← Quay lại trang sách

Chương 8 -

Tôi ngồi trên tàu suốt đêm hôm đó và qua ngày hôm sau, và đến nước Áo chẳng gặp rắc rối gì. Báo chí đầy rẫy những bài tố cáo, phản đối và những bài tường thuật thường lệ về các sự cố biên giới thường xảy ra trước một cuộc chiến tranh, do đảng thiểu số gây nên, dĩ nhiên. Tôi thấy từng đoàn xe lửa chở đầy binh sĩ, nhưng phần đông những người tôi nói chuyện lại không có tin chiến tranh. Họ trông đợi một thỏa ước Munich mới. Họ tin cả phần châu Âu còn lại quá yếu kém và suy đồi không dám đương đầu với Đức trong cuộc chiến tranh. Tại nước Pháp thì lại rất khác, nơi đây mọi người biết là chiến tranh không tài nào tránh khỏi. Nhưng lúc nào cũng thế, phe bị đe dọa bao giờ cũng thông thạo hơn, và biết sớm hơn kẻ gây hấn.

Tôi đến Feldkirch và thuê phòng tại một khách sạn nhỏ. Dạo ấy là mùa hè, mùa du lịch, chẳng ai chú ý đến tôi. Hai chiếc va li tạo cho tôi vẻ bệ vệ đáng kính nể. Tôi quyết định vứt bỏ chúng và đi với hành trang nhẹ, cái ba lô là tốt nhất, vùng này đầy những người cắm trại. Tôi trả tiền phòng trước một tuần.

Qua ngày hôm sau tôi khởi hành. Tối trốn mãi đến nửa đêm trong một khu rừng thưa cách biên giới không xa. Tôi còn nhớ lúc đầu mấy con muỗi mắt đến quấy rầy tôi và tôi ngồi ngắm khá lâu con kỳ nhông trong vũng nước. Một con kỳ nhông có mồng. Chốc chốc nó trồi lên để thở và tôi thấy được da bụng lốm đốm vàng đỏ của nó. Tôi nghĩ, với nó thế giới ngừng lại bên vũng nước này. Theo chỗ nhận thức của nó, cái lõm nước nhỏ bé kia là Thụy Sĩ, Pháp, châu Phi và Yokohama gộp chung lại. Nó nhào lặn rồi nổi lên, nhào lặn rồi lại nổi lên, rất hài hòa với cảnh đêm hè.

Tôi ngủ vài tiếng đồng hồ rồi thức dậy chuẩn bị. Tôi rất tin tưởng. Mười phút sau một cảnh vệ hải quan xuất hiện cạnh tôi y như vừa mới dưới đất chui lên.

“Đứng lại! đừng nhúc nhích. Anh làm gì ở đây?”

Chắc hắn rình mò khá lâu trong bóng tối. Tôi cự nự lại rằng tôi là một người đi cắm trại vô hại, nhưng chẳng được ích gì.

“Muốn nói gì thì về ban chỉ huy,” Hắn bảo rồi lên cò súng, đẩy tôi lên phía trước về phía khu làng gần nhất.

Tôi bị chấn động, bàng hoàng. Tuy nhiên, một góc nhỏ bé trong bộ não tôi vẫn còn rất tỉnh táo và nghĩ cách thoát thân. Nhưng không thành vấn đề; tên cảnh vệ này rất thạo việc. Hắn đứng ngay sau lưng tôi một khoảng cách vừa phải; không cách gì bất ngờ tấn công hắn được, chưa kịp bước năm bước thì bạn bị bắn ngay.

Đến trạm hải quan, hắn mở cửa căn phòng nhỏ và ra lệnh:

“Vào đi và chờ đấy.”

“Bao lâu?”

“Đến khi người ta thẩm vấn anh.”

“Ông không thẩm vấn ngay được sao? Tôi có làm gì đâu?”

“Thế thì anh chẳng việc gì lo lắng.”

“Tôi chẳng lo lắng gì cả,” Tôi nói và tháo ba lô ra, “Nào ta bắt đầu đi.”

“Ta sẽ bắt đầu khi nào sẵn sàng,” Tên cảnh vệ nói với nụ cười để lộ nguyên cả hàm răng trắng một cách khác thường. Dáng dấp cung cách hắn giống một tay thợ săn, “Sáng mai vị sĩ quan phụ trách sẽ đến đây, Anh có thể ngủ trong ghế kia. Chỉ vài tiếng đồng hồ thôi. Hitler muôn năm!”

Tôi nhìn quanh phòng. Cửa sổ có chấn song, cửa ra vào rất chắc và được khóa từ bên ngoài. Tôi có thể nghe tiếng người đi lui đi tới phía bên kia tường. Trốn ra là không thành vấn đề rồi. Tôi ngồi chờ. Căn phòng tối tăm. Sau cùng bầu trời trở màu xám rồi dần dần đổi sang màu xanh sáng sủa. Tôi nghe có tiếng người và có mùi cà phê. Cửa mở. Tôi giả vờ như vừa mới thức giấc, và ngáp. Một viên sĩ quan hải quan bước vào người mập béo, mặt đỏ dữ, y có vẻ dễ dãi hơn chàng thợ săn.

“Chà, may quá,” Tôi nói, “Chỗ ngủ này thật là bất tiện.”

“Anh đang làm gì gần biên giới vào lúc ấy?” Y vừa hỏi vừa mở ba lô tôi ra, “Định trốn hả? Buôn lậu hả?”

“Ông có bao giờ nghe nói buôn lậu quần cũ không?” Tôi hỏi, “Hay buôn lậu áo sơ mi, chẳng hạn?”

“Có thể là không. Nhưng ban đêm anh làm gì ở đó?”

Y đặt ba lô tôi sang một bên. Tôi bỗng nhớ đến số tiền tôi đem theo trên người. Nếu y tìm ra là tôi đi đứt. Tôi mong sao y đừng kiểm tra người tôi.

“Tôi đang ngắm cảnh sông Rhin về đêm,” Tôi đáp lại vừa cười, “Tôi là khách du lịch mà. Cảnh thật lãng mạn.”

“Anh từ đâu đến?”

Tôi nói tên thành phố và khách sạn.

“Tôi đang tính trở về sáng nay,” Tôi nói, “Mấy xách đồ đạc vẫn còn ở đấy. Tôi đã trả tiền mướn phòng trước một tuần. Một tay buôn lậu có làm như vậy không?”

“Để còn xem lại đã.” Y bảo, “Trong một tiếng nữa tôi sẽ đến tìm anh. Chúng tôi sẽ trở lại và kiểm tra xem anh có gì trong mấy xách ấy.”

Đường xa. Gã béo dắt xe đạp theo và hút thuốc. Y cũng thế, cũng cảnh giác không kém gì chó cảnh sát. Nhưng rồi chúng tôi cũng đến nơi.

“Ông ấy kia kìa!” Có tiếng người la lớn từ cửa sổ khách sạn. Rồi bà chủ khách sạn chạy ùa ra, trong cơn xúc động mặt đỏ như củ cải đường. “Tạ ơn Chúa, chúng tôi cứ nghĩ có chuyện gì xảy ra cho ông. Ông đi đâu suốt đêm?”

Thấy giường tôi vẫn y nguyên, bà tưởng tôi đã bị giết. Chắc có một tên cướp nào còn lảng vảng trong vùng. Bà gọi cảnh sát. Viên cảnh sát theo bà ra ngoài. Y cũng một kiểu cách như tay thợ săn lúc nãy.

“Tôi lạc đường,” Tôi lấy hết bình tĩnh trả lời bà, “Mà đêm thì đẹp quá. Lần đầu tiên tử thuở bé đến giờ tôi mới ngủ ngoài trời. Thật là tuyệt. Rủi thay vì lầm lẫn tôi đến quá gần biên giới. Phiền bà nói với vị sĩ quan hải quan đây là tôi ở đây.”

Bà chủ khách sạn thỏa mãn lời yêu cầu của tôi. Viên sĩ quan hải quan ra vẻ bằng lòng nhưng viên cảnh sát vểnh tai nghe.

“Thế là anh cứ phất phơ quanh vùng biên giới này.” Hắn nói, “Anh có giấy tờ không? Mà thật ra anh là ai?”

Trong một lúc tưởng như tôi nghẹt thở. Tiền Helen cho tôi nằm trong túi áo bên trong, nếu chúng bắt được trên người tôi, chúng sẽ nghi tôi lén lút đem qua Thụy Sĩ và bắt tôi ngay tại chỗ. Và cái gì sẽ xảy ra tiếp theo? Tôi khai tên nhưng không đưa hộ chiếu ra. Người Đức và Người Áo không cần đến nó trên đất nước của họ.

“Làm sao chúng tôi biết anh không phải là tên cướp chúng tôi đang truy lùng?” Tên cảnh sát trông giống gã thợ săn hỏi.

Tôi cười.

“Có việc gì đâu mà cười?” Hắn tức giận nói, và bắt đầu kiểm tra mấy túi xách của tôi.

Tôi cứ giả vờ như đây chỉ là chuyện đùa, và nếu chúng thấy cần kiểm tra trên người tôi, tôi giải thích món tiền ấy bằng cách nào đây? Tôi quyết định khai tôi có ý định kiếm mua một bất động sản trong vùng phụ cận. Tên cảnh sát tìm thấy một bức thư trong túi bên hông ở cái xách. Tôi rất đỗi ngạc nhiên. Cái xách đó tôi mang từ Osnabruck đến. Tôi có quăng vào trong ấy chút ít đồ đạc tôi có trước kia, và Helen đưa nó lên xe. Tên cảnh sát bóc thư ra bắt đầu đọc. Tôi chăm chú nhìn hắn. Tôi không biết trong thư nói gì và chỉ hy vọng trong ấy chẳng có gì quan trọng.

Tên cảnh sát lẩm bẩm rồi nhìn lên.

“Anh tên Josef Schwarz?”

Tôi gật đầu.

“Tại sao anh không nói ngay?” Hắn hỏi.

“Tôi có khai rồi,” Tôi đáp, có đọc cái tiêu đề trên bức thư.

“Đúng thế.” Viên sĩ quan hải quan nói, “Anh ta có khai với tôi.”

“Thế thì bức thư này có liên quan gì đến anh?” Tên cảnh sát hỏi.

Tôi đưa tay ra. Hắn ngần ngừ một lúc rồi đưa cho tôi. Tôi nhìn vào tiêu đề: “Sở chỉ huy đảng Quốc xã Osnabruck.” Tôi từ từ đọc: “Chính quyền thành phố Osnabruck đề nghị các nhà chức trách liên hệ tận tình giúp đỡ đảng viên Josef Schwarz trong lúc đi đường vì công tác bí mật quan trọng. Ký tên Georg Jurgens, Trung tá.” Nét chữ do chính tay Helen viết. Tôi cầm lấy bức thư.

“Thế ra ông là ông Josef Schwarz?” Giọng tên cảnh sát lần này tỏ vẻ kính nể nhiều hơn.

Tôi đưa giấy hộ chiếu ra, lấy ngón tay chỉ vào tên tôi, rồi lại cất đi.

“Công tác mật của chính phủ,” Tôi nói.

“À, thì ra thế đấy.”

“Phải đúng như thế.” Tôi nói vẻ quan trọng, và nhét lá thư vào túi. “Tôi mong là anh thỏa mãn.”

“Vâng ạ,” Tên cảnh sát nheo một con mắt xanh nhạt của hắn lại. “Tôi hiểu. Quan sát vùng biên giới.”

Tôi nhấc tay lên ra hiệu.

“Tôi đề nghị anh đứng hé môi nghe. Bí mật đấy. Chính vì thế lúc nãy tôi không nói anh biết. Nhưng anh bạn đã móc được bí mật của tôi rồi. Này, anh có phải đảng viên không?”

“Tất nhiên,” Tên cảnh sát nói.

Đến lúc đó tôi mới để ý thấy hắn có mái tóc đỏ. Tôi vỗ vai hắn.

“Tốt lắm! Có chút đỉnh biếu hai anh. Hãy đi làm một ly vang sau bao nhiêu rắc rối này đi.”

Schwarz quay nhìn tôi với một nụ cười buồn bã.

— Kể cũng lạ thật. Bịt mắt những kẻ mà công việc là phải nghi ngờ mọi thứ sao mà dễ dàng thế. Ông có chút kinh nghiệm nào không?

— Không, nếu không có giấy tờ đầy đủ. - Tôi nói, - Nhưng tôi phải phục vợ ông. Chị ấy nghĩ bức thư kia có thể giúp ông.

— Chắc nàng nghĩ tôi không chịu nhận nó nếu nàng cho tôi biết. Có thể vì lý do đạo lý. Mà cũng có lẽ nàng nghĩ tôi sợ. Hiện giờ tôi đã có nó rồi. Dẫu sao nó đã một lần cứu mạng tôi.

Tôi lắng nghe Schwarz một lúc càng thích thú hơn. Lúc ấy tôi nhìn quanh. Một người Anh và nhà ngoại giao Đức đang ở trên sàn nhảy. Họ đang nhảy một điệu foxtrot và người Anh nhảy khá hơn. Người Đức cần nhiều không gian hơn. Y nhảy với dáng điệu hung hăng lì lợm, luôn luôn đẩy đào nhảy về phía trước mình như một khẩu pháo dã chiến. Trong bóng tối nhờ nhờ, tôi có cảm giác như một bàn cờ hiện hình vào lúc đó. Chốc chốc hai vua, vua Đức và vua Anh đi cạnh nhau một cách rất nguy hiểm; song người Anh cũng tìm được cách né tránh.

— Sau đó ông làm gì? - Tôi hỏi Schwarz.

Schwarz kể tiếp:

— Tôi về phòng, mệt đừ, muốn nằm nghỉ ngơi chút đỉnh và hồi tưởng lại các sự việc. Cách mà Helen đã cứu tôi không được dự kiến trước, như có bàn tay can thiệp của một đấng thần linh lật ngược một tình thế lúng túng vô vọng thành một kết thúc tốt đẹp. Nhưng rõ ràng tôi nên tiếp tục đi đường tôi trước khi tên cảnh sát kịp suy nghĩ lại. Tôi đành trông cậy vào vận may khi còn nó. Tôi hỏi thăm tàu lửa thấy có một chuyến tốc hành đi Thụy Sĩ trong một tiếng đồng hồ nữa. Tôi bảo bà chủ khách sạn tôi phải đi Zurich một ngày và chỉ đem theo một xách, nhờ bà trông hộ xách kia đến khi tôi trở về. Sau đó tôi ra ga. Có bao giờ ông làm việc này chưa? Tức là ông cẩn thận trong bao nhiêu năm rồi phạm phải sơ suất trong phút chốc?

— Có chứ, - Tôi đáp, - Nhưng đôi khi vì ông nghĩ sai. Ông cứ nghĩ số phận mắc nợ ông điều gì đó, song sự thực là nó chẳng mắc nợ ông điều gì cả.

— Tất nhiên là không, - Schwarz nói, - Nhưng có khi ta mất tin tưởng vào những phương sách cũ và quyết định mang ra thử nghiệm phương sách mới. Helen muốn tôi cùng nàng qua biên giới bằng xe lửa. Tôi lại không làm như thế, và chắc tôi toi mạng rồi nếu không có sáng kiến của nàng cứu tôi, bởi thế nên bấy giờ tôi nghĩ tốt hơn tôi nên làm theo cách của nàng.

— Thế ông có làm không?

Gã gật đầu, tiếp:

— Tôi lấy vé hạng nhất. Sang trọng lúc nào cũng gây tin tưởng. Tôi không nghĩ đến số tiền mang theo cho đến khi tàu chuyển bánh, không thể cất giấu nó trong khoang tàu, không phải chỉ có mình tôi. Tôi có bạn đồng hành, một người đàn ông nước da rất xanh và lộ vẻ lo lắng. Tôi vào thử phòng vệ sinh, nhưng cả hai phòng đều có người. Vào lúc này, tàu đã đến ga biên giới. Theo bản năng, tôi bước qua toa ăn uống. Ngồi vào chỗ, tôi gọi một chai rượu vang đắt tiền và hỏi bảng thực đơn.

“Ông có hành lý không?” Người phục vụ hỏi.

“Có, để trong toa kế.”

“Ông nên làm thủ tục hải quan trước có hơn không? Tôi sẽ giữ chỗ hộ ông.”

“Việc này mất nhiều thì giờ lắm đấy. Hãy mang cho tôi cái gì ăn trước đã. Tôi đói lắm. Tôi trả tiền trước, để anh chắc là tôi sẽ trở lại.”

Tôi hy vọng bọn lính biên phòng bỏ qua không kiểm tra toa ăn uống, nhưng đâu có được may như thế. Người phục vụ vừa đặt chai rượu vang và đĩa xúp lên bàn thì hai người mặc đồng phục bước đến ngay. Giữa lúc đó, tôi đã nhét tiền vào bên dưới tấm khăn trải bàn bằng nỉ và lá thư của Helen vào giữa tấm hộ chiếu.

“Giấy hộ chiếu,” Một trong hai tên lính biên phòng nói giọng quyết liệt.

Tôi chìa giấy của tôi.

“Không có hành lý?” Hắn hỏi trước khi mở thẻ thông hành.

“Chỉ có một cái va li.” Tôi đáp, “Ngay kế bên, toa hạng nhất.”

“Anh sẽ phải mở nó ra,” Tên lính biên phòng kia nói.

Tôi đứng dậy.

“Làm ơn giữ hộ chỗ tôi.” Tôi bảo người phục vụ.

“Vâng, dĩ nhiên, thưa ông. Ông đã trả tiền trước mà.”

Tên cảnh vệ hải quan nhìn tôi:

“Anh thanh toán tiền trước rồi?”

“Vâng có sao đâu? Nếu không thì làm sao tôi giữ nó được? Qua bên kia biên giới người ta phải trả bằng đồng franc Thụy Sĩ. Mà tôi lại chẳng có.”

Tên cảnh vệ hải quan bật cười.

“Ý kiến hay đấy.” Hắn nói, “Thế mà có người không nghĩ ra. Thôi xong rồi. Giờ tôi còn phải đi kiểm tra các hành khách khác.”

“Còn giấy hộ chiếu của tôi?”

“Đừng lo. Chúng tôi sẽ tìm gặp anh.”

Tôi trở về toa của mình. Ông bạn đồng hành của tôi vẫn còn ngồi đó, vẻ mặt trông càng thiểu não hơn bao giờ hết. Chốc chốc lại lấy chiếc khăn tay ướt đẫm lau lên mặt và đôi tay đang tháo mồ hôi. Tôi nhìn ra ga và mở cửa sổ. Không tài nào nhảy ra ngoài nếu tôi bị bắt; lẻn trốn là không thể được rồi, nhưng dẫu sao cũng có chút an ủi là cửa sổ để mở. Một tên cảnh vệ lù lù ở cửa.

“Cho xem hành lý!”

Tôi lấy va li xuống, mở ra. Hắn nhìn vào. Rồi hắn quay qua kiểm tra cái xách của người bạn tôi.

“Được,” Hắn nói rồi đưa tay chào.

“Hộ chiếu của tôi?”

“Bạn tôi cất giữ.”

Lát sau bạn hắn đến. Không phải viên sĩ quan đã lấy tấm hộ chiếu của tôi lúc nãy mà là một đảng việc mặc đồng phục đeo kính và mang ủng.

Schwarz mỉm cười:

— Dân Đức sao mà thích giày ủng thế!

— Chúng cần thế, - Tôi nói, - Để lội qua đám bùn rác rưởi chúng đã tạo nên.

Schwarz uống cạn ly. Hắn không uống nhiều. Tôi nhìn đồng hồ: ba giờ rưỡi sáng. Schwarz để ý thấy.

— Chẳng còn bao lâu nữa, - Hắn nói, - Ông có đủ thời giờ đáp kịp chuyến tàu. Rồi sau đó là hạnh phúc tốt lành. Biết sao nói cho hết được.

— Thế rồi làm sao ông qua trót lọt được? - Tôi hỏi.

— Người đàn ông có chân trong đảng đã đọc thư của Helen, trả hộ chiếu lại cho tôi, rồi hỏi tôi có quen ai ở Thụy Sĩ không. Tôi gật đầu.

“Ai?”

“Ammer và Rotenberg.”

Đó là hai tên quốc xã đang hoạt động tại Thụy Sĩ. Bất cứ dân tị nạn nào đã sống tại Thụy Sĩ đều biết chúng và căm thù chúng.

“Không còn ai khác?”

“Bà con tôi ở Bern. Tôi nghĩ chắc khỏi phải kể hết tên tuổi của họ ra đây?”

Hắn chào tôi.

“Chúc nhiều may mắn. Hitler muôn năm!”

Người bạn đường của tôi không được may mắn như thế. Anh ta phải trình tất cả giấy tờ và chịu cuộc thẩm vấn đến đổ mồ hôi và đâm ra lắp bắp. Nhìn anh ta tôi hết chịu nổi.

“Tôi qua toa ăn uống được chứ?” Tôi hỏi.

“Dĩ nhiên!” Anh ‘Đồng chí’ nói, “Chúc ông bữa ăn trưa ngon miệng.”

Toa hàng ăn đầy người trong lúc tôi vắng mặt. Một gia đình người Mỹ đã ngồi vào bàn của tôi.

“Tôi tưởng anh giữ chỗ cho tôi chứ?” Tôi nói với người hầu bàn.

Y nhún vai:

“Thưa ông tôi cũng đã tìm thấy cách đấy chứ. Nhưng với người Mỹ ta làm được gì? Họ không hiểu tiếng Đức và thích ngồi đâu là cứ ngồi. Sao ông không ngồi lại đằng kia? Chỉ cách một bàn thôi. Ông thấy chứ? Tôi sẽ mang rượu vang lại ông.”

Tôi chẳng biết làm sao nữa. Một gia đình bốn người chiến lấy bàn tôi. Một thiếu nữ mười sáu tuổi rất xinh ngồi đúng vào chỗ tôi giấu tiền. Tôi không thể cứ nằng nặc lấy lại bàn cũ, có thể sinh chuyện ồn hào không hay. Chúng tôi vẫn đang ở trên lãnh thổ nước Đức. Trong lúc tôi đứng đấy mải suy nghĩ để quyết định, người phục vụ nói:

“Xin mời ông ngồi vào cho. Tôi sẽ mời ông trở lại bàn cũ ngay khi họ đi. Người Mỹ ăn nhanh lắm. Sandwich và nước cam vắt thôi. Tôi sẽ dọn phục vụ cho ông bữa ăn trưa thật ngon.”

Chẳng còn làm gì khác được. Tôi ngồi vào ghế nơi tôi có thể trông chừng chỗ tôi cất tiền. Nghĩ đến thật buồn cười. Một phút trước đó tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả tiền bạc trên đời này để câu chuyện rắc rối được trót lọt. Giờ thì ý nghĩ duy nhất của tôi là làm sao lấy lại được số tiền kia qua biên giới, cho dẫu phải tấn công vào gia đình người Mỹ kia. Tôi ghé mắt nhìn ra ngoài thấy người đàn ông nhỏ bé vẻ lo lắng kia bị bắt đi. Cảm giác đầu tiên, tôi phải thú thật, là thấy nhẹ nhõm hẳn người vì không bị rơi vào hoàn cảnh của anh ta, sau đó mới là đôi chút thương xót nhưng trong những trường hợp như thế tình cảm chỉ lả một cố gắng giả dối để xa lánh vận rủi thôi. Tôi ghê tởm chính tôi, song tôi chẳng làm được gì, dẫu có muốn thế chăng nữa. Tôi muốn qua biên giới một cách an toàn và lấy lại số tiền. Đó chưa hẳn chỉ là tiền bạc mà còn có nghĩa là an toàn bản thân, là Helen, là những năm tháng sắp tới đây. Nhưng nó vẫn là tiền bạc, là da thịt của tôi, là niềm hạnh phúc vị kỉ của tôi. Không bao giờ ta thoát khỏi nó được. Nhưng bên trong chúng ta luôn luôn vẫn có một tay diễn viên xoàng xĩnh, giả dối và bất trị.

— Ông Schwarz à. - Tôi ngắt lời. - Ông lấy lại tiền bằng cách nào?

— Ông hỏi tôi mới nhớ ra, - Hắn nói, - Song những lời than trách lê thê này cũng là một phần câu chuyện đấy, ông ạ. Sĩ quan hải quan Thụy Sĩ bước vào toa ăn uống và gia đình người Mỹ chẳng những có hành lý xách tay mà có cả rương hòm trong toa hành lý. Họ phải đi thôi. Hai đứa con đi theo họ. Họ đã ăn xong. Bàn được dọn dẹp. Tôi bước qua đó, đặt tay lên khăn trải bàn và cảm thấy chỗ hơi cồm cộm. Người phục vụ một lần nữa lại chuyển rượu vang cho tôi.

“Hải quan xong xuôi cả chứ ông?” Y hỏi.

“Tất nhiên,” Tôi trả lời, “Làm ơn mang cho tôi tô thịt quay. Ta đến đất Thụy Sĩ chưa?”

“Chưa,” Y nói, “Ông hãy chờ đến lúc tàu chuyển bánh chạy tiếp đã.”

Nói xong, y bỏ đi về phía nhà bếp, và tôi chờ cho tàu chạy. Tôi chắc ông đã từng trải qua cái cảm giác nôn nóng đợi chờ tuyệt vọng sau cùng ấy. Qua cửa sổ tôi nhìn xuống đám người trên sân ga. Một anh chàng lùn tịt, áo xmôc kinh, quần quá ngắn, đẩy chiếc xe lui tới, đang rao inh ỏi món rượu vang Áo và chocolate của y. Người đàn ông sợ hãi cùng toa với tôi lúc nãy đã trở về. Anh ta đến một mình vẻ hấp tấp.

“Ông uống nhanh nhỉ,” Người hầu bàn đứng cạnh tôi nói.

“Cái gì?”

“Trông cứ tưởng như ông tìm cách dập một đám cháy vậy.”

Tôi liếc nhìn chai rượu. Nó gần cạn. Tôi cũng không nhớ là tôi đang uống rượu nữa. Vừa lúc đó, toa ăn uống lắc lư. Chai rượu đổ lăn ra. Tôi với tay chụp lấy. Con tàu bắt đầu chuyển bánh.

“Mang cho tôi thêm chai nữa.” Tôi nói.

Người hầu bàn chạy biến đi.

Tôi lấy tiền dưới khăn bàn cho vào túi. Lát sau, gia đình người Mỹ trở lại, ngồi vào bàn tôi đã chiếm lúc nãy và gọi cà phê. Cô gái chụp ảnh. Cô bé tinh ý lắm, tôi nghĩ. Phong cảnh đẹp nhất thế giới đấy.

Người hầu bàn trở lại với chai rượu tuyên bố:

“Chúng ta đã sang đất Thụy Sĩ rồi đấy.”

Tôi trả tiền rượu và cho y kha khá tiền boa.

“Giữ riêng lấy chai rượu.” Tôi nói, “Tôi không cần đến nữa. Lúc nãy tôi có ý uống mừng, nhưng rồi thấy chai trước là quá đủ cho tôi rồi.”

“Ấy vì ông uống lúc bụng trống,” Y giải thích.

“Phải, chắc thế,” Nói xong, tôi đứng dậy.

“Hôm nay là ngày sinh của ông?” Người hầu bàn nói.

“Không,” Tôi đáp, “Ngày đám cưới vàng[*] của tôi.”

Người đàn ông nhỏ thó trong toa tôi ngồi im lặng trong ít phút. Anh đã hết toát mồ hôi rồi, nhưng bảo áo quần anh vắt ra nước được thì cũng không ngoa lắm. Rồi anh cất tiếng hỏi:

“Ta đến Thụy Sĩ chưa?”

“Rồi,” Tôi đáp.

Anh lại rơi mình vào im lặng và nhìn qua cửa sổ. Chúng tôi ngừng lại một ga mang tên Thụy Sĩ. Trưởng ga Thụy Sĩ phất cờ. Hai viên cảnh sát người Thụy Sĩ đứng tán gẫu cạnh toa hành lý. Có một quầy bán chocolate và xúc xích Thụy Sĩ. Anh ta chồm người ra ngoài mua tờ báo Thụy Sĩ.

“Ta đang ở Thụy Sĩ chứ?” Anh hỏi cậu bán báo.

“Tất nhiên. Chứ còn đâu nữa? Mười rappen.”

“Cái gì?”

“Mười rappen. Mười xu. Giá tiền báo.”

Người đàn ông trả tiền tờ báo mà cứ y như là trúng số. Thấy tiền Thụy Sĩ chắc anh tin rồi. Trước đó anh không tin tôi. Anh mở tờ báo, đọc lướt qua rồi đặt xuống. Phải một lúc lâu tôi mới nghe ra anh nói gì. Tôi đang chan chứa tự do tới mức tiếng bánh xe như đang rập rình trong đầu. Rồi tôi thấy môi anh mấp máy mới biết anh sắp nói.

“Rồi thì tôi cũng thoát ra được.” Anh vừa nói vừa nhìn vào tôi. “Thoát khỏi cái đất nước đáng nguyền rủa của anh, thưa Ông-đồng-chí-đảng-viên, đất nước mà lũ lợn mà các anh đã biến thành trại lính và trại tập trung. Đây là Thụy Sĩ, đất nước tự do; chẳng có ai nhận lệnh nơi anh và những kẻ đồng loại với anh. Ở đây tôi thích gì nói nấy mà không sợ bị đánh rớt răng. Lũ các anh, phường trộm cắp, sát nhân, đao phủ, các anh đã biến nước Đức ra cái gì rồi?”

Nước bọt sùi hai bên mép, anh ta nhìn tôi như người đàn bà mắc chứng động kinh nhìn con cóc. Theo những điều nghe được, anh nghĩ tôi là người trong đảng. Tôi điềm tĩnh lắng nghe anh. Có điều là tôi mừng được an toàn.

“Anh là một người dũng cảm,” Tôi nói, “Tôi nặng hơn anh ít nhất hai mươi cân Anh và hơn anh sáu inch. Nhưng anh cứ nói cho thỏa thích đi, cứ dốc hết ra đi. Rồi anh sẽ thấy dễ chịu hơn.”

“Anh còn dám chế giễu tôi nữa à?” Anh ta hét lớn, giận dữ cùng cực, “Tôi sẽ không chịu thua đâu. Đây không còn là đất đai của quốc xã nữa. Các anh đã làm gì cha mẹ tôi? Cha già tôi đã làm gì các anh? Còn bây giờ! Bây giờ các anh lại muốn châm lửa đốt cháy cả thế giới sao?”

“Anh nghĩ sắp sửa có chiến tranh?” Tôi hỏi.

“Cứ như là anh không biết ấy.” Anh ta đáp, “Thế các anh còn có thể làm gì khác hơn nữa với cái đế chế ngàn năm và lực lượng vũ trang của các anh? đồ giết người! Nếu các anh không gây chiến tranh, cái nền thịnh vượng giả tạo của các anh sụp đổ ngay, kéo theo cả các anh nữa đó.”

“Tôi cũng cùng ý kiến với anh,” Tôi nói và cảm thấy ánh nắng chiều ấm áp tỏa nhẹ lên mặt như vuốt ve, “Nhưng nếu nước Đức thắng thì sao?”

Người đàn ông với bộ quần áo ẩm nhìn tôi nghẹn ngào.

“Nếu các anh thắng thì không còn Chúa nữa.” Anh ta nói với vẻ khó nhọc.

“Tôi hoàn toàn đồng ý với anh.” Nói xong, tôi đứng dậy.

“Đừng chạm vào người tôi,” Anh ta rít lên, “Anh bị bắt ngay. Tôi sẽ kéo bộ phanh cấp cứu, tôi sẽ tố cáo về anh. Dẫu sao cũng phải tố cáo anh, đồ gián điệp! Tôi đã nghe được anh nói gì rồi.”

Tôi chỉ cần có thế thôi, tôi nghĩ.

“Thụy Sĩ là một nước tự do,” Tôi nói, “Anh không thể căn cứ vào một lời tố cáo mà bắt người được. Anh đã tiếp thu một số suy nghĩ sai lầm ở nước Đức rồi đấy.”

Tôi lấy xách đi qua toa khác. Tôi nghĩ tốt hơn không nên tự giải thích cho người đàn ông đang nổi chứng động kinh ấy, nhưng tôi không thích ngồi với anh ta. Hận thù là một thứ a xít, nó xói mòn tâm hồn, dẫu nó đến từ anh ta hay từ phía người kia. Tôi học được điều đó qua những ngày tháng lang thang của tôi.

Và thế là tôi đến Zurich.