, sao lại ra không được?”
Chúng tôi không muốn nghĩ đến buổi chia tay này nhưng nào có được. Nó cứ sừng sững giữa chúng tôi như thân trụ đen to lớn. Điều tốt nhất chúng tôi có thể làm lúc đó là nhìn sâu vào tận đáy mắt đầy phiền muộn ưu tư của nhau mà đếm thời gian trôi qua.
“Giống hệt như cách đây năm năm,” Tôi nói, “Chỉ khắc một điều là lần này cả hai chúng ta cùng đi.”
Helen lắc đầu.
“Xin anh hãy cẩn thận!” Nàng nói, “Vì Chúa, xin anh hãy cẩn thận. Em sẽ chờ. Chờ hơn cả một tuần. Anh muốn em chờ bao lâu bao nhiêu cũng được, chứ anh đừng liều mạng.”
“Anh sẽ cẩn thận. Thôi, đừng bàn đến chuyện ấy nữa. Cẩn thận cũng chẳng được gì nếu cứ nói mãi đến chuyện đó.”
Nàng đặt tay nàng lên tay tôi.
“Em vừa mới nhận hiểu ra là anh đã trở về. Thì lại đến lúc anh phải ra đi. Muộn quá!”
“Anh cũng cảm thấy thế.” Tôi nói, “Nhưng giờ thì ta hiểu rồi.”
“Hiểu ra thì muộn quá rồi,” Nàng thì thầm, “Và bây giờ anh lại ra đi.”
“Không muộn đâu em,” Tôi nói, “Giờ thì ta đã nhận thức suốt từ đầu đến cuối rồi. Nếu không thì anh có trở về không, và em có chờ đợi anh không?”
“Đâu phải lúc nào em cũng đợi?” Nàng nói.
Tôi không trả lời. Tôi cũng đã không phải lúc nào cũng trông về, nhưng tôi biết tôi không bao giờ chấp nhận như thế. Bây giờ lại càng không thế. Cả hai chúng tôi hoàn toàn trống trải, không phương tự vệ. Nếu có lúc nào chúng tôi được sống chung bên nhau, chúng tôi hẳn phải sống lại khoảnh khắc này trong một tiệm ăn ồn ào nào đó tại Munster để tìm lấy chút nghị lực và yên tâm. Sẽ như là tấm kính, chúng tôi có thể nhìn vào đó và nó phản chiếu lại cho chúng tôi hai hình ảnh: điều mà số phận muốn chúng tôi phải như thế và hình ảnh chúng tôi hiện bây giờ.
“Đến giờ em phải đi rồi đó.” Tôi bảo, “Đừng lái xe quá nhanh nghe em.”
Chúng tôi đứng ngoài con đường lộng gió giữa hai dãy nhà cũ kỹ.
“Anh nên cẩn thận thì có.” Nàng nói nhỏ, “Anh cần hơn.”
Tôi đứng trong phòng một lúc, sau không chịu được nữa, tôi ra ga lấy vé đi Munich và ghi chép giờ tàu đi đến. Đêm nay có một chuyến và tôi quyết định đáp chuyến ấy.
Thành phố ngủ yên. Tôi đi ngang qua giáo đường rồi dừng lại. Trong bóng tối tôi chỉ nhận ra được vài tòa nhà cổ kính trên quảng trường. Tôi nghĩ đến Helen và những gì sẽ xảy đến, những hình ảnh về tương lai trong tôi trở nên to lớn và mập mờ y như mấy khung cửa sổ đồ sộ cao ngất trên tiền sảnh tăm tối của ngôi giáo đường. Đưa nàng đi như thế có đúng không, tôi băn khoăn tự hỏi, hay chúng tôi sẽ gặp tai họa? Tôi đang phạm một tội ác một cách nông nổi hay chỉ là đón nhận một món quà vô tiền khoáng hậu? Hay cả hai?
Gần khách sạn tôi nghe có tiếng người thầm thì và bước chân đi. Hai tên lính SS bước ra khỏi nhà, đẩy một người đàn ông đi trước ra ngoài đường. Tôi trông thấy mặt ông ta trong ánh điện phố. Khuôn mặt nhỏ thó, trắng bệch như sáp, và một dòng máu đen nhỏ rỉ xuống cằm từ khóe miệng. Đôi mắt mở lớn đầy nỗi kinh hoàng như bao năm nay tôi chưa từng thấy. Chẳng một âm thanh nào thoát ra khỏi miệng. Hai tên lính SS xô đẩy lôi kéo ông ta, cử chỉ nóng nảy. Chúng thì chẳng thắc mắc gì, chẳng băn khoăn gì về chuyện bắt bớ. Nhìn cảnh quan ấy ta thấy có gì nghẹn ngào kỳ quái. Hai tên SS ném cho tôi những cái nhìn hung tợn thách thức lúc đi qua mặt. Và người tù nhìn tôi bằng đôi mắt tê dại, phác một tín hiệu như cầu cứu. Đôi môi mấp máy, nhưng chẳng có âm thanh nào lọt ra. Đây là một cảnh tượng cũ rích như loài người: đám con cưng của cường quyền bạo lực, nạn nhân, người thứ ba lúc nào cũng có, “nhân chứng này chẳng hề nhích ngón tay để bảo vệ nạn nhân, chẳng làm gì để giải thoát hắn, vì cũng lo sợ cho an toàn bản thân, một sự an toàn mà chính vì lẽ đó lúc nào cũng bị đe dọa. Tôi thừa biết tôi chẳng giúp gì được cho người đàn ông bị bắt. Hai tên SS vũ trang sẽ áp đảo tôi ngay một cách dễ dàng. Tôi chợt nhớ có người đã kể cho tôi nghe cảnh tượng giống như thế. Anh ta trông thấy một tên SS bắt giữ, đánh đập một người Do Thái nên chạy đến để cứu. Anh đánh gục tên SS bất tỉnh rồi bảo nạn nhân chạy đi. Nhưng tên Do Thái bị bắt lại mắng chửi kẻ giải thoát mình. Bấy giờ, anh ta nói, anh ta thật sự tiêu tùng rồi, anh bèn đi lấy nước để vỗ tên SS tỉnh lại để rồi tên này đưa anh ta đến chỗ chết. Câu chuyện trở về với tôi, nhưng mặc dầu vậy, tôi vẫn cảm thấy xấu hổ vì bất lực và sợ sệt. Tôi cảm thấy mình có tội và nông nổi, chỉ nghĩ đến an toàn của bản thân trong khi kẻ khác bị sát hại. Tôi đi về khách sạn, gom góp tư trang, đi tắc xi ra ga, tuy lúc ấy vẫn còn quá sớm. Ngồi trong phòng đợi ở ga nguy hiểm hơn ẩn mình trong phòng ở khách sạn, song chính đó lại là điều tôi muốn. Trò con nít thật, nhưng có mạo hiểm như thế mới phục hồi đôi chút lòng tự trọng của mình.